Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở việt nam luận v...

Tài liệu Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở việt nam luận văn ths. luật

.PDF
84
362
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HẢI YẾN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HẢI YẾN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi Hà Nội – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hải Yến i MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ..........................................................................................................i MỤC LỤC ..................................................................................................................... ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................... iv MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài .........................................................................................1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................2 3. Những đóng góp mới của của đề tài ......................................................................2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................3 6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu ...........................................................................4 7. Giới thiệu bố cục của luận văn ...............................................................................5 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ......................................................................................................................6 1.1. Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán riêng lẻ .................................6 1.1.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ ......................................................6 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ...............................8 1.1.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay ................................................................................ 10 1.1.4 Quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ . 11 1.2. Tổng quan về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ ................................ 14 1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 14 1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ ............ 15 1.2.3. Vai trò của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ............................. 24 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM 26 2.1. Quy định pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần . 26 2.1.1. Quy định pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần....... 26 ii 2.1.2 Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần ................... 43 2.1.3 Quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần .................................................................................. 52 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam ................................................................................................. 55 2.2.1. Thực trạng chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần................ 55 2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần.............................................................................................. 60 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM.................................................................................................................. 64 3.1. Yêu cầu và các vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam......................................... 64 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ....................................................................................................... 64 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật để khắc phục những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ ở Việt Nam ......................................... 65 3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần .................................................................................... 66 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần .................................................................................... 66 3.2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ ........................................................................................................... 70 3.2.3 Một số biện pháp khác.................................................................................... 72 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 77 iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Ý nghĩa 1 CTCP Công ty cổ phần 2 CBCKRL Chào bán chứng khoán riêng lẻ 3 DNNN Doanh nghiệp Nhà nước 4 TNHH Trách nhiệm hữu hạn 5 TPDN Trái phiếu doanh nghiệp 6 TTCK Thị trường chứng khoán 7 TTGDCK Thị trường giao dịch chứng khoán iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những kênh huy động vốn quan trọng và chủ yếu đang được các doanh nghiệp nói chung và các CTCP tại Việt Nam nói riêng áp dụng hiện nay là chào bán chứng khoán. Việc huy động vốn qua TTCK được thực hiện thông qua hoạt động chào bán chứng khoán dưới hai hình thức là chào bán chứng khoán ra công chúng và CBCKRL. Chào bán chứng khoán là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động diễn ra trên TTCK bởi nó không chỉ góp phần huy động vốn, tăng vốn cho doanh nghiệp mà còn tạo ra hàng hóa cho TTCK, quyết định sự tồn tại của TTCK. Khác với chào bán chứng khoán ra công chúng, CBCKRL không bị ràng buộc bởi những quy định pháp luật khắt khe về số lượng Nhà đầu tư tham gia, chỉ cần doanh nghiệp phát hành tìm được đối tác chiến lược cùng chung sức với mình trong sự nghiệp sản xuất kinh doanh là có thể xin phép cơ quan quản lý về chứng khoán và TTCK làm thủ tục phát hành, chào bán. Vì vậy CBCKRLđang là phương thức huy động vốn hữu hiệu của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên trên thực tế, chính điều kiện phát hành dễ dàng mà nhiều doanh nghiệp đã phát hành chui, nghĩa là phát hành cho đối tác chiến lược rồi sau đó mới báo cáo cơ quan quản lý là UBCKNN và xin thủ tục hợp thức hóa số chứng khoán đã phát hành, dẫn đến hàng loạt các vụ tranh chấp chứng khoán do không chuyển đổi được chủ sở hữu được diễn ra rất phổ biến vào các năm từ 2007 đến năm 2011 của TTCK Việt Nam. Trong nhiều nguyên nhân của tình trạng này có nguyên nhân do pháp luật về chứng khoán và TTCK, Luật Doanh nghiệp còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề pháp lý quan trọng về phát hành chứng khoán riêng lẻ. Mặt khác, CBCKRL dẫn tới sự tham gia của một số cổ đông mới trong điều kiện CTCP đã ổn định sở hữu và quản lý, điều hành có thể tạo ra sự xung đột lợi ích giữa các chủ thể trong việc phát hành. Mặc dù có một số bất cập nêu trên nhưng phát hành chứng khoán riêng lẻ lại rất hữu hiệu cho các doanh nghiệp vừa và 1 nhỏ huy động vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với Việt Nam, một nước có tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 70% trên tổng số các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh thì rất cần thiết phải có quy định pháp lý phù hợp, linh hoạt về phát hành chứng khoán riêng lẻ để dễ dàng huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp... Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam” để nhìn nhận rõ những ưu điểm và bất cập của pháp luật hiện hành và đưa ra giải pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật và yêu cầu cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu, làm rõ những số vấn đề lý luận cơ bản về CBCKRL và pháp luật về CBCKRL của CTCP. Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về CBCKRL; nhận xét, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về CBCKRL của CTCP ở Việt Nam; trên cơ sở đó đánh giá về những thành tựu cũng như những vướng mắc, bất cập tồn tại của pháp luật về CBCKRL của CTCP. Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động CBCKRL của CTCP ở Việt Nam. 3. Những đóng góp mới của của đề tài Trong thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật CBCKRL nhưng ở phạm vi rộng và bao quát cho nhiều loại hình doanh nghiệp. Với đề tài này, luận văn đi sâu vào pháp luật về CBCKRL của một loại hình doanh nghiệp là CTCP nhằm phân tích, đánh giá về hình thức huy động vốn của CTCP thông qua CBCKRL. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh của CTCP. 2 Đề tài đánh giá tổng quát về những quy định pháp luật về CBCKRL, đặt trong mối quan hệ với pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng để phân biệt rõ hai hình thức này cũng như cho người đọc một cái nhìn toàn diện về những phương thức huy động vốn trên TTCK. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về CBCKRL của CTCP đáp ứng yêu cầu thực tiễn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Hoạt động chào bán chứng khoán thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về hoạt động CBCKRL của CTCP ở Việt Nam. Mục đích giới hạn phạm vi nghiên cứu vào chủ thể CBCKRL là CTCP nhằm đi sâu làm rõ quy định pháp luật liên quan và thực tiễn áp dụng pháp luật chào bán chứng khoán của CTCP – loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Theo đó, các hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư, hoạt động chào bán trái phiếu Chính phủ, hoạt động chào bán chứng khoán của những doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh... không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là pháp luật về chào bán chứng khóan riêng lẻ, một hoạt động rất quan trọng để đảm bảo nguồn vốn cho doanh nghiệp, nhất là đối với các công ty cổ phần. Do đó nghiên cứu các quy định pháp luật về phát hành chứng khoán riêng lẻ cần thiết phải sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp một cách biện chứng về các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam qua đó có những đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện ptạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển hoạt động này tại Việt Nam. 3 6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu Liên quan đến quy định pháp luật về chào bán chứng khoán, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bao gồm khóa luận Đại học, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề này, trong đó có nhiều bài viết về Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam và pháp luật về CBCKRL của các loại hình doanh nghiệp nói chung. Một số bài viết có nội dung sát với đề tài nghiên cứu của luận văn như: - Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Lục Thị Hồng Nhung – lớp KT28E khoa Luật kinh tế của Đại học Luật Hà Nội về đề tài “Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”; - Luân văn của tác giả Phạm Thị Thanh Hương về đề tài “Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước” - năm 2010. Ngoài ra còn nhiều đề tài nghiên cứu khác liên quan như “Một số vấn đề của pháp luật chào bán chứng khoán ở Việt Nam”, “Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam” … mà tác giả tìm hiểu được qua Internet. Như vậy tài liệu nghiên cứu phục vụ cho đề tài khá đa dạng, phong phú và sát với nội dung đề tài. Tại luận văn này, điểm khác với các tài liệu tham khảo nêu trên là tác giả nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật về hoạt động CBCKRL của riêng một loại hình công ty là CTCP vì ở nước ta hiện nay, các CTCP quy mô vừa và nhỏ vẫn đang là loại hình doanh nghiệp phổ biến, các công ty này chưa đủ điều kiện để chào bán cổ phần ra công chúng nên kênh huy động vốn chủ yếu vẫn là CBCKRL. Tuy nhiên hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong những năm vừa qua gặp phải một số vướng mắc do pháp luật điều chỉnh chưa đầy đủ và còn nhiều vấn đề đang bỏ ngỏ. Do vậy, tác giả nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu về đề tài “Pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần” làm luận văn thạc sĩ, với mong muốn góp phần làm sáng tỏ những quy định pháp luật hiện hành để vận dụng vào hoạt động huy động vốn trong thực tế của CTCP ở Việt Nam. 4 7. Giới thiệu bố cục của luận văn Luận văn kết cấu gồm ba chương với những nội dung cơ bản sau đây: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán riêng lẻ và pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ Chương 2: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty cổ phần ở Việt Nam 5 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ 1.1. Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán riêng lẻ 1.1.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán. Chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng, có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp. Các chứng khoán thường được chào bán theo hai phương thức, đó là CBCKRL và chào bán chứng khoán ra công chúng. Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc bán chứng khoán cho một số lượng lớn công chúng đầu tư, trong đó một số lượng chứng khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ, khối lượng phát hành phải đạt một tỷ lệ nhất định. Các chứng khoán chào bán ra công chúng được niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung. Các công ty chào bán chứng khoán ra công chúng có lợi thế trong việc quảng bá hình ảnh, tên tuổi và mặc nhiên được coi là có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh ổn định. Đây là lợi thế lớn cho công ty khi ký kết hợp đồng, tìm kiếm bạn hàng. CBCKRL là việc chào bán chứng khoán trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức, ví dụ: các công ty bảo hiểm nhân thọ, các quỹ hưu trí, các công ty đầu tư chứng khoán và các quỹ tín thác đầu tư. Căn cứ vào loại chứng khoán được chào bán, có thể chia thành hai loại CBCKRL là chào bán cổ phiếu riêng lẻ và chào bán trái phiếu riêng lẻ. Thuật ngữ “chào bán cổ phần riêng lẻ” được đề cập lần đầu tiên tại Khoản 6 Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005 với quy định “Chính phủ quy định hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ” mà chưa có định nghĩa chính thức như thế nào là chào bán cổ phần riêng lẻ. Đến Nghị định số 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 của Chính Phủ (Nghị định 01/2010/NĐ-CP) về chào bán cổ phần riêng lẻ thì khái niệm chào bán cổ phần riêng lẻ mới được định nghĩa như sau: 6 “Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau: (i) Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; (ii) Dưới 100 nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.” (Khoản 1, Điều 4 Nghị định 01/2010/NĐ-CP). Nghị định 01/2010/NĐ-CP lần đầu tiên cụ thể hóa các quy định về chào bán cổ phiếu riêng lẻ - một hình thức huy động vốn phổ biến, chủ yếu của các CTCP. Sau một thời gian áp dụng Nghị định 01/2010/NĐ-CP trên thực tế, văn bản này đã bộc lộ một số bất cập, vướng mắc, do vậy Nghị định 01/2010/NĐ-CP chỉ tồn tại một thời gian ngắn và đến nay đã được thay thế bằng Nghị định số 58/2012/NĐ-CP do Chính Phủ ban hành ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (Nghị định 58/2012/NĐ-CP). Tuy nhiên, Nghị định 58/2012/NĐ-CP không quy định khái niệm chào bán cổ phiếu riêng lẻ mà chỉ quy định về các vấn đề cơ bản của chào bán cổ phiếu riêng lẻ như điều kiện chào bán, thủ tục và hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Quy định về “chào bán trái phiếu riêng lẻ” lại được đề cập rõ ràng và cụ thể tại Nghị định số 90/2011/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 14/10/2011 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp (Nghị định 90/2011/NĐ-CP), theo đó “Phát hành trái phiếu riêng lẻ là phát hành trái phiếu cho dưới một trăm (100) nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet.” Từ hai khái niệm về chào bán cổ phiếu riêng lẻ và chào bán trái phiếu riêng lẻ nêu trên cho thấy, các nhà làm luật đã thống nhất quan điểm chung trong quy định về CBCKRL, đó là: giới hạn số lượng nhà đầu tư (dưới 100 nhà đầu tư) và không được sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để quảng cáo cho việc chào bán chứng khoán. Đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số 62/2010/QH12 được Quốc Hội thông qua (Luật số 62/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010), khái niệm CBCKRL lần đầu tiên được quy định trong hệ thống 7 pháp luật về chứng khoán và TTCK của Việt Nam, theo đó “Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet” (Điều 1 Luật số 62/2010/QH12). Như vậy, hoạt động CBCKRL có những điểm khác với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng; cụ thể là: Thứ nhất, CBCKRL giới hạn số lượng nhà đầu tư là đối tượng của việc chào bán chứng khoán hướng tới, các chủ thể CBCKRL chỉ được chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Còn đối với chào bán chứng khoán ra công chúng thì không hạn chế số lượng nhà đầu tư tối đa nhưng tối thiểu phải là 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Như vậy, từ khái niệm của hai phương thức chào bán chứng khoán đã cho thấy rõ sự khác biệt về quy mô chào bán chứng khoán. Từ đó có thể hình dung được các quy định, thủ tục liên quan đến hai hình thức này sẽ rất khác nhau. Thứ hai, CBCKRL không được sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet, không được quảng cáo, mời chào trong khi chào bán ra công chúng lại phải thông qua phương tin thông tin đại chúng (kể cả qua Internet). Điều này cho thấy mức độ phổ biến, rộng rãi của phương thức chào bán ra công chúng so với phạm vi chào bán, số vốn huy động và tính đại chúng của hoạt động CBCKRL. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ Thứ nhất, khác với chào bán chứng khoán ra công chúng, CBCKRL chỉ được tiến hành trên phạm vi hẹp nhằm phân phối chứng khoán cho số ít nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc số ít nhà đầu tư cá nhân đặc biệt. Đại đa số các nhà đầu tư mua chứng khoán trong trường hợp này đều là những người có kiến thức chuyên sâu về chứng khoán, có khả năng tự phân tích, đánh giá tình hình kinh doanh và tình hình tài chính của tổ chức phát hành, cũng là tự đánh giá được giá trị của chứng khoán đang chào bán. Như vậy, yêu cầu bảo vệ nhà đầu tư trong 8 CBCKRL và chào bán chứng khoán ra công chúng rất khác nhau. Vì lý do này, ở hầu hết các quốc gia, CBCKRL và chào bán chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh bởi những quy chế pháp lý riêng. Pháp luật các nước quy định khác nhau về số lượng nhà đầu tư tham gia tối thiểu được chào bán trong mỗi đợt phát hành riêng lẻ. Tại Mỹ và Nhật Bản nếu phát hành cho dưới 200 nhà đầu tư được coi là chào bán riêng lẻ; tại Hàn Quốc, Thái Lan, Indonexia nếu chào bán cho thấp hơn 50 nhà đầu tư là phát hành riêng lẻ. [14,tr.62] Thứ hai, ở các nước theo hệ thống Luật Dân sự (Civil law), hoạt động CBCKRL do Luật chứng khoán và kinh doanh chứng khoán điều chỉnh, còn ở các nước theo hệ thống Luật chung (Common law), hoạt động này chủ yếu do Luật Công ty điều chỉnh. Ở Việt Nam, hoạt động này do nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh. Đó là Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành, ngoài ra có các văn bản điều chỉnh chuyên biệt như các Nghị định của Chính Phủ về cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành CTCP... Thứ ba, hoạt động CBCKRL thường gắn với việc thành lập CTCP và quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp. Khi thành lập CTCP, các cổ đông sáng lập tiến hành chào bán cổ phần riêng lẻ để huy động vốn nhằm góp đủ số vốn điều lệ đã đăng ký. Các công ty Nhà nước tiến hành cổ phần hoá (CPH) có thể lựa chọn phương thức CBCKRL. Ngoài ra, khi CBCKRL, công ty có thể thực hiện một số mục đích khác như duy trì các quan hệ kinh doanh (khách hàng lâu năm, nhà cung cấp, phân phối…), củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa công ty phát hành và các chủ thể đặc biệt như giám đốc công ty, cán bộ, nhân viên của công ty. Chi phí chào bán chứng khoán ra công chúng thường cao hơn chi phí CBCKRL, có thể lên đến 810% so với tổng lượng vốn huy động. Thủ tục CBCKRL đơn giản hơn so với thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy, đối với các doanh nghiệp 9 quy mô chưa thực sự lớn khi cần huy động vốn thường lựa chọn phương thức CBCKRL với mức chi phí thấp hơn. Nghiên cứu đặc điểm của hoạt động CBCKRL không chỉ phân biệt các phương thức phát hành mà còn có ý nghĩa xác định phạm vi thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán, công tác quản lý thị trường, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư thực hiện tốt hơn. 1.1.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay Đối với TTCK, hoạt động CBCKRL cung cấp hàng hoá cho TTCK, tạo cơ sở cho các hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường và kiểm chứng ban đầu về chất lượng chứng khoán sẽ được cung ứng. Đối với tổ chức phát hành, hoạt động CBCKRL là một kênh huy động vốn hiệu quả, linh hoạt, giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn và không bị quá lệ thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng. Chào bán chứng khoán nói chung và CBCKRL nói riêng cho phép các doanh nghiệp trực tiếp huy động vốn từ các chủ thể có nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, bớt được khâu trung gian trong huy động vốn. Thông qua CBCKRL tổ chức phát hành sẽ tăng quy mô, hiệu quả sử dụng vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn thu được từ chào bán chứng khoán là nguồn vốn dài hạn và ổn định vì khi huy động vốn qua chào bán cổ phiếu các doanh nghiệp không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả các cổ đông nguồn vốn mà họ đã góp; ngay cả khi huy động vốn qua chào bán trái phiếu, doanh nghiệp vẫn có quyền ấn định thời hạn trái phiếu và thường thời hạn này trên 5 (năm) năm. Hoạt động này góp phần thúc đẩy doanh nghiệp tự “hoàn thiện” mình trong việc thực hiện tốt hơn chế độ tài chính, kế toán, công bố thông tin… Từ đó, doanh nghiệp từng bước đáp ứng những điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên TTCK tập trung. Đối với các nhà đầu tư: nhà đầu tư tham gia vào TTCK nhằm thỏa mãn nhu cầu về lợi ích hoặc tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp. Bằng việc mua bán, trao đổi chứng khoán mà đặc biệt là cổ phiếu, nhà đầu tư thu được một 10 khoản lợi nhuận nhất định. Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận, nhà đầu tư cũng có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp khi họ sở hữu một số lượng cổ phiếu phổ thông nhất định. Hoạt động CBCKRL cung cấp các loại chứng khoán và những thông tin bổ ích về đợt chào bán và tổ chức phát hành. Tùy thuộc nhu cầu cũng như ưu thế của từng loại chứng khoán, nhà đầu tư sẽ lựa chọn đầu tư vào cổ phiếu hoặc trái phiếu. Do vậy, hoạt động CBCKRL có ý nghĩa nhất định đối với các nhà đầu tư. Đối với tổ chức trung gian, với vai trò đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành... các tổ chức này không chỉ thu được khoản lợi nhuận nhất định (phí, hoa hồng) từ các hợp đồng đại lý, bảo lãnh mà thông qua những hoạt động này, tổ chức trung gian sẽ nắm bắt được nhu cầu, diễn biến của thị trường và đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lý. Đối với nền kinh tế và xã hội, chào bán chứng khoán sẽ đem lại nguồn vốn cần thiết để thúc đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội. Vai trò của chào bán chứng khoán nói chung và CBCKRL nói riêng đối với nền kinh tế còn được thể hiện ngay cả trong hoạt động chào bán chứng khoán của các doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp chào bán chứng khoán và huy động được vốn đầu tư từ công chúng thì dự án kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được thực hiện, khi đó không chỉ bản thân doanh nghiệp có lợi mà nền kinh tế cũng cũng có lợi do đóng góp của doanh nghiệp từ phần thu nhập được từ dự án kinh doanh vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, hoạt động CBCKRL có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty TNHH chuyển đổi thành CTCP và hoạt động quản lý nhà nước trên thị trường sơ cấp. 1.1.4 Quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ a. Mục đích quản lý Nhà nƣớc Kinh nghiệm phát triển của một số TTCK lâu đời trên thế giới cho thấy cần thiết phải có sự quản lý nhà nước đối với hoạt động TTCK. Vụ sụp đổ thị trường vào những năm 1929, 1987, 1990 của TTCK Mỹ và một số nước Châu Âu là những “ngày đen tối” trong lịch sử phát triển của TTCK. Hàng loạt thị trường 11 lớn phải đóng cửa. Một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ sụp đổ này là do thiếu sự quản lý và kinh nghiệm điều hành thị trường. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của quản lý nhà nước đối với TTCK. Mục đích quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là để: Thứ nhất, bảo đảm tính công bằng trong hoạt động CBCKRL, các chủ thể chào bán có điều kiện như nhau được đối xử công bằng, bình đẳng. Quản lý phải gắn liền với hiệu quả, các vi phạm được xử lý kịp thời, hoạt động chào bán chứng khoán diễn ra đúng pháp luật. Thứ hai, tạo lập sự ổn định và trung thực trong hoạt động CBCKRL, bảo đảm chất lượng cho các chứng khoán cung cấp cho thị trường có tính thanh khoản cao, ít rủi ro. b. Nguyên tắc quản lý Nhà nƣớc Hoạt động quản lý nhà nước phải dựa trên những tư tưởng chủ đạo, những tiêu chuẩn hành vi nhất định mà các chủ thể quản lý phải tuân thủ. Theo đó cần bảo đảm cơ quan quản lý Nhà nước phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quản lý hoạt động chào bán chứng khoán; mỗi cơ quan quản lý độc lập với nhau, có đủ quyền lực và điều kiện thực tế để thực thi nhiệm vụ; hoạt động quản lý phải rõ ràng, thống nhất, công khai và đúng pháp luật; chủ thể có thẩm quyền quản lý là người có tiêu chuẩn nghề nghiệp cao, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước đối với chào bán chứng khoán trên thị trường diễn ra một các công khai, công bằng và minh bạch nhất. c. Nội dung quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ Hiện nay trên thế giới, có hai phương thức quản lý nhà nước trên thị trường sơ cấp, đó là phương thức quản lý theo chất lượng và phương thức quản lý theo chế độ công bố thông tin đầy đủ [12, tr.17]. Nếu quản lý theo chất lượng thì cơ quan quản lý đưa ra nhiều tiêu chí bảo đảm chủ thể chào bán có tình hình tài chính ổn định, có uy tín trên thị trường. Nếu quản lý theo chế độ công bố thông 12 tin đầy đủ thì cơ quan quản lý sẽ chú trọng đến chất lượng thông tin và công bố thông tin rộng rãi ra công chúng. Những nước có TTCK phát triển thường áp dụng chế độ công bố thông tin đầy đủ. Ở Việt Nam và một số nước đang phát triển, cơ quan quản lý thường áp dụng phương thức quản lý theo chất lượng do TTCK ở những nước này còn non trẻ nên phải có những bảo đảm an toàn cần thiết. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán chủ yếu tập trung vào hoạt động của chủ thể phát hành, các tổ chức trung gian tham gia chào bán, các nhà đầu tư. Đó là các hoạt động ban hành văn bản pháp luật về CBCKRL; tổ chức và hướng dẫn về điều kiện, thủ tục, phương án chào bán chứng khoán; thanh tra, giám sát việc tuân theo pháp luật về CBCKRL của các chủ thể tham gia hoạt động chào bán, xử lý các hành vi vi phạm... Quản lý nhà nước dối với hoạt động CBCKRL của chủ thể phát hành: đối tượng bị quản lý là các chủ thể CBCKRL theo quy định của pháp luật. Các chủ thể này tiến hành hoạt động CBCKRL trên thực tế. Cơ quan quản lý Nhà nước xác định điều kiện chào bán chứng khoán; quy định thủ tục, phương thức chào bán; nội dung công bố thông tin, các báo cáo tài chính; chế độ kế toán, kiểm toán đối với các chủ thể CBCKRL. Quản lý Nhà nước nhằm bảo đảm chủ thể phát hành cung cấp đầy đủ, trung thực những thông tin liên quan tới đợt chào bán. Việc công bố thông tin phải tiến hành thường xuyên, đầy đủ, những thông tin được công bố bảo đảm chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức trung gian tham gia TTCK: tổ chức trung gian có thể là những ngân hàng thương mại (NHTM), các công ty chứng khoán, công ty tài chính, quỹ đầu tư chứng khoán... Các trung gian tài chính có lợi thế về chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện thành công đợt chào bán. Thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với những tổ chức này thuộc về nhiều cơ quan khác nhau, tuỳ thuộc vào hình thức quản lý, chính sách kinh tế của mỗi quốc gia. Cơ quan quản lý cần quy định rõ trách nhiệm, phạm vi 13 hoạt động của các tổ chức này nhằm bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, hoạt động CBCKRL diễn ra công bằng. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các nhà đầu tư: TTCK luôn vận động theo những quy luật riêng, trong đó Nhà đầu tư thường là chủ thể dễ bị xâm phạm do những tiêu cực của thị trường. Vì vậy, Cơ quan quản lý Nhà nước vừa phải bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, đồng thời cần ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định khá chặt chẽ về chế độ công bố thông tin đối với các nhà đầu tư khi tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư là cổ đông sáng lập, cổ đông lớn của công ty đại chúng/công ty niêm yết nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, vừa bảo vệ quyền lợi của các Nhà đầu tư, vừa đảm bảo hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động giao dịch cổ phiếu của các CTCP quy mô lớn. CBCKRL là hoạt động có ảnh hướng quan trọng tới sự phát triển của TTCK. Quản lý nhà nước trong hoạt động CBCKRL phải bảo đảm cho mọi hành vi liên quan đến hoạt động chào bán diễn ra đúng pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể thực hiện chào bán chứng khoán để huy động vốn, bổ sung nguồn vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. 1.2. Tổng quan về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ 1.2.1. Khái niệm Pháp luật về CBCKRL là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình CBCKRL trong một phạm vi, giới hạn nhất định của tổ chức phát hành. Pháp luật về CBCKRL về cơ bản thường bao gồm các quy định về chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ, điều kiện chào bán, hồ sơ, thủ tục chào bán, về công bố thông tin, trách nhiệm của chủ thể phát hành, quy định về phân phối chứng khoán, đình chỉ chào bán chứng khoán… 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan