Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam...

Tài liệu Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

.PDF
111
163
79

Mô tả:

Đ ẠI HỌ C QU ỐC G I A H À NỘ I K H O A LU Ậ T VŨ THỊ THÚY HẰNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ 60105 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM DUY NGHĨA HÀ NỘI- NĂM 2005 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời nó còn là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, bảo đảm trật tự cạnh tranh có hiệu quả đã trở thành một nguyên tắc cơ bản cho các chế độ kinh tế dựa trên nền tảng cơ chế thị trường. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều quan tâm đến việc kiểm soát và điều tiết cạnh tranh bằng pháp luật nhằm chống lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh nhằm khuyến khích, bảo vệ cạnh tranh, kiểm soát và chống xu hướng độc quyền. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh và bình đẳng phát triển của kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, đặt cơ sở cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu ở Việt Nam. Thực tế trong môi trường kinh doanh, bên cạnh những hoạt động cạnh tranh lành mạnh, đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị thế độc quyền của các doanh nghiệp, gây ra những hậu quả xấu làm tổn hại đến nền kinh tế nói chung và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, của người tiêu dùng nói riêng. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta thời gian qua cho thấy thực trạng cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt ở những mức độ và hình thức khác nhau giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Đã xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh, chúng xâm nhập vào trong lĩnh vực đời sống kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như sản xuất và buôn bán hàng giả, nhái nhãn hiệu hàng hóa, nhái kiểu dáng sản phẩm, quảng cáo mang tính chất dèm pha, đưa ra những tin tức sai sự thật làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh... Những hành vi cạnh tranh không 2 lành mạnh không chỉ gây thiệt hại cho những nhà kinh doanh chân chính, hậu quả của nó còn gây thiệt hại lớn đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội của lợi ích của người tiêu dùng. Cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam vì vậy từ nhiều năm nay đã trở thành mối quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như trong giới khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật. Ngày 09/11/2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật cạnh tranh với những chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, bước đầu đáp ứng được những đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế Việt Nam nói riêng. Với những lý do trên và với mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, một bộ phận của pháp luật cạnh tranh, trong điều kiện Luật cạnh tranh 2004 mới được ra đời ở Việt Nam, cũng sự bổ sung, sửa đổi Bộ luật dân sự 1995, Luật Thương mại 1997, tôi đã chọn vấn đề "Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh (trong đó có pháp luật về độc quyền và pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh) đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình khoa học ở mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau về đề tài này. Có thể liệt kê một số đề tài sau: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp "Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền" năm 1996; Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật "Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay" năm 2001; Nguyễn Như Phát 3 và Bùi Nguyên Khánh "Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" năm 2001; Nguyễn Như Phát "Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/1997; Phạm Duy Nghĩa "Chuyên khảo Luật kinh tế" năm 2004; Đặng Vũ Huân "Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam" năm 2004 v.v... Đáng chú ý là vấn đề xây dựng pháp luật cạnh tranh cũng đã thu hút và trở thành đối tượng nghiên cứu của một số dự án quan trọng do các tổ chức quốc tế thực hiện như: dự án VIE/94/003 về "Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam"; dự án VIE/97/016 về "Các vấn đề pháp lý về thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh"; chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu các giải pháp kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam... Tuy nhiên, đây là những công trình được nghiên cứu trong điều kiện Luật cạnh tranh 2004 chưa được ban hành mà nhằm mục đích cung cấp thêm tài liệu cho việc soạn thảo Luật cạnh tranh. Bên cạnh đó các luật liên quan cũng chưa được bổ sung, sửa đổi như Bộ luật dân sự, Luật Thương mại… Một số đề tài nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện cũng với thời gian khá lâu trên cơ sở các văn bản pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh chưa được sửa đổi. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật, đề tài mà chúng tôi lựa chọn tập trung nghiên cứu thực trạng cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, thiết chế thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong những năm gần đây cũng như đưa ra một số biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. 3. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 4 Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động cạnh tranh không lành mạnh dưới góc độ pháp lý. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta hiện nay. Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ luật học, tác giả không đặt vấn đề nghiên cứu tất cả những vấn đề có liên quan đến hoạt động cạnh tranh cũng như hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà chỉ tập trung làm rõ một số nội dung sau: - Nghiên cứu lý luận về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, khẳng định việc ra đời của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và đẩy mạnh thực thi các quy định đó trong điều kiện Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan. - Nghiên cứu thực trạng cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay. Phân tích các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật cũng như đường lối, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu, phù hợp với nội dung của đề tài như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh… 5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI 5 Ngoài Lời mở đầu, Phần kết luận và Phần mục lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng 1:Một số vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam 6 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Khi kinh tế thị trường là mục tiêu phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới thì song song với nó khái niệm cạnh tranh cũng ngày càng trở nên quen thuộc hơn. Lịch sử ra đời và tồn tại của cạnh tranh gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một trong những quy luật vận động của nền kinh tế thị trường, nếu không có cạnh tranh thì sẽ không có nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Là hiện tượng kinh tế chỉ xuất hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực nội tại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Là một đặc trưng của kinh tế thị trường, cạnh tranh cũng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội. Do đó, khái niệm cạnh tranh cũng được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như luật học, kinh tế học, triết học... Dưới góc độ pháp lý, cạnh tranh được sự quan tâm nghiên cứu ở nhiều quốc gia và do vậy, cũng có nhiều khái niệm khác nhau xung quanh vấn đề này. 7 Theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là:“ Chạy đua trong kinh tế, hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”. “Chạy đua trên một thị trường mà cấu trúc và sự vận hành của thị trường đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung cấp với bên kia là những người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ; các hàng hóa và dịch vụ này được tự do tiếp cận trong điều kiện các quyết định kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc những ưu đãi do pháp luật mang lại” [32, tr.11]. Như vậy, có thể thấy các yếu tố cấu thành cạnh tranh theo Luật cạnh tranh của Pháp bao gồm: khách hàng thường xuyên (đây là đối tượng và cũng là mục tiêu mà tất cả các bên tham gia cạnh tranh đều hướng tới thu hút); các bên tham gia cạnh tranh (chủ yếu là các doanh nghiệp); môi trường chính trị, pháp lý tạo thuận lợi cho cạnh tranh (đó chính là nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong môi trường tự do kinh doanh); thị trường liên quan (được xác định thông qua thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan). Theo từ điển kinh doanh của Vương quốc Anh, xuất bản năm 1992, cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa như sau: ”Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” [45,tr.17]. Điều 4 Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan đưa ra định nghĩa cạnh tranh:”Thuật ngữ cạnh tranh được dùng để chỉ những hành động theo đó hai hay nhiều doanh nghiệp đưa ra thị trường mức giá, số lượng, chất lượng, dịch vụ ưu đãi hơn hoặc những điều kiện khác nhằm giành cơ hội kinh doanh”. 8 Theo quyển Từ điển Tiếng Việt - Bách khoa tri thức phổ thông giải thích cạnh tranh theo nghĩa kinh tế, triết học là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Qua xem xét một số định nghĩa cạnh tranh như trên, có thể thấy mặc dù được nghiên cứu, đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, định nghĩa có thể là khái quát hay cụ thể đi nữa thì các định nghĩa này cũng đều thể hiện được những đặc trưng riêng của cạnh tranh: là sự ganh đua, tranh giành quyền lợi, ảnh hưởng; chủ thể là các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trong cùng một thị trường liên quan; các chủ thể cạnh tranh đều có chung một mục đích sinh lời. Như vậy, dưới góc độ pháp lý theo nghĩa chung nhất, cạnh tranh có thể được hiểu là quá trình mà các chủ thể tìm mọi biện pháp để vượt lên so với các đối thủ về một lĩnh vực nhất định [48, tr.17]. Mức độ biểu hiện của cạnh tranh: Nói đến cạnh tranh, người ta thường nghĩ ngay đến sự ganh đua thuần túy giữa các nhà kinh doanh trên thương trường. Tuy nhiên, cạnh tranh lại được xem xét dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nó được xem xét dưới các khía cạnh như: cạnh tranh tự do, cạnh tranh có điều tiết; cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh mang tính độc quyền; cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. a. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế, người ta phân chia cạnh tranh thành: cạnh tranh tự do và cạnh tranh có điều tiết. Cạnh tranh tự do: cạnh tranh tự do đã từng là quy luật đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên cơ sở đề cao vai trò của sở hữu tư nhân vào thế kỷ XIX - XX. Đó là một nền kinh tế có sự tự do cạnh tranh lớn, rất ít sự can thiệp của Nhà nước, chi phối của các thế lực trên thị trường. Bên cạnh những ưu điểm, cạnh tranh tự do đôi khi được xem là một trong những nhược 9 điểm của nền kinh tế thị trường. Nó có thể mang lại hậu quả rất sâu sắc cho nền kinh tế và cho xã hội như phân hóa giàu nghèo, phá sản hàng loạt, thất nghiệp… Cạnh tranh có điều tiết: Nhược điểm của cạnh tranh tự do đã mang lại những hậu quả tiêu cực, do vậy sự can thiệp, điều tiết hoạt động cạnh tranh của Nhà nước là mang tính tất yếu trong điều kiện Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều tiết nền kinh tế. Sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh trên thị trường được thực hiện thông qua pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác của Nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước không làm thủ tiêu hoàn toàn cạnh tranh mà sự can thiệp này là cần thiết nhằm đáp ứng những nhu cầu về mặt xã hội được đánh giá là thiết yếu. b. Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức thực hiện hành vi cạnh tranh, người ta phân cạnh tranh thành: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh: là các hành vi cạnh tranh hợp pháp, trung thực, tuân thủ đạo đức và tập quán kinh doanh, cạnh tranh bằng chính nội lực, tiềm lực thực có của người kinh doanh mà không xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Cạnh tranh lành mạnh được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ vì nó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, phát triển nền kinh tế. Cạnh tranh không lành mạnh: là việc sử dụng những biện pháp không chính đáng để giành giật khách hàng, cơ hội kinh doanh làm thiệt hại đến đối thủ, đến người tiêu dùng và xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh bị pháp luật cạnh tranh nghiêm cấm vì nó vi phạm pháp luật, trái với tập quán thương mại, đạo đức kinh doanh, xâm phạm tới quyền lợi của các chủ thể khác và đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. 10 c. Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung của thị trường, của một ngành, một lĩnh vực kinh tế, người ta phân cạnh tranh thành ba mức độ khác nhau: cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo, độc quyền. Cạnh tranh hoàn hảo: còn được gọi là cạnh tranh thuần túy. Là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một hàng hóa là không đổi trên thị trường. Người mua và người bán có sự hiểu biết tường tận về các điều kiện của thị trường. Trong thị trường có sự luân chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này sang ngành khác. Trong cạnh tranh hoàn hảo, giá cả được định đoạt một cách duy nhất thông qua quan hệ cung cầu. Cạnh tranh hoàn hảo bảo đảm được sự ganh đua của các nhà sản xuất và bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, hình thái thị trường hoàn hảo chỉ có trên lý thuyết, còn trên thực tế thì chỉ tồn tại hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh không hoàn hảo: đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các chủ thể kinh doanh có quyền lực thị trường tương đối lớn để có thể kiểm soát giá cả sản phẩm đầu ra hoặc đầu vào của họ. Cạnh tranh không hoàn hảo gây ra những hiệu ứng không tốt đến nền kinh tế, biểu hiện ở mức giá tăng cao và sản lượng giảm dần so với nhu cầu của xã hội. Trong điều kiện chi phí giảm dần của các nhà cạnh tranh không hoàn hảo, sản phẩm được sản xuất ra sẽ có giá thành thấp, điều đó làm cho sự tồn tại của các doanh nghiệp nhỏ không được bảo đảm. Vì vậy, thực tế thì trên thị trường cạnh tranh không hoàn hảo chỉ có một số ít các chủ thể kinh doanh cạnh tranh với nhau. Trong cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: Cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm. Cạnh tranh mang tính độc quyền: là hình thức cạnh tranh mà ở đó những người bán có thể ảnh hưởng đến những người mua bằng sự khác nhau của sản phẩm mà mình sản xuất ra về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác… 11 Trong một số trường hợp người bán có thể buộc người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ đưa ra. Trong hình thức cạnh tranh này, các nhà kinh doanh luôn tạo cho sản phẩm của mình sự khác nhau về chất lượng, kiểu dáng… nhằm làm cho sản phẩm của họ có điểm khác biệt so với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy, tuy trên thị trường tồn tại nhiều người bán nhưng mỗi người lại có sức mạnh độc quyền riêng. Tiêu biểu cho hình thức cạnh tranh này là các thị trường điện tử, viễn thông, các sản phẩm công nghệ phần mềm trong lĩnh vực tin học… Do có vị thế độc quyền như vậy nên các nhà kinh doanh thường lạm dụng vị thế độc quyền này để tác động đến hoạt động cạnh tranh của các đối thủ khác như các hành vi từ chối bán hàng, bán hàng kèm, bán hàng theo những điều kiện phân biệt đối xử… Hành vi này đã đẩy các doanh nghiệp khác vào thế bất lợi trong cạnh tranh, xâm phạm đến trật tự cạnh tranh, do đó bị pháp luật cạnh tranh nghiêm cấm. Độc quyền nhóm: là hình thức trung gian của cạnh tranh không hoàn hảo. Độc quyền nhóm nằm giữa cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền. Nó xuất hiện trong một số ngành sản xuất, khi mà ở đó, chỉ có một số ít người sản xuất hoặc có một số ít người kinh doanh sản phẩm. Những nhà sản xuất, kinh doanh này có tiềm lực kinh tế rất lớn. Những hoạt động thay đổi về giá cả của họ sẽ làm ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường cũng như ảnh hưởng đến sự quyết định về giá cả của doanh nghiệp khác. Ở các nước phát triển, độc quyền nhóm thường xuất hiện ở ngành như sản xuất ô tô, sản xuất chế biến thép, xi măng… Các doanh nghiệp thường có những thỏa thuận ngầm, thông đồng với nhau nhằm mục đích: - Hạn chế các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc tham gia cạnh tranh. 12 - Cản trở việc hình thành giá theo quy luật cạnh tranh qua thỏa thuận tăng hoặc giảm giá. - Hạn chế hoặc kiểm soát mức sản xuất, mức đầu tư, cải tiến kỹ thuật. - Phân chia thị trường, nguồn cung ứng, tiêu thụ sản phẩm… 1.1.2. Chức năng của cạnh tranh Cạnh tranh có thể đem lại lợi ích cho người này và gây thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực (ví dụ: cạnh tranh đem lại chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn,…). Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng. Tầm quan trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Tùy theo từng thời kỳ, tùy theo việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chức năng, người ta xây dựng mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau. Thứ nhất, cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Một trong những đặc trưng của cạnh tranh là mục đích sinh lời (lợi nhuận) của các chủ thể cạnh tranh. Các chủ thể kinh doanh khi tham gia cạnh tranh trên thị trường đều mong muốn đạt được hiệu quả cao và tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, họ luôn phải cân nhắc, tính toán cẩn trọng khi sử dụng các nguồn lực về vật chất cũng như nhân lực của mình vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Họ luôn luôn mong muốn sử dụng một cách tối ưu và hợp lý các nguồn tài nguyên này một cách tiết kiệm nhất về chi phí nhưng đồng thời nó phải đem lại hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy mà các nguồn tài nguyên được sử dụng một cách hợp lý để phát huy hết khả năng vốn có đưa lại năng suất cao. Thứ hai, cạnh tranh tạo cơ hội cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của các thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đem lại thành công cho các nhà kinh doanh khi tạo ra cho thị trường ngày càng nhiều sản 13 phẩm mới, đa dạng, hữu ích. Khi một sản phẩm đưa ra thị trường được người tiêu dùng chấp nhận vì sự phù hợp của nó thì sản phẩm đó sẽ nhanh chóng chiếm được ưu thế và đồng thời cũng đem lại cho nhà kinh doanh lợi nhuận cao. Và điều này sẽ khiến cho các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm hàng hóa cùng loại sẽ quan tâm tới việc cải tiến sản phẩm của họ về chất lượng cũng như mẫu mã bằng việc tiếp cận sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ mới sẽ đem lại sự hữu hiệu cho sản xuất, kinh doanh, làm tăng các tính năng cũng như chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó nó cũng sẽ giúp làm giảm giá thành sản phẩm. Các hoạt động nghiên cứu và triển khai nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận sẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ, hướng tới sử dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, cạnh tranh có chức năng phân phối và điều hòa thu nhập. Cạnh tranh tạo ra áp lực liên tục đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Không có chủ thể kinh doanh nào có thể mãi mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống phân phối trên thị trường. Để ganh đua, các đối thủ cạnh tranh sẽ không ngừng tìm kiếm những giải pháp hữu ích nhằm sản xuất ra những sản phẩm ưu việt hơn. Vì vậy, một sản phẩm hàng hóa thỏa mãn được yêu cầu của người tiêu dùng có thể chiếm được ưu thế trên thị trường trong một thời điểm nhất định, nhưng nó lại luôn bị đe dọa bởi những sản phẩm cùng loại khác tiến bộ hơn. Có cạnh tranh, các nhà kinh doanh không thể lạm dụng được ưu thế của mình. Vì vậy, cạnh tranh là một yếu tố sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối và điều hòa thu nhập. Thứ tư, cạnh tranh góp phần làm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và đem lại lợi ích cho họ. Trong nền kinh tế, thị trường chủ yếu do tiêu dùng điều tiết. Ở nước nào cũng vậy, người tiêu dùng bao giờ cũng là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, là lớp người có ảnh hưởng to lớn đến những quyết sách về kinh tế, dù là của Nhà 14 nước hay của tư nhân. Mức sống của người dân càng được cải thiện thì mức độ tiêu dùng càng cao. Việc mua bán, sử dụng hàng hóa và dịch vụ của người tiêu dùng là chỉ số quan trọng định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhà kinh tế học Adam Smith đã viết: “Tiêu dùng là kết quả và mục đích duy nhất của sản xuất và lợi ích của nhà sản xuất cũng gắn liền vào đó chừng nào mà lợi ích của nhà sản xuất còn cần thiết cho việc thúc đẩy lợi ích của người tiêu dùng. Sự lựa chọn và sức tiêu thụ hàng hóa của họ là thước đo chính xác cho tính chất lượng và độ phù hợp của một sản phẩm hàng hóa. Cạnh tranh gây tác động liên tục đến giá cả, buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu phương án sản xuất kinh doanh sao cho chi phí nhỏ, hiệu quả cao, chất lượng tốt để phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Bởi vậy, trong điều kiện có cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, người tiêu dùng quyết định sự sống còn của sản phẩm, buộc các nhà kinh doanh phải thỏa mãn yêu cầu của họ. Thứ năm, cạnh tranh có chức năng kiểm soát sức mạnh kinh tế. Sự cạnh tranh có hiệu quả không loại trừ việc hình thành những tập đoàn có tiềm lực và thế mạnh về kinh tế. Song, nếu cạnh tranh được duy trì và bảo đảm trong một trật tự nhất định sẽ từng bước phá vỡ sự tập trung sức mạnh kinh tế này. Bản thân hoạt động cạnh tranh có chức năng tự thân kiểm soát sức mạnh kinh tế, nhưng chức năng này khi không đủ sức để kiểm soát sự tập trung sức mạnh kinh tế ở quy mô quá lớn, nhất định sẽ xuất hiện sự kiểm soát của các thế lực có quyền lực chính trị [41, tr.167-168]. 1.1.3. Những đặc trƣng cơ bản của cạnh tranh a. Tính hai mặt của cạnh tranh Nghiên cứu cạnh tranh dưới giác độ kinh tế học, xã hội học và khoa học pháp lý cần thấy rõ mặt tích cực nhưng cũng đồng thời phải xem xét cả mặt tiêu cực của nó. Chúng luôn tồn tại song song khi cạnh tranh thực hiện các chức năng của nó trong điều kiện kinh tế thị trường. 15 Ở mặt tích cực, cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Trong môi trường kinh doanh, cạnh tranh diễn ra như một quy luật của nền kinh tế thị trường, nó vận hành tương ứng với các quy luật kinh tế khác như quy luật cung cầu, quy luật giá trị v.v… và tôn vinh quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Do tính chất khốc liệt của thị trường, sự tồn tại hay diệt vong của doanh nghiệp này hay doanh nghiệp khác là một kết quả tất yếu của cạnh tranh. Song, xét dưới góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh luôn mang lại những tác động tích cực. Mục đích của cạnh tranh suy cho cùng là nhằm tiêu thụ lượng hàng hóa tối đa, đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất. Muốn vậy, các chủ thể cạnh tranh phải chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ và phương thức kinh doanh làm thỏa mãn yêu cầu của thị trường mà cụ thể là của người tiêu dùng. Do đó, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều khuyến khích cạnh tranh với mong muốn cạnh tranh có thể đem lại một số lợi ích sau: - Bảo đảm và đáp ứng sở thích của người tiêu dùng. Nghĩa là sản phẩm hàng hóa thỏa mãn được yêu cầu của người tiêu dùng về giá cả hợp lý, chất lượng, mẫu mã. - Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới nhằm giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm sẽ rẻ hơn đối thủ cạnh tranh, nhờ đó mà khoa công nghệ phát triển không ngừng. - Vị thế trung tâm của người tiêu dùng ngày càng được quan tâm và đề cao, quyền lợi của người tiêu dùng ngày càng được đảm bảo. Cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng ngày càng được thỏa mãn một cách tối ưu. - Cuối cùng, cạnh tranh sẽ mang lại một nền kinh tế năng động, sáng tạo và không ngừng tăng trưởng. 16 Bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng bộc lộ những tiêu cực nhất định cần hạn chế và điều chỉnh. Biểu hiện ở chỗ cạnh tranh có xu hướng phân hóa các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp mạnh có uy thế sẽ giành chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh, uy tín được nâng cao, lợi nhuận kinh tế thu được ở mức cao hơn, còn các doanh nghiệp không đủ năng lực để cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có nguy cơ dẫn đến phá sản. Do liên tục áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ hoặc do các doanh nghiệp bị thất thế trong quá trình cạnh tranh và đi đến phá sản, người lao động có thể bị mất việc làm, dẫn đến hàng loạt hậu quả xã hội khác. Điều này cũng có thể tạo ra sức ép nhất định đối với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở mỗi quốc gia. Một hậu quả tiêu cực khác của cạnh tranh mang tính chủ yếu và xâm phạm trực tiếp lợi ích của các nhà sản xuất, kinh doanh khác, lợi ích người tiêu dùng xã hội - đó là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh là những biểu hiện trên thực tế của các nhà doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh đã có thái độ gian dối, không phù hợp với các hành vi xử s ự lành mạnh xảy ra trong mọi lĩnh vực và được biểu hiện rất đa dạng như: gây nhầm lẫn về nơi sản xuất, sản phẩm hàng hóa, tên thương mại hoặc xuất xứ hàng hóa; hành vi lừa dối, tạo ra một ấn tượng giả về hàng hóa, dịch vụ của đối tượng cạnh tranh; vi phạm bí mật thương mại; lợi dụng không chính đáng thành quả trong kinh doanh của người khác; quảng cáo không trung thực; bán phá giá; khuyến mại quá đáng; mua vét hàng hóa gây khủng hoảng giả tạo làm rối loạn thị trường (theo Công ước Paris). Một cách khái quát, cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh lành mạnh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của toàn xã hội. 17 Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội, cần phải có các chính sách, biện pháp để phát huy mặt tích cực và hạn chế, điều chỉnh mặt tiêu cực của cạnh tranh. b. Cạnh tranh là một quy luật khách quan, có ảnh hưởng và chi phối hoạt động của nền kinh tế thị trường Cùng với quy luật cung - cầu, quy luật giá trị và các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh tranh cũng là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Nó đã trở thành nguyên tắc, môi trường vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Khi tham gia cạnh tranh trên thị trường, các chủ thể kinh doanh có thể thực hiện nguyên tắc tự do kinh tế, tự do hình thành giá cả, đảm bảo sự lưu thông tự do của hàng hóa và các yếu tố sản xuất. Qua đó, thực hiện hợp lý sự phân phối tài nguyên, bảo đảm quyền tự do hành động và tự do lựa chọn của người kinh doanh và người tiêu dùng. Khi nền kinh tế thị trường vận hành theo các quy luật thì cạnh tranh cũng có vận động biến đổi phù hợp với quan hệ cung - cầu, chịu sự chi phối của quy luật giá trị, quy luật hình thành giá cả và các quy luật kinh tế khách quan khác. Dưới sự tác động và đồng hành với các quy luật kinh tế, cạnh tranh cũng có tính quy luật. Quy luật cạnh tranh vận động không lệ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ quan của các chủ thể kinh doanh tham gia thị trường. Dưới sự tác động của các quy luật kinh tế khác, quy luật cạnh tranh buộc các chủ thể tham gia thị trường phải cạnh tranh với nhau bằng những tiềm lực vốn có của họ để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Sự vận dụng khéo léo, có hiệu quả, hợp lý quy luật cạnh tranh cộng với sức mạnh của chính họ sẽ tạo ra sức mạnh cạnh tranh lớn. Bên cạnh đó, quy luật cạnh tranh tác động trực tiếp, tạo ra áp lực làm thay đổi tiềm lực nội tại cũng như phương thức cạnh tranh của những chủ thể kinh doanh tham gia thị trường, buộc họ muốn tồn tại trên thị trường thì phải có các biện pháp phù hợp như đổi mới công nghệ, quan tâm nâng cao chất lượng sản 18 phẩm, giảm giá thành sản phẩm, sử dụng hợp lý các nguồn lực, thay đổi phương thức kinh doanh v.v… để tạo vị thế mới trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng luôn giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế và là đối tượng hướng tới của mọi doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy, nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng chính là những động lực thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Người tiêu dùng là những người quyết định sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh trên thị trường. Bởi vậy, có thể nói, quy luật cạnh tranh cũng tác động đến thái độ, ứng xử và quyền lợi của người tiêu dùng. Quy luật cạnh tranh cũng tác động, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách và pháp luật của nhà nước. Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp là đạt vị thế cao trên thị trường để khai thác tố i đa lợi nhuận trong một thời gian. Các doanh nghiệp có thể sẽ áp dụng các biện pháp khác nhau để giành vị thế cao trên thị trường, trong đó có cả những biện pháp tác động tiêu cực đến thị trường và xã hội. Nhà nước phải có nghĩa vụ tạo ra và bảo đảm một môi trường cạnh tranh tích cực, không cho phép xuất hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Tổng thể những biện pháp đó là chính sách cạnh tranh của nhà nước. Ở một số chừng mực nhất định, nhà nước vận dụng quy luật cạnh tranh để hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội. Mục đích của việc xây dựng chính sách cạnh tranh, pháp luật điều tiết các quan hệ trong kinh tế thị trường là: bảo đảm các chính sách kinh tế - xã hội được thực hiện hiệu quả vì lợi ích chung cho toàn xã hội, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh khi tham gia thị trường, chống lại những biểu hiện và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh, đảm bảo công bằng xã hội. c. Cạnh tranh luôn có xu thế hướng tới độc quyền 19 Cạnh tranh lành mạnh là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế hàng hóa. Cạnh tranh đối lập với độc quyền vì độc quyền luôn triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh và sự công bằng. Cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung nguồn lực, vốn và các yếu tố khác trong quá trình tái sản xuất. Cạnh tranh cao độ sẽ làm xuất hiện các doanh nghiệp lớn có khả năng khống chế được thị trường và tiến tới độc quyền thị trường đó. Bên cạnh đó, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực và sức cạnh tranh hạn chế cũng có thể dẫn đến con đường hình thành độc quyền, bằng cách họ liên kết lại với nhau tạo ra ưu thế cạnh tranh trên thị trường và xu thế độc quyền tất yếu sẽ xảy ra. Lợi nhuận là mục tiêu thúc đẩy quá trình cạnh tranh; cạnh tranh thôi thúc các chủ thể phải phát triển tiềm lực cạnh tranh thực có của mình hoặc liên kết với các đối thủ khác để chiếm lĩnh thị trường, tạo ưu thế cạnh tranh và thu lợi nhuận… Như vậy, có thể nói, độc quyền là con đẻ của cạnh tranh, được tạo ra do quy luật cạnh tranh và cạnh tranh gay gắt. Nếu không có biện pháp kiểm soát và điều tiết mà để cạnh tranh tự do phát triển, chắc chắn chúng sẽ tiến hóa theo con đường từ cạnh tranh lành mạnh sang cạnh tranh không lành mạnh, rồi sang cạnh tranh mang tính độc quyền và cuối cùng độc quyền sẽ xảy ra. Như vậy, từ cạnh tranh lành mạnh ban đầu vốn là động lực của sự phát triển nền kinh tế sẽ bị thủ tiêu khi hậu quả cuối cùng của cạnh tranh là độc quyền tất yếu xảy ra. Độc quyền là lực cản, là kẻ thù lớn nhất của môi trường cạnh tranh [29, tr.34-35]. 1.1.4. Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh Là một hiện tượng kinh tế - xã hội, cạnh tranh có tính hai mặt, hai mặt này mâu thuẫn nhưng cùng thống nhất trong một hiện tượng khách quan. Cạnh tranh có tính tích cực khi nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển thông qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm… Nhưng nó sẽ là tiêu cực khi trở thành công cụ để triệt tiêu nhau giữa các doanh nghiệp bằng những thủ đoạn mà không phải bằng chính năng lực cạnh tranh thực sự của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan