LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Chu Văn Thái
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về cổ phần hóa
5
Ngân Hàng Thƣơng Mại nhà nƣớc
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vai trò của ngân hàng thương mại nhà
nước
5
1.1.1. Khái niệm
5
1.1.2. Đặc điểm
6
1.1.3. Vai trò
7
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, phương thức cổ phần hóa ngân hàng
thương mại nhà nước
8
1.2.1. Khái niệm
8
1.1.2. Đặc điểm
10
1.2.3. Phương thức cổ phần hóa
12
1.3.
Các nhân tố tác động đến cổ phần hóa ngân hàng thương
mại nhà nước
13
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
13
1.3.2. Các nhân tố khách quan
19
1.4.
Các quy định pháp luật về cổ phần hóa ngân hàng thương
mại nhà nước ở Việt Nam hiện nay
19
1.4.1. Quy định về điều kiện và hình thức cổ phần hóa
20
1.4.2. Quy định về xử lý hành chính
21
1.3.2. Quy ®Þnh vÒ ®Þnh gi¸ ng©n hµng khi cæ phÇn hãa
27
1.4.4. Quy định về bán cổ phần, quản lý và sử dụng vốn nhà nước,
tỷ lệ cổ phần cho các loại cổ đông
32
1.4.5. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông
41
1.4.6. Chính sách với doanh nghiệp và người lao động khi sau cổ
phần hóa
43
1.4.7. Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại
nhà nước sau cổ phần hóa
46
Chương 2:
Kinh nghiệm một số nƣớc về cổ phần hóa Ngân hàng
49
thƣơng mại nhà nƣớc và thực trạng tái cơ cấu chuẩn bị
cho cổ phần hóa của các Ngân hàng thƣơng mại nhà
nƣớc ở Việt nam hiện nay
2.1.
Kinh nghiệm một số nước về cổ phần hóa ngân hàng thương
mại nhà nước
49
2.1.1. Lý do của sự tồn tại phổ biến hình thức sở hữu nhà nước các
ngân hàng thương mại trong lịch sử
49
2.1.2.
Lý do các quốc gia tiến hành cổ phần hóa ngân hàng thương
mại nhà nước
50
2.1.3. Thực trạng cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước
trên thế giới
51
2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ quá trình cổ phần hóa
ngân hàng thương mại nhà nước của các nước
58
2.2.
61
Thực trạng tái cơ cấu chuẩn bị cho cổ phần hóa của các ngân
hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long
62
2.2.2.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
63
2.2.3.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
64
2.2.4.
Ngân hàng Công thương Việt Nam
66
Chương 3: một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ
68
phần hóa Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc
Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần
hóa ngân hàng thương mại nhà nước
68
3.1.1. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước
68
3.1.2. Yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và cam kết cải cách hệ
thống Ngân hàng Việt Nam khi gia nhập WTO
70
3.2.
72
3.1.
Những kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện các
quy định của pháp luật về cổ phần hóa ngân hàng thương
mại nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa
72
3.2.2. Về lộ trình cổ phần hóa
76
3.2.3. Quy định về bán cổ phần
77
3.2.4. Tỷ lệ cổ phần cho các loại cổ đông
78
3.2.5. Quy định về chính sách với doanh nghiệp và người lao động
khi sau cổ phần hóa
81
3.2.6. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông
82
3.2.7. Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại
sau cổ phần hóa
83
3.2.8. Tiền thu được từ cổ phần hóa
87
KẾT LUẬN
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Agribank : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
CPH
: Cổ phần hóa
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT
: Hội đồng quản trị
ICB
: Ngân hàng Công thương Việt Nam
MHB
: Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN : Ngân hàng thương mại nhà nước
SHNN
: Sở hữu nhà nước
TCTD
: Tổ chức tín dụng
TNH
: Tư nhân hóa
VCB
: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
Nghị định 187:
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính
phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần
Nghị định 69:
Nghị định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính
phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các
NHTM Việt Nam
Nghị định 109:
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của
Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước thành công ty cổ phần
Thông tư số 95: Thông tư số 95/2004/TT-BTC ngày 12/10/2004 của Bộ
Tài chính, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 hướng dẫn thực
hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ
phần
Thông tư số 126:
Thông tư số 126/2004/TTBTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta trong hai mươi năm qua đã
đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Tốc độ phát triển kinh tế cao trên
7%/năm trong một thập kỷ trở lại đây, thu nhập đầu người đạt khoảng 800
USD/ năm (năm 2007), Việt Nam đã dần thoát khỏi tình trạng kém phát
triển và nổi nên như một điển hình kinh tế năng động của khu vực Đông
Nam Á. Trong thành tựu trung đó, ngành Ngân hàng đã và đang đóng góp
một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là hệ thống NHTMNN.
Chiếm tới 76% vốn huy động và 73.5% tổng dư nợ cho vay của toàn hệ
thống (tính đến 2005) các NHTMNN đã thể hiện được vai trò đầu tầu của
hệ thống NHTM trong việc huy động vốn phục vụ mục tiêu phát triển kinh
tế và đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các chính sách chính trị xã hội của Đảng và Nhà nước vì một xã hội công bằng và văn minh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, hệ thống NHTMNN đã bộc lộ rõ những nhược điểm cố hữu: vốn tự có
nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ lệ nợ xấu rất cao, năng lực quản trị yếu kém,
các tiêu chuẩn an toàn so với tiêu chuẩn quốc tế còn một khoảng cách rất xa…
Tất cả những hạn chế đó đã đặt các NHTMNN trước những rủi ro nghiêm
trọng và có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống. Điều đó đặt ra yêu
cầu bức thiết là phải cải cách triệt để hệ thống NHTM nhà nước để các
ngân hàng này thực sự được lành mạnh hóa và vững vàng đón nhận những
cơ hội cũng như thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh
hiện nay, CPH các NHTMNN là chủ trương, chính sách được Đảng và Nhà
nước ta lựa chọn. Thực tế cũng như nhìn nhận của giới quan sát nước ngoài
đều cho thấy đây là một quyết sách đúng đắn.
Trong lĩnh vực luật học, những năm gần đây đã có một số công
trình khoa học pháp lý nghiên cứu về CPH DNNN, trong đó có các
NHTMNN. Tuy nhiên, cổ phần hóa NHTMNN là một vấn đề còn mới mẻ
ở nước ta. Chúng ta vẫn đang trong quá trình thí điểm, vừa làm vừa hoàn
thiện, điển hình là trường hợp thí điểm CPH VCB đã được bắt đầu tiến
hành từ 2004, nhưng đến nay vẫn chưa CPH xong. Do đó, quá trình CPH
NHTM đã và đang còn rất nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ đặc biệt là về các
quy định pháp luật. Các quy định chung về CPH DNNN có nhiều điểm tỏ
ra bất cập khi áp dụng vào CPH NHTM, ví dụ vấn đề xác định giá trị của
NHTM, vấn đề xử lý tài chính, tỷ lệ cổ phần của nhà nước… Trong khi đó,
yêu cầu CPH NHTM là đang rất cấp bách nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của các NHTM khi chúng ta mở cửa thị trường tài chính và theo lộ
trình của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như các cam kết
khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài "Pháp luật về cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước
ở Việt Nam" cho luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về CPH DNNN nói chung và
NHTM nhà nước nói riêng.
- Hệ thống hóa những quy định pháp luật về CPH DNNN nói
chung và NHTMNN nói riêng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm CPH NHTMNN ở một số nước
- Phân tích các quy định pháp luật về CPH NHTMNN ở Việt Nam.
- Đề ra các kiến nghị và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
các quy định pháp luật về CPH NHTMNN ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình
CPH DNNN, trong đó, tập trung đi sâu vào nghiên cứu quá trình CPH các
NHTMNN ở nước ta. Luận văn sẽ chú trọng nghiên cứu thực tế quá trình
thí điểm CPH hai NHTMNN đầu tiên là VCB và MHB, để từ đó làm sáng
tỏ các vấn đề lớn của quá trình CPH các NHTMNN của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Các quy định pháp luật về CPH DNNN do
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó chú trọng đến các
quy định áp dụng đối với CPH NHTMNN. Các quy định về CPH NHTM
của các nước, đặc biệt là của Trung Quốc (quốc gia có nhiều điểm tương
đồng về kinh tế, văn hóa, chính trị với Việt Nam) sẽ được sử dụng trong
nghiên cứu như là sự so sánh, đối chiếu để từ đó tìm những điểm tích cực
cũng như những vấn đề cần phải hoàn thiện của các quy định về CPH
NHTMNN của Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm và chính sách, pháp luật
về CPH DNNN của Đảng và Nhà nước đã ban hành.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền
thống, cơ bản như: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…
- Bên cạnh đó luận văn chú trọng đến phương pháp nghiên cứu
thực tế. Việc tìm hiểu quá trình CPH NHTMNN của một số quốc gia trên
thế giới; phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CPH NHTMNN ở nước
ta, đặc biệt là việc thí điểm CPH VCB và MHB sẽ là những kinh nghiệm
quý báu cho việc hoàn thiện pháp luật về CPH NHTMNN ở Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
- Việc phân tích và đánh giá thực trạng CPH NHTMNN sẽ tạo
được cái nhìn tổng quan về quá trình CPH NHTMNN ở nước ta.
- Hệ thống hóa được các quy định pháp luật về CPH DNNN nói
chung và NHTMNN nói riêng.
- Từ việc nghiên cứu để tìm ra những mặt tích cực cũng như những
vấn đề còn chưa hoàn thiện, bỏ ngỏ của quy định pháp luật về CPH
NHTMNN của Việt Nam, những kiến nghị, đề xuất cụ thể của luận văn góp
phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CPH NHTMNN nói riêng và
CPH
DNNN
nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về CPH
NHTMNN.
Chương 2: Kinh nghiệm một số nước về CPH NHTMNN và thực
trạng tái cơ cấu chuẩn bị cho CPH các NHTMNN ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
CPH NHTMNN.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI NHÀ NƢỚC
1.1.1. Khái niệm
NHTM nói chung và NHTMNN (hay quốc doanh) nói riêng là một
khái niệm xuất hiện chưa lâu ở Việt Nam. Trước đây, khi thực hiện chế độ
Ngân hàng một cấp thì NHNN Việt Nam là ngân hàng duy nhất thực hiện
vai trò chức năng của cả Ngân hàng trung ương và NHTM. Kể từ khi có
Nghị định số 53/1988/NĐ-HĐBT ngày 26/3/1988 về việc hình thành hệ
thống Ngân hàng hai cấp thì khái niệm NHTM mới xuất hiện.
Theo Khoản 2, Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, sửa
đổi, bổ sung năm 2004 thì "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên
quan".
Theo Khoản 1, Điều 20, Luật Tổ chức tín dụng năm 1997, sửa đổi,
bổ sung năm 2004, TCTD là "doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng".
Theo Khoản 7, Điều 20, Luật này thì "Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán".
Theo Khoản 2, Điều 4, Nghị định số 49/2000/NĐ-CP về tổ chức và
hoạt động của ngân hàng thương mại thì "Ngân hàng thương mại là ngân
hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác liên quan, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế khác của Nhà nước."
Theo Khoản 22, Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì "Doanh
nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn
điều lệ".
Do vậy, NHTMNN có thể định nghĩa là NHTM được Nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và góp phần
thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, NHTMNN trước tiên là một NHTM. Điều này có nghĩa
là NHTMNN tổ chức và hoạt động theo mô hình của NHTM, thực hiện đầy
đủ các hoạt động nghiệp vụ, mục tiêu, chức năng của NHTM. Đó là doanh
nghiệp được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác
có liên quan, trong đó nội dung hoạt động chính là nhận tiền gửi, sử dụng
chúng để cấp tín dụng cho khách hàng và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
NHTM là một loại hình doanh nghiệp rất đặc thù của nền kinh tế do đối
tượng kinh doanh của nó là tiền tệ một loại hàng hóa đặc biệt, do đó, hoạt
động của nó có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, NHTMNN là NHTM do Nhà nước nắm quyền chi phối về
vốn. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, thì tỷ lệ vốn tối thiểu của
Nhà nước tại DNNN là 50%. Nhưng cho đến nay, Việt Nam có 5
NHTMNN là: VCB, MHB, ICB, BIDV, Agribank thì Nhà nước vẫn nắm
100% vốn. Do đó, Nhà nước là người nắm hoàn toàn quyền quản lý, điều
hành bao gồm việc bổ nhiệm bộ máy lãnh đạo, quyết định phương án kinh
doanh, quản lý hoạt động...
Thứ ba, Hoạt động của NHTMNN không chỉ hướng tới mục tiêu lợi
nhuận mà còn góp phần thực hiện đường lối chính sách nhà nước, góp phần
thực hiện các mục tiêu xã hội. Đây là đặc điểm đặc thù của NHTMNN. Các
NHTM khác đơn thuần là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ
ngân hàng, do đó, mục tiêu chỉ là tìm kiếm lợi nhận hợp pháp, các mục tiêu
khác, trong đó có mục tiêu xã hội chỉ là mục tiêu phụ (chủ yếu nhằm quảng
bá doanh nghiệp) và hoàn toàn tự nguyện. Với NHTMNN thì việc thực
hiện các mục tiêu chính trị - xã hội là một trong những mục tiêu hoạt động
chính và trong nhiều trường hợp còn lấn át mục tiêu lợi nhuận. Mặc dù
trong quá khứ điều này có nhiều điểm tích cực nhưng hiện nay NHTMNN
cần phải được cải tổ để thực sự là một NHTM, tức là doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng, hoạt động tuân thủ các quy
luật của nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, NHTMNN hiện nay đang nắm vai trò chủ đạo trong lĩnh
vực ngân hàng tại Việt Nam: chiếm tới 76% vốn huy động và 73.5% tổng
dư nợ cho vay của toàn hệ thống (tính đến 2005). Điều này có nghĩa là hoạt
động của NHTMNN có tầm ảnh hưởng chi phối, trong một số trường hợp
là quyết định đến thị trường tiền tệ của nền kinh tế nước ta.
1.1.3. Vai trò
NHTMNN đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng với sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Vai trò quan trọng này được thể
hiện:
Thứ nhất, NHTMNN là một kênh huy động vốn hiệu quả phục vụ
sự phát triển kinh tế đất nước. Trước đây, khi mà thị trường chứng khoán
Việt Nam chưa phát triển, hoạt động của các NHTMCP còn nhỏ bé và hạn
hẹp, chi nhánh NHTM nước ngoài còn hoạt động rất hạn chế thì NHTMNN
là kênh huy động vốn chủ lực và hiệu quả nhất. Các công trình trọng điểm
đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu hầu hết được thực hiện từ
nguồn vốn huy động của NHTMNN. Mặc dù gần đây, thị phần của
NHTMNN có giảm đi tương đối song năm 2006, theo số liệu của Vụ chiến
lược và phát triển ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, NHTMNN
vẫn chiếm khoảng 70% thị phần huy động và 60% thị phần cho vay của toàn
bộ hệ thống tín dụng Việt Nam.
Thứ hai, NHTMNN góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính quốc
gia hợp lý, là trung gian trong việc luân chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa vốn
đến nơi thiếu vốn. Vai trò này có được là bởi các NHTMNN có hệ thống
chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh của đất
nước.
Thứ ba, NHTMNN góp phần thực hiện các chính sách chính trị - xã
hội của Nhà nước. NHTMNN là lực lượng chủ yếu tham gia góp vốn đầu
tư vào các công trình quốc gia đòi hỏi vốn đầu tư lớn, lợi nhuận thấp hoặc
không có lợi nhuận, những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân không đủ
sức hoặc không muốn tham gia, nhưng lại có hiệu quả kinh tế - xã hội lâu
dài và to lớn. Ví dụ, NHTMNN tham gia các chương trình cho vay chính
sách nhằm xóa đói - giảm nghèo cho nông dân, cho vay hỗ trợ xuất khẩu có
độ rủi ro cao…Vai trò này của NHTMNN là rất to lớn, đặc biệt là trước
đây.
Thứ tư, NHTMNN là công cụ hiệu quả để Chính phủ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia một cách gián tiếp cũng như trực tiếp. Do các
NHTMNN chiếm thị phần chủ đạo trên thị trường nên việc tác động vào
NHTMNN qua các công cụ điều hành thị trường, có khi bằng cả mệnh lệnh
hành chính, sẽ tác động nhanh chóng và mạnh mẽ đến thị trường tài chính
tiền tệ. Tuy nhiên, cũng như tham gia vào việc thực hiện các chính sách
chính trị - xã hội của Nhà nước, việc NHTMNN được coi là công cụ trực
tiếp để thực hiện chính sách tiền tệ và các mục tiêu chính trị - xã hội là việc
trái với quy luật của kinh tế thị trường và trái với bản chất của NHTM. Mặc
dù trong quá khứ điều này có những điểm cần phải được nhìn nhận là tích
cực nhưng để xây dựng một hệ thống NHTM đáp ứng được yêu cầu của hội
nhập kinh quốc tế hiện nay và tương lai, các điểm yếu trên cần phải được
sớm khắc phục.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHƢƠNG THỨC CỔ PHẦN HÓA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm
Cổ phần hóa (Equitization) và tư nhân hóa (Privatization) là hai
khái niệm được nhắc đến nhiều ở nước ta trong khoảng một thập kỷ trở lại
đây. Trên thế giới, hai khái niệm này đã xuất hiện từ lâu và đến những năm
80 của thế kỷ trước, CPH và TNH các DNNN, trong đó có các NHTMNN,
đã trở thành hiện tượng phổ biến trên thế giới. Đặc biệt nó diễn ra mạnh mẽ
ở Mỹ Latinh, Đông Âu và Liên Xô (sau sự tan rã của hệ thống XHCN).
Để hiểu một cách đầy đủ khái niệm CPH DNNN, đặc biệt là trong
bối cảnh của Việt Nam, trước tiên chúng ta cần tiếp cận một số khái niệm
liên quan đến nó:
Khái niệm doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005,
doanh nghiệp được định nghĩa là "tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". Dựa theo
tiêu chí quan hệ sở hữu, doanh nghiệp được chia làm ba hình thức:
- Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ (Luật Doanh nghiệp năm 2005). NHTMNN là
một loại hình đặc biệt của DNNN.
- Doanh nghiệp sở hữu tư nhân là doanh nghiệp do một hay một số
tư nhân nắm toàn bộ quyền sở hữu như công ty tư nhân, công ty hợp danh,
công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân…
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia
làm nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần, cổ đông có thể là tổ chức,
cá nhân; số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông
có quyền và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
đã góp vào doanh nghiệp (theo Khoản 1, 2, 3, Điều 77 Luật Doanh nghiệp
năm 2005).
Từ những nhận thức trên ta có thể đưa ra khái niệm về CPH
NHTMNN như sau: CPH NHTMNN là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp
từ sở hữu 100% vốn nhà nước sang đa sở hữu qua hình thức phát hành cổ
phiếu, qua đó, các tổ chức và cá nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế khác
nhau sẽ cùng sở hữu ngân hàng.
CPH DNNN đã có một thời gian được coi là vấn đề nhạy cảm vì
kinh tế nhà nước ở nước ta gắn liền với chế độ XHCN. Chúng ta ngần ngại
không muốn CPH vì chúng ta sợ việc CPH đồng nhất với quá trình TNH và
như vậy sẽ chệch hướng XHCN. Bài học đắt giá của sự sụp đổ của chế độ
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cùng với đó là các công ty nhà nước bị bán
với giá rẻ mạt cho các nhà tư bản khiến nhiều người trong chúng ta lo sợ
kịch bản đó cũng xảy ra ở Việt Nam.
Vậy CPH có đồng nhất với TNH hay không? Cho đến nay, quan
điểm của Nhà nước ta cũng như của đa số các nhà luật học và kinh tế học
của Việt Nam cho rằng CPH DNNN ở Việt Nam không đồng nhất với
TNH. Lý luận kinh điển của Các Mác đã chỉ ra và khẳng định: công ty cổ
phần là một bước tiến của lực lượng sản xuất từ sở hữu tư nhân sang sở
hữu tập thể của các cổ đông. CPH ở Việt Nam có bản chất là sự chuyển đổi
doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang chế độ đa sở hữu, trong đó, các
thành phần kinh tế khác nhau, thuộc các hình thức sở hữu khác nhau, cùng
là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Như vậy, ở góc độ kinh tế, CPH là sự đa
dạng hóa chế độ sở hữu, là sự xã hội hóa tư liệu sản xuất, tạo nên sự kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của nhà nước, người lao động và nhà đầu tư nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ở góc độ xã hội, nó mang
lại quyền làm chủ thực sự cho người lao động. Còn TNH là việc chuyển đổi
sở hữu nhà nước sang sở hữu của một nhóm cá nhân nhỏ mà bản chất là
bán DNNN cho các nhà tư bản, người lao động trở thành những người làm
thuê thực sự.
1.2.2. Đặc điểm
CPH là một sự thay đổi về chất đối với NHTMNN nhất là trong vấn
đề phương thức và hình thức quản lý. Đây là một sự thay đổi mạnh mẽ,
triệt để, được gọi là "thay máu" cho các NHTM này. CPH các NHTMNN ở
Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, CPH NHTMNN là sự thay đổi hình thức sở hữu và
phương thức quản lý đối với NHTMNN. Khi chưa CPH, NHTMNN là
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, Nhà nước nắm toàn bộ quyền quản trị
điều hành ngân hàng. Xét ở góc độ quản lý, mục tiêu hoạt động, cơ cấu tổ
chức, NHTMNN không phải là một doanh nghiệp theo đúng nghĩa. Cũng
như các tổng công ty khác, nó là một dạng tổ chức kinh tế - chính trị đặc
biệt mà mô hình này chỉ có ở các nước XHCN. Sau CPH, trên phương diện
lý thuyết, NHTMNN là một doanh nghiệp thực sự, một công ty cổ phần đa
sở hữu, trong đó, các thành phần kinh tế đáp ứng đủ yêu cầu luật định đều
tham gia sở hữu và quản lý ngân hàng.
Thứ hai, CPH NHTMNN ở nước ta là một hoạt động chưa có tiền
lệ, do đó, nó là một quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện
với nhiều bước thí điểm và trong nhiều trường hợp là "thực tiễn quyết định
lý luận". Đặc điểm này khiến cho quá trình CPH các NHTMNN diễn ra lâu
hơn rất nhiều so với kế hoạch đề ra và phải thay đổi rất nhiều để phù hợp
với hoàn cảnh thực tế. Chúng ta đã lên kế hoạch CPH các NHTMNN từ
năm 2004 nhưng đến nay vẫn chưa một ngân hàng nào được CPH.
Thứ ba, CPH NHTMNN ở nước ta được Đảng và Nhà nước thực
hiện trên phương châm thận trọng, vững chắc, đảm bảo các mục tiêu cơ bản
đặt ra cho CPH phải đạt được nhưng không chệch hướng XHCN. Điều này
xuất phát từ lý do NHTMNN là doanh nghiệp đặc thù: có đối tượng kinh
doanh là tiền tệ, hoạt động chính là nhận tiền gửi sau đó sử dụng tiền này
để cấp tín dụng cho khách hàng với khối tài sản có và tài sản nợ cực lớn.
Do đó, bất cứ sự thay đổi không thuận chiều nào của các NHTM này sẽ gây
ra hiệu ứng dây chuyền không chỉ cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng mà
còn với cả nền kinh tế. Mặt khác, quá trình CPH các DNNN trước đó đã để
lại nhiều bài học sâu sắc về việc tư nhân hóa, cổ phần hóa khép kín, bán rẻ
doanh nghiệp… Điều này đã buộc quá trình CPH các NHTMNN phải rút
được kinh nghiệm để không mắc lại những sai sót đó.
Thứ tư, Sau CPH, Nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu chi phối tại các
NHTM này. NHTMNN, cho đến nay, vẫn đóng vai trò chủ đạo trong hệ
thống tài chính tiền tệ của nước ta. Mặt khác, khi hội nhập kinh tế thế giới,
lĩnh vực tài chính - ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm được các nhà đầu
tư nước ngoài đặc biệt quan tâm không chỉ ở mặt kinh tế mà còn cả mặt
chính trị vì ai làm chủ hệ thống tài chính - ngân hàng của một quốc gia sẽ
có ảnh hưởng lớn đến việc ra các quyết định điều hành đất nước. Việc Nhà
nước ban đầu nắm cổ phần chi phối và sau đó sẽ "buông dần" theo lộ trình
phù hợp là hoàn toàn đúng đắn. Nó tránh cho các ngân hàng này vấp phải
những cú sốc quá lớn ngay sau CPH. Mặt khác, nó vẫn giúp Nhà nước nắm
quyền chủ động trong quản lý lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
1.2.3. Phƣơng thức cổ phần hóa
Phương thức CPH đề cập ở đây là cách thức CPH NHTMNN ở
nước ta. Phương thức CPH đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình
cũng như hiệu quả của việc CPH của DNNN nói chung và NHTMNN nói
riêng.
Theo Điều 4, Nghị định 109, CPH DNNN được tiến hành theo ba
hình thức: Thứ nhất, giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp,
phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Thứ hai, bán một phần vốn
nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp bán bớt một phần vốn nhà
nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn
điều lệ. Thứ ba, bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc
kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng
vốn điều lệ. Trong ba hình thức trên hình thức thứ hai và thứ ba thường
được áp dụng với các DNNN làm ăn không hiệu quả hoặc nhà nước thấy
không cần thiết phải nắm cổ phần chi phối. Hình thức thứ nhất thường áp
dụng với các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và hoạt động trong những lĩnh
vực quan trọng hoặc có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế mà nhà nước thấy
cần thiết phải duy trì vai trò chủ đạo của mình. Theo đề án CPH mà các
NHTMNN trình Thủ tướng Chính phủ hiện nay thì tất cả các ngân hàng
này đều được CPH theo phương thức giữ nguyên vốn Nhà nước tại ngân
hàng và phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ nhằm đảm bảo sau
CPH, trong mọi trường hợp, vốn nhà nước không thấp hơn 51% vốn điều lệ
của ngân hàng.
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC
NHTMNN bản chất là một DNNN nên quá trình CPH chịu sự tác
động của các nhân tố chung của CPH DNNN. Tuy nhiên, là một loại hình
doanh nghiệp đặc thù kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt là tiền tệ, có tầm
ảnh hưởng chi phối mạnh mẽ và trực tiếp đến nền kinh tế, do vậy, quá trình
CPH NHTMNN lại có đặc thù riêng, chúng bao gồm các nhân tố chủ quan
và khách quan sau:
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là các nhân tố nội tại, xuất phát từ bản thân
NHTMNN. Đây là các nhân tố trực tiếp, quyết định đến việc cần thiết phải
CPH các NHTMNN. Các nhân tố này bao gồm:
* Năng lực nội tại của NHTMNN của Việt Nam rất yếu kém
Như đã nói ở trên hiện nay chúng ta có 5 NHTMNN bao gồm
VCB, MHB, ICB, BIDV, Agribank. Các ngân hàng này mặc dù hoạt động
có lãi nhưng năng lực nội tại rất yếu kém. Trong con mắt của các chuyên
gia, nhất là các chuyên gia nước ngoài, thời điểm trước khi có chủ trương
CPH, năm 2004, tình trạng các ngân hàng này là những "quả trứng để trên
đầu gậy". Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Vốn tự có của các NHTMNN quá nhỏ bé. Cho đến cuối
năm 2004, chưa có ngân hàng nào có vốn tự có đạt trên 300 triệu USD. So với
các ngân hàng trong khu vực chứ chưa nói gì đến các đại gia trên thế giới thì
con số này là quá nhỏ (một ngân hàng trung bình trên thế giới có vốn tự có từ
500 triệu USD trở lên). Vì lý do đó, tỉ lệ an toàn vốn tự có trên tài sản có là rất
thấp. Cho đến tháng 6/2004, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các NHTMNN
như sau [32].
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam: 6,17%
Ngân hàng Công thương Việt Nam: 4,43%
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam: 4,7%
Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam: 5,25%
Như vậy so với tiêu chuẩn quốc tế về Vốn tự có/ Tài sản có theo
quy định trong Basell là 8% thì rõ ràng các chỉ số trên còn một khoảng
cách xa. Mặt khác, đây là số liệu do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công
bố, chỉ số này theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài có thể còn thấp
hơn nhiều. Hạn chế về Vốn tự có trong khi Tài sản có tăng nhanh một cách
kỷ lục đã khiến cho tỷ lệ an toàn này càng có nguy cơ bị co lại. Chính vì
vậy nhu cầu về bổ sung vốn để có thể đạt được mức độ an toàn vốn tối
thiểu là cực kỳ lớn. Điều này thể hiện ở bảng sau:
Các chỉ số
2004
Tổng tài sản có 587.893
(tỷ VNĐ)
Tốc độ tăng trưởng
tài sản có (%)
25%
2005
734.867
2006
2007
2008
2009
2010
918.853 1.148.230 1.435.287 1.794.109 2.242.636
25%
25%
25%
25%
25%
25%
Tổng tài sản có điều 470.315
chỉnh theo rủi ro
(ước tính) (VNĐ)
857.893
734.867
918.583 1.148.230 1435.287 1.794.109
Vốn tự có (vốn
điều lệ + Quỹ bổ
sung vốn điều lệ)
18.039
19.121
20.268
21.484
22.773
24.140
25..588
Tỷ lệ tăng vốn tự có
6%
6%
6%
6%
6%
6%
6%
Tỷ lệ vốn tự
có/Tài sản điều
chỉnh theo rủi ro
3.8%
3.3%
2.8%
2.3%
2.0%
1.7%
1.4%
Tổng số vốn tự có
tối thiểu theo thông
lệ quốc tế (Tỷ VNĐ)
37.625
47.032
58.789
73.487
91.858
114.823
143.529
Tổng số vốn tự có
bị thiếu
19..586
27.910
38521
52.002
69.084
90.683
117.940
- Xem thêm -