Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật và thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở việ...

Tài liệu Pháp luật và thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở việt nam hiện nay

.PDF
96
498
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM CAO THÁI PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG LỮ HÀNH, HƯỚNG DẪN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Du lịch (Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐỨC THANH Hà Nội, 2010 MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ viết tắt 3 Mở đầu 4 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT 9 1.1. Pháp luật 9 1.1.1. Khái niệm 9 1.1.2. Văn bản luật 11 1.1.3. Văn bản dưới luật 13 1.1.4. Văn bản pháp luật về du lịch 13 1.2. Thực thi pháp luật 13 1.3. Quan niệm pháp luật về du lịch 17 1.4. Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch 19 Chương 2: TỔNG QUAN VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ LỮ HÀNH, HƯỚNG DẪN DU LỊCH VÀ VIỆC THỰC THI HIỆN NAY 21 2.1. Văn bản pháp luật về du lịch 21 2.1.1. Luật Du lịch 2005 21 2.1.2. Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 31 2.1.3. Nghị định 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007 32 2.1.4. Thông tư 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 33 2.1.5. Một số quy định pháp luật khác có nội dung liên quan 35 2.2. Quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch 38 2.2.1. Quy định pháp luật về lữ hành 38 2.2.2. Quy định pháp luật về hướng dẫn du lịch 41 2.3. Quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch của một số quốc gia 44 1 2.4. Thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành 50 2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành 52 2.4.2. Điều kiện kinh doanh lữ hành 53 2.4.3. Thủ tục cấp phép kinh doanh lữ hành quốc tế 56 2.4.4. Bảo hiểm du lịch 57 2.4.5. Đại lý lữ hành 59 2.4.6. Doanh nghiệp lữ hành quốc tế có vốn đầu tư nước ngoài 59 2.4.7. Một số vấn đề khác liên quan đến hoạt động lữ hành 61 2.5. Thực thi pháp luật trong hướng dẫn du lịch 68 2.5.1. Đối với người Việt Nam 69 2.5.2. Đối với người nước ngoài 70 2.6. Sự tham gia của khách du lịch 71 2.7. Đánh giá chung 72 Chương 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG THỰC THI PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG LỮ HÀNH, HƯỚNG DẪN DU LỊCH Ở VIỆT NAM 75 Chủ trương của Đảng và Nhà nước về pháp luật và thực thi pháp luật 75 Định hướng hoàn thiện pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch 78 3.3. Đề xuất 82 3.3.1. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch 82 3.1. 3.2. 3.3.2. Một số đề xuất đảm bảo việc thực thi có hiệu quả pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch KẾT LUẬN 86 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 DANH MỤC VIẾT TẮT ASEAN Hiêp hội các nước Đông Nam Á BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch CLB Câu lạc bộ DN Doanh nghiệp GPKDLHQT Giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế HDV Hướng dẫn viên KDLH Kinh doanh lữ hành KDLHQT Kinh doanh lữ hành quốc tế NĐ Nghị định LHQT Lữ hành quốc tế T.A.T Cơ quan Quốc gia về Du lịch Thái Lan TCDL Tổng cục Du lịch WTO Tổ chức Thương mại thế giới 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động du lịch ở nước ta đã và đang diễn ra với quy mô lớn, tăng trưởng với tốc độ cao. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách phát triển Du lịch khá mạnh mẽ. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu: “Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn…”. Luật Du lịch 2005 ra đời trở thành công cụ hữu ích góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, sau khi Luật Du lịch có hiệu lực, việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi luật. Qua thực tiễn áp dụng đã có một số những quy định bộc lộ những hạn chế, bất cập, đồng thời có những vấn đề phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa có những quy định bổ sung điều chỉnh. Đó là những nguyên nhân gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển du lịch, đòi hỏi cần nghiên cứu nhằm tăng cường việc thực thi pháp luật về du lịch, đồng thời tìm ra những bất cập giữa những quy định pháp luật với thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về du lịch để đáp ứng tình hình mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Cho đến nay cũng có một vài nghiên cứu về vấn đề liên quan đến pháp luật về du lịch như công trình nghiên cứu khoa học của Vụ Pháp chế, Tổng cục Du lịch với đề tài "Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch" (năm 2001) do Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Vân làm Chủ nhiệm đề tài, chủ yếu nghiên cứu về thực 4 trạng công tác quản lý nhà nước qua việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch; Luận án Tiến sĩ của tác giả Trịnh Đăng Thanh với đề tài "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay" (năm 2004) thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng là đề tài nghiên cứu sâu về góc độ quản lý nhà nước. Cả hai công trình nghiên cứu này đều thực hiện trước khi Luật Du lịch 2005 ra đời. Một công trình nghiên cứu khác là Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Nga với đề tài "Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam bằng pháp luật" (năm 2008) nhưng cũng chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về du lịch bằng pháp luật và những phương hưóng, giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch. Những công trình nghiên cứu nêu trên đều tập trung đi vào nghiên cứu dưới góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhà nước là chủ thể quản lý với đối tượng quản lý là hoạt động du lịch nói chung chứ không nghiên cứu chính những quy định pháp luật về du lịch và việc thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch mà trong đó chính những cơ quan nhà nước cũng là đối tượng chấp hành pháp luật trong quá trình thực hiện quản lý hoạt động du lịch. Trong khi đó, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể đến những tồn tại, bất cập giữa các văn bản pháp luật với thực tiễn thi hành. Mặt khác, những nội dung nghiên cứu trên là nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi những quy định pháp luật về du lịch (Pháp lệnh Du lịch 1999 hoặc Luật Du lịch 2005 và các văn bản hướng dẫn) chứ không nghiên cứu về vấn đề thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch. Vì vậy, nội dung nghiên cứu đề tài này tập trung vào những quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch và một số quy định pháp luật liên quan có nội dung điều chỉnh hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch; thực trạng việc thi hành pháp luật trong hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch ở Việt 5 Nam hiện nay, từ việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những tồn tại, bất cập giữa những quy định so với thực tiễn đến những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình diễn ra hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật; những đề xuất nhằm tăng cường thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch và điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những quy định pháp luật về du lịch. Như vậy, việc nghiên cứu "Pháp luật và thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam hiện nay" là một việc làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn, là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Bên cạnh ý nghĩa khoa học nêu trên, đề tài đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn. Là một đề tài ứng dụng, góp phần cùng ngành Du lịch vận dụng lý luận khoa học nhà nước - pháp luật vào thực tiễn, thực hiện công cuộc cải cách hoàn thiện hệ thống pháp luật, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch. 2. Mục tiêu - nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về pháp luật và thực thi pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch, nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành và thực trạng thi hành; đề xuất một số giải pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch góp phần tăng cường thực thi pháp luật trong hoạt động du lịch. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu là phải hệ thống được những quy định pháp luật hiện hành về lữ hành, hướng dẫn du lịch, có nghiên cứu một số quy định liên quan, những cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO. Đồng thời tổng hợp, khảo sát đánh giá những hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch đã phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng còn bất cập. 6 Trên cơ sở đó đề xuất những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành về du lịch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Là những văn bản pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam hiện nay. Việc thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch đang diễn ra trong thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung sẽ đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch trong Luật Du lịch 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Du lịch; nghiên cứu việc chấp hành quy định pháp luật của các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch và việc thực hiện pháp luật của các cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch. Về không gian: Thực trạng việc thi hành pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch tại Việt Nam hiện nay. Về thời gian: Những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn từ khi Luật Du lịch 2005 ra đời và có hiệu lực thi hành cho đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật, luận văn sử dụng những phương pháp sau: Phương pháp chuyên gia; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp so sánh; Phương pháp hệ thống. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, kết cấu của Luận văn gồm 3 chương, cụ thể là: Chương 1: Pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam 7 Chương 2: Thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam Chương 3: Những đề xuất tăng cường thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam 8 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT 1.1. Pháp luật 1.1.1. Khái niệm Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước. Như vậy pháp luật được hình thành bằng hai con đường: Thứ nhất nhà nước thừa nhận các quy phạm xã hội - phong tục, tập quán chuyển chúng thành pháp luật, thứ hai, bằng hoạt động xây dựng pháp luật định ra những quy phạm mới. Pháp luật cũng giống như mọi hiện tượng xã hội, có các hình thức thể hiện và hình thức tồn tại riêng. Hình thức pháp luật gồm: hình thức bên ngoài (nguồn của pháp luật) và hình thức bên trong của pháp luật (cấu trúc của pháp luật). Khi nói đến hình thức bên ngoài của pháp luật là nói đến sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật. Đó là văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống. Văn bản quy phạm pháp luật chia làm 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới luật. 9 Hình thức bên trong của pháp luật là hình thức cấu trúc của pháp luật. Pháp luật có các bộ phận cơ cấu, bao gồm: quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật. Từ định nghĩa trên rút ra những nhận xét sau: - Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nghĩa là chỉ có những văn bản nào được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo luật định) ban hành mới có thể là văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung (các quy phạm pháp luật). Điều này để phân biệt với những văn bản mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng không chứa đựng các quy tắc xử sự chung thì cùng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Lời kêu gọi, lời hiệu triệu, thông báo, tuyên bố của nhà nước xã hội chủ nghĩa ... mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. - Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, trong mọi trường hợp. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra văn bản quy phạm pháp luật lại được áp dụng. - Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam theo Hiến Pháp 1992 và Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: - Văn bản do Quốc Hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết. - Văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết. - Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 10 Căn cứ vào trình tự ban hành và giá trị pháp lý, các văn bản quy phạm pháp luật được chia ra thành 2 loại là các văn bản luật và văn bản dưới luật. 1.1.2. Văn bản luật Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước ban hành. Văn bản Luật có các hình thức là Hiến pháp và luật. - Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp và các Đạo luật về bổ sung hay sửa đổi Hiến pháp). Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: Hình thức và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp. - Luật (bộ luật, luật), nghị quyết của Quốc hội có chứa đựng các quy phạm pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành để cụ thể hoá Hiến pháp, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Trong lĩnh vực du lịch, Luật Du lịch 2005 là văn bản luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các hoạt động du lịch. Luật Du lịch có giá trị pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp, vì vậy khi xây dựng các văn bản dưới luật quy định về du lịch phải dựa trên cơ sở các quy định thể hiện trong Luật Du lịch 2005, không được trái với các quy định đó. 1.1.3. Văn bản dưới luật Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy định. 11 Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hiện nay ở nước ta có những loại văn bản dưới luật sau: - Pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành quy định những vấn đề được Quốc hội giao. Thẩm quyền ban hành Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội được quy định trong Điều 91 và Điều 93 của Hiến pháp năm 1992. - Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. - Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, Luật quy định. - Nghị định, nghị quyết của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. - Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng. - Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Thông tư liên tịch. - Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. - Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp. Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền quản lý xã hội đều ban hành một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật làm chuẩn mực chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Toàn bộ các quy phạm trong các văn bản đó không tồn tại một cách rời rạc mà có quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất- một hệ thống. 12 Như vậy, hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được quy định một cách khách quan bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống ấy thành các bộ phận cấu thành khác nhau, phù hợp với những đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhưng các bộ phận khác nhau ấy có mối quan hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất với nhau. Cấu thành của hệ thống pháp luật gồm có: quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật. 1.1.4. Pháp luật về du lịch Cho đến nay tuy chưa có một định nghĩa chính thức pháp luật về du lịch là gì, tuy nhiên trên cơ sở lý luận về pháp luật và hệ thống pháp luật, với cách tiếp cận nhìn từ hình thức bên ngoài của pháp luật thì đó chính là những văn bản quy phạm pháp luật quy định về du lịch. Pháp luật về du lịch là một bộ phận cấu thành không thể tách rời trong một chỉnh thể thống nhất hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, khi nói đến pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch tức là chỉ nói đến những quy định cụ thể trong những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, về mặt nội dung không đi sâu nghiên cứu toàn bộ pháp luật về du lịch mà đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật về du lịch được quy định trong Luật Du lịch 2005, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Du lịch. Trong đó tập trung vào những nội dung quy định về lữ hành, hướng dẫn du lịch. 1.2. Thực thi pháp luật Thực thi pháp luật, theo quan niệm chung nó là một quá trình làm cho những quy định pháp luật được áp dụng trong thực tiễn mà biểu hiện của nó là việc thực hiện pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong cuộc sống xã hội và việc áp dụng pháp luật (hay còn gọi là thi hành pháp luật) của các cơ quan, 13 người có thẩm quyền, nhằm thực hiện trong thực tế các quy phạm pháp luật trong mọi tình huống cụ thể của cuộc sống. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định những khả năng xử sự của mọi cá nhân, tổ chức. Khả năng đó chỉ trở thành hiện thực trong đời sống khi các chủ thể pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Chính vì vậy, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước sử dụng pháp luật như là phương tiện để thực hiện sự quản lý đối với xã hôị, và đây là nguyên tắc hiến định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Nói cách khác, việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật, đó là bằng hành vi cụ thể của mình, các chủ thể pháp luật khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, đã bằng các hành vi của mình thực hiện các quy phạm pháp luật phù hợp với các quy định đã được đưa ra. Các quy phạm pháp luật hết sức phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau: Tuân thủ pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành động, ví 14 dụ như Hướng dẫn viên du lịch không tiến hành những hành vi trục lợi từ khách du lịch chính là đã tuân thủ pháp luật. Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Khác với tuân thủ pháp luật, trong hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới dạng hành động tích cực, chẳng hạn như Hướng dẫn viên thực hiện việc đeo thẻ khi hoạt động hướng dẫn, hoặc doanh nghiệp lữ hành thực hiện chế độ báo cáo tình hình kết quả kinh doanh lữ hành cho cơ quan quản lý chính là đã thi hành pháp luật. Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị bắt buộc phải thực hiện, chẳng hạn như khách du lịch thực hiện quyền kiến nghị, khiếu nại. Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là những hình thức thực hiện pháp luật mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật 15 là một hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật liên quan đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước vì thế cần thiết phải đi sâu nghiên cứu. Thi hành pháp luật - việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước: Áp dụng pháp luật là một hoạt động có tổ chức mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan, người có thẩm quyền, nhằm thực hiện trong thực tế các quy phạm pháp luật trong mọi tình huống cụ thể của cuộc sống. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau: - Khi những quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước; - Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được; - Khi cần áp dụng các biện pháp chế tài được nhà nước quy định trong các quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh; - Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau: Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước, cụ thể, hoạt động này chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không bị phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp 16 luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những cá nhân, tổ chức có liên quan. Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định chặt chẽ. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục. Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Đối tượng của áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hoá, cụ thể hoá đối với những trường hợp cụ thể. Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Như vậy, thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông quan những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. 1.3. Quan niệm pháp luật về du lịch Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động du lịch với tính chất là một hoạt động kinh tế - xã hội là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của pháp luật về du lịch. Về cơ sở lý luận, cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất pháp luật về du lịch. Tuy nhiên, từ góc độ lý luận, xuất phát 17 từ đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch để tiếp cận khái niệm này theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch có thể làm nảy sinh nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực khác nhau, trên thực tế khó có thể liệt kê đầy đủ. Như việc quy hoạch phát triển du lịch, quản lý tài nguyên du lịch liên quan đến lĩnh vực đầu tư xây dựng, nông nghiệp... Việc tổ chức, thành lập các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch làm phát sinh quan hệ quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, các cá nhân hành nghề hướng dẫn, đội ngũ nhân viên phục vụ cho hoạt động du lịch. Đây chính là cơ sở làm phát sinh nhiều nhóm quan hệ xã hội khác nhau về du lịch, trong đó có thể kể đến: quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp kinh doanh du lịch, quan hệ giữa người chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp lữ hành với người điều hành du lịch, quan hệ giữa người điều hành với đội ngũ hướng dẫn viên, quan hệ giữa doanh nghiệp với khách du lịch, giữa hướng dẫn viên với khách. Các quan hệ này rất khác nhau về cả tính chất nội dung và thành phần chủ thể. Với đối tượng điều chỉnh như vậy, pháp luật về du lịch có thể được định nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động du lịch. Từ quan điểm truyền thống của lý luận pháp luật ở Việt Nam thì pháp luật về du lịch là một lĩnh vực pháp luật, bao gồm các quy phạm, các chế định được quy định trong các văn bản pháp luật từ Hiến pháp đến các Luật (như Luật Du lịch, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường, Luật giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, Luật lao động ...) đến Pháp lệnh và các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư... điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình diễn ra hoạt động du lịch. 18 Theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch là các quan hệ pháp luật về du lịch. Trong đó ở một phạm vi nghiên cứu hẹp đó là nghiên cứu các quan hệ pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch. Có thể thấy, các quan hệ pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch phát sinh trực tiếp từ quá trình tạo lập, duy trì tư cách chủ thể pháp luật của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành (bao gồm việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, việc sử dụng người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành, việc đảm bảo có 3 hướng dẫn viên và sử dụng hướng dẫn viên để hướng dẫn cho khách, việc ký quỹ kinh doanh lữ hành...), và vai trò, tư cách, trách nhiệm của người hướng dẫn viên du lịch tham gia trong quá trình phục vụ khách du lịch. Như vậy, khái niệm pháp luật về du lịch được tiếp cận trong khoa học pháp lý nhìn chung có thể được hiểu là các quy định về hoạt động du lịch. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chỉ tiếp cận nghiên cứu theo nghĩa hẹp, với nội dung là những quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch trong những văn bản pháp luật về du lịch, bao gồm từ Luật Du lịch cho đến các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc phân biệt nội hàm của khái niệm pháp luật về du lịch theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp chỉ có tính chất tương đối. Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, các bộ phận cấu thành pháp luật về du lịch nói chung hay pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch nói riêng dù được xác định trên nguyên tắc nào đi chăng nữa thì cũng luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt nội dung. 1.4. Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch được đề cập đến ở đây bao gồm: - Là quá trình các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh lữ hành, bao gồm các doanh nghiệp trong nước, các văn phòng đại diện doanh nghiệp du 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan