Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh đắk lắk...

Tài liệu Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh đắk lắk

.PDF
107
475
93

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ KHẮC ĐỨC PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ KHẮC ĐỨC PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƯƠNG THANH CƯỜNG ĐẮK LẮK – NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản Luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Lương Thanh Cường. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào. Các thông tin trích dẫn trong Luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Đắk Lắk, tháng 3 năm 2017 Học viên Lê Khắc Đức MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 Chương 1 ............................................................................................................ 8 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ......................................................................................... 8 1. 1. Khái quát chung về cưỡng chế thi hành án dân sự ............................. 8 1.2. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ....................................... 11 1.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự........................................................................................................... 18 TIỂU KẾT CHƯƠNG I ................................................................................... 22 Chương 2 .......................................................................................................... 23 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH ĐẮK LẮK ............................................................. 23 2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ..................... 23 2.2 Thực trạng tổ chức bộ máy thi hành án dân sự ở tỉnh Đắk Lắk và khái quát tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh thời gian qua ..................................... 37 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2................................................................................... 74 Chương 3 .......................................................................................................... 76 ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK ............ 76 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 76 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 82 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3................................................................................... 94 KẾT LUẬN LUẬN VĂN ................................................................................ 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97 DANH MỤC SƠ ĐỒ - BẢNG BIỂU Biểu đồ 2.1 Kết quả thi hành án về việc ....................................................... 43 Biểu đồ 2.2 Kết quả thi hành án về tiền ......................................................... 45 Biểu đồ 2.3 Kết quả thi hành án xong vềviệc ................................................ 45 Biểu đồ 2. Kết quả thi hành án xong về tiền ................................................ 45 Biểu đồ 2.5 Số việc cưỡng chế/số việc có điều kiện thi hành ....................... 48 Biểu đồ 2.6 Số việc cưỡng chế/số tiềncó điều kiện thi hành ......................... 48 Biểu đồ 2.7 Tỷ lệ cưỡng chế/số thi hành án xong ......................................... 49 Biểu đồ 2.8 Tỷ lệ tiền áp dụng BPCC/số thi hành án .................................... 49 Biểu đồ 2.9 Cơ cấu tỷ lệ việc THA chủ động và theo đơn yêu cầu .........................51 Biểu đồ 2.10 Cơ cấu tỷ lệ tiền THA chủ động và theo đơn yêu cầu........................51 Biểu đồ 2.11 So sánh chỉ tiêu đạt được với chỉ tiêu được giao về việc ........ 54 Biểu đồ 2.12 So sánh chỉ tiêu xong về tiền với chỉ tiêu được giao ........................55 Bảng 2.1 Chấp hành viên thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk ....................... 39 Bảng 2.2 So sánh kết quả chỉ tiêu THA về việc ............................................. 46 Bảng 2.3 So sánh kết quả chỉ tiêu THA về tiền ............................................. 46 Bảng 2. Cơ cấu tỷ lệ việc THA chủ động và theo đơn yêu cầu .................. 50 Bảng 2.5 Cơ cấu tỷ lệ tiền THA chủ động và theo đơn yêu cầu ................... 50 Bảng 2.6 Cơ cấu tỷ lệ việc THA chủ động và việc THA theo đơn yêu cầu .. 52 Bảng 2.7 Cơ cấu tỷ lệ tiền THA chủ động và tiền THA theo đơn yêu cầu ... 53 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện chủ trương xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự về một đầu mối theo các Nghị quyết của Đảng, nhất là từ năm 1993 đến nay (đặc biệt là vào thời điểm năm 2005, khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 9-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020), công tác thi hành án dân sự ngày càng được Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp và các Bộ, Ngành Trung ương quan tâm, nhiều văn bản pháp luật quan trọng về thi hành án dân sự đã được ban hành, đặc biệt là từ khi Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã xác định mô hình tổ chức bộ máy cơ quan Thi hành án dân sự theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 9-NQ/TW của Bộ Chính trị. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” [6, tr.4]. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những phương hướng cơ bản và tôn trọng, thượng tôn pháp luật là nguyên tắc mang tính nền tảng cho các hoạt động tổ chức và quản lý xã hội. Hiến pháp năm 2013, bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã dành nhiều quy định thể hiện sâu sắc và toàn diện nguyên tắc này trên tất cả các phương diện hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân như các quy định tại Điều 2, Điều , Điều 8, Điều 6, Điều 79 hay Điều 115. 1 Có thể nói, trong thực tiễn, vị trí thượng tôn của pháp luật chỉ có thể đạt được khi pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh và được các tổ chức, cá nhân tuân thủ một cách nghiêm túc, triệt để. Pháp luật nghiêm minh là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, ổn định, qua đó, góp phần quan trọng củng cố niềm tin của Nhân dân vào lẽ phải, lẽ công bằng, sự tiến bộ và tính ưu việt của chế độ. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, còn xảy ra xung đột trên các lĩnh vực như lao động, đất đai, môi trường, tài nguyên... Tòa án, thiết chế có nhiệm vụ bảo vệ công lý, là một cơ chế hữu hiệu có thể giúp giải quyết thỏa đáng, kịp thời, triệt để những mâu thuẫn, xung đột, hướng mọi thành viên xã hội vào yêu cầu tôn trọng lợi ích của nhau trên cơ sở pháp luật. Vì vậy, hoạt động xét xử của tòa án là hoạt động trực tiếp bảo vệ tính thiêng liêng và hiệu lực của pháp luật; Thi hành bản án, quyết định dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm hiện thực hóa những phán quyết của Tòa án vào thực tiễn cuộc sống; có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt động thi hành án dân sự không những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Có thể khẳng định rằng, thi hành án dân sự là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án một mặt đảm 2 bảo cho quyền lực Tư pháp được thực thi trên thực tế. Mặt khác, nó còn là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại. Hiệu quả của hoạt động thi hành án có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, có thể kể đến nguyên nhân cơ bản nhất là ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án còn hạn chế, họ thường có tâm lý chống đối, cản trở việc thi hành án, vì lúc này, lợi ích vật chất của họ bị định đoạt để đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án. Do mâu thuẫn về quyền, lợi ích giữa người được thi hành án và người phải thi hành án là đối lập, nên việc áp dụng biên pháp cưỡng chế thi hành án có thể xem như là biện pháp giải quyết cuối cùng của cơ quan Thi hành án dân sự nhằm thực thi Bản án, Quyết định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo công lý phải được thực thi trên thực tế. Hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động sâu rộng đến các quan hệ xã hội của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bản án. Đây cũng chính là công đoạn khó khăn, phức tạp nhất của quá trình giải quyết việc thi hành án. Do đó, vấn đề cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự. Đây là một vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự. Việc nghiên cứu kỹ biện pháp cưỡng chế giúp đem lại quyền và lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, từ tình hình thực tiễn công tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm Đề tài Luận văn tốt nghiệp. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự thì có nhiều bài viết của nhiều tác giả trong Ngành cũng như ngoài Ngành được đăng tải trên các báo, tạp chí khoa học, tài liệu chuyên Ngành. Bên cạnh đó, có nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, thạc sỹ về lĩnh vực Thi hành án dân sự, như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện (2000, Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự (2001, Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự (2002, Hà Nội)” của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận văn thạc sĩ luật học “Đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự ở Việt Nam (2003, Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học về “Đổi mới thủ tục Thi hành án dân sự ở Việt Nam (200 , Hà Nội)” của tác giả Lê Anh Tuấn; Luận văn thạc sĩ luật học “Giám sát Thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay (2005)” của tác giả Hoàng Thế Anh; Luận văn thạc sĩ luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay (2005)” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa; Luận văn thạc sĩ Luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (2007)" của tác giả Hoàng Kim Chiến; Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ở Việt Nam (2007)” của tác giả Nguyễn Quốc Việt; Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội (2010)” của tác giả Phạm Công Hùng; Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Kon Tum (2015)” của tác giả Tống Minh Lý,... Mặt khác, các trường đại học ngành Luật cũng đã chú trọng biên soạn giáo trình và tổ chức nghiên cứu, giảng dạy môn Thi hành án dân sự, như: trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Học 4 Viện Tư pháp. Các giáo trình đã nêu những vấn đề cơ bản, về Luật thi hành án dân sự; công tác thi hành án dân sự. Các Tạp chí khoa học như Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật... cũng có nhiều bài viết, nghiên cứu về lĩnh vực Thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, ít nhiều cũng đã có đề cập đến vấn đề vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Các luận văn, các công trình nghiên cứu, các bài viết,.... nêu trên đã đánh giá được thực trạng và một số hạn chế, bất cập trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, đồng thời đã đưa ra nhiều giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập đó. Tuy nhiên, trong số các công trình nêu trên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu ở bậc sau đại học về những vấn đề liên quan đến hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk. Luận văn này sẽ là công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về mặt lý luận và thực tiễn về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả, luận giải những vướng mắc, bất cập cả về lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn trong cưỡng chế thi hành án dân sự tại địa phương. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Nhiệm vụ: - Làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong quá trình giải quyết thi hành án. - Đánh giá thực trạng chung về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk. Phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được; những tồn 5 tại, hạn chế, vướng mắc và chỉ ra những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, vướng mắc. - Đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Luận văn được nghiên cứu thực hiện tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác cưỡng chế thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011 - 2016, đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện trong giai đoạn 2017 - 2021. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Để đạt được những mục đích đề ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong Luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài - Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận chung về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự. 6 - Nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk từ đó góp phần mang lại hiệu quả công tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn tới. 7. Bố cục của luận văn Nội dung của đề tài được trình bày trong 03 chương, cụ thể như sau Chương 1: Lý luận về pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk. Ngoài ra, luận văn còn có phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 7 Chương 1 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1. 1. Khái quát chung về cưỡng chế thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp nghiêm khắc được Chấp hành viên áp dụng trong quá trình tổ chức thi hành án, thể hiện việc cơ quan Thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên. Trên cơ sở các quy định hiện hành, có thể hiểu rằng, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan Thi hành án dân sự do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền, nhằm buộc đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản. Cụ thể hóa các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, Điều 71 Luật thi hành án dân sự quy định có 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án như sau [57, tr.39]: 1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. . Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 8 5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Từ các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự đã được quy định, có thể thấy chúng có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh Nhà nước. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải do cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện (bao gồm cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án quân khu và tương đương). Thứ hai, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định. Thứ ba, đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án. Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên, họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Thứ năm, các biện pháp cưỡng chế được Chấp hành viên quyết định áp dụng không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do đó, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định đó là Thứ nhất, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định. Thứ hai, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có 9 hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Thứ ba, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp người phải thi hành án tự nguyện đề nghị kê biên tài sản cụ thể trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại cho việc thi hành án và tài sản đó đủ để thi hành án, các chi phí liên quan (quy định tại Khoản Điều 2 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ) [26, tr.15]. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi hành án (khoản 1, Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ) [26, tr.9]. Thứ tư, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên. 1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Trong tổ chức thi hành án, Chấp hành viên chú trọng tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn, động viên người phải thi hành án tự giác, tự nguyện thi hành nghia vụ của mình, nhằm tạo ra ý thức về lối sống cộng đồng, ý thức pháp 10 luật của mỗi công dân, tạo ra thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết, đảm bảo vì lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, giữ nghiêm kỷ cương phap luật chung của nhân dân, xã hội, nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá nhân. Không áp dụng cưỡng chế, hay coi nhẹ nó cũng có nghĩa là buông nhẹ kỷ cương dẫn tới tình trạng vô Chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Điều quan trọng là, không được lạm dụng sử dụng biện pháp cưỡng chế để giải quyết toàn bộ các việc thi hành án, điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, không đúng với bản chất nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân. 1.2. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 1.2.1. Khái niệm Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là các quy định của pháp luật quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự. Các quy định này được cụ thể hóa trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn chuyên ngành). Các quy định này nêu rõ những hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện việc cưỡng chế; quy định rõ ai là người có thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai, đối tượng bị cưỡng chế là gì, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự. Có thể hiểu rằng, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là tập hợp các chế định được về cưỡng chế thi hành án dân sự được nhà nước quy định cụ thể về cách thức sử dụng và hình thức sử dụng pháp luật để xử lý tài sản của người phải thi hành án hoặc bắt buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình theo nội dung Bản án, quyết định đã tuyên. 1.2.2 Vai trò 11 Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự. Thông qua các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước xác định rõ quyền lực của nhà nước bằng việc, cho phép cơ quan Thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp cưỡng chế, xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí là đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi chống đối, các hành vi vi phạm các quy định về thi hành án dân sự. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự xác định rõ các quyền năng của cơ quan nhà nước, của cơ quan Thi hành án dân sự và của Chấp hành viên trong việc buộc người phải thi hành án phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo nội dung Bản án, quyết định đã tuyên, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước và của công dân. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự còn là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô cả nước, đồng thời đó cũng là phương tiện để nhà nước kiểm soát các hoạt động của Chấp hành viên, của các tổ chức, các cơ quan và mọi công dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự. Bằng các quy định cụ thể trong Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành cùng các quy định có liên quan, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đã góp phần làm rõ thêm các chủ trương, chính sách của nhà nước, đặc biệt là chủ trương xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều phải chấp hành các quy định của pháp luật nói chung, trong đó bao gồm các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, mọi người đều phải chấp hành tính thượng tôn pháp luật. Điều đó 12 cũng có nghĩa rằng, với tư cách là người trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước, Chấp hành viên cũng phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Chính các quy định này là ranh giới xác định phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, để Chấp hành viên không thể lạm quyền, không thể tùy tiện sử dụng quyền lực nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ của mình. Là quy phạm pháp luật, nên pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có những đặc điểm chung, mang tính phổ biến, thống nhất, được quy định trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó hàm chứa các quy tắc mang tính chất mẫu mực, khuôn thước để Chấp hành viên thực hiện đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Dựa trên các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, Chấp hành viên cũng như đương sự và các chủ thể khác tham gia vào quá trình thi hành án biết được được quyền, nghĩa vụ của mình, biết mình được làm những gì, không được làm gì và phải làm như thế nào. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có tính bắt buộc chung. Việc thực hiện các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi người, dù muốn hay không muốn tất cả mọi người tham gia việc cưỡng chế thi hành án đều phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, không phân biệt giữa người này hay người khác. Các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mang tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện, được thực hiện bởi Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự, với sự tham gia phối hợp, hỗ trợ thực hiện của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. 1.2.3. Nội dung pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 1.2.3.1. Quy định về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự: 13 Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, thì hệ thống cơ quan thi hành án dân sự bao gồm cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan Thi hành án dân sự [57, tr.7]. Cơ quan quản lý Thi hành án dân sự gồm có: cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương. Quy định về Chấp hành viên Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn như sau [57, tr.11]: 1. Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. 2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên. 3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án. . Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh 14 địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án. 5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án. 6. Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. 7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. 8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. 9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ. 10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong thi hành án dân sự [57, tr.78]: Thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước; Chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thi hành án dân sự; Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan