Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay

.PDF
116
433
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ PHƯƠNG NGA PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ PHƯƠNG NGA PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Đức Thảo HÀ NỘI – 2008 Mục lục CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬTBẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ...................................................................................................................................1 1.1 TRUYỀN THỐNG BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM ..................................................................................................1 1.2 MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN TRONG ĐƢỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC TA VỀ BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM ............................2 1.3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẶC THÙ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TRẺ EM ...............................................................................................................................7 1.3.1 Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em trong hệ thống các quyền con ngƣời ...............7 1.3.1.1 Khái niệm trẻ em trong pháp luật quốc tế .......................................................7 1.3.1.2 Khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt nam ...................................................9 1.3.2 Khái niệm pháp luật về trẻ em ................................................................................9 1.3.3 Một số đặc thù cơ bản của pháp luật về trẻ em ....................................................10 1.3.4 Quyền trẻ em trong hệ thống các quyền con ngƣời .............................................12 1.4. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN TRẺ EM .............................................................................................................................13 1.5 TỔNG QUAN SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUYỀN TRẺ EM ......................................................................................................................................17 1.5.1 Luật Hiến pháp ......................................................................................................18 1.5.2 Luật dân sự, luật hôn nhân- gia đình, luật tố tụng dân sự ...................................21 1.5.3 Luật Hình sự, luật tố tụng hình sự ........................................................................22 1.5.4 Luật lao động .........................................................................................................23 1.5.5 Luật Hành chính ....................................................................................................23 1.5.6 Luật quốc tịch ........................................................................................................24 1.5.7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em .............................................................25 CHƢƠNG 2 BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ..........................................................................................................28 2.1. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ..............28 2.1.1 PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN NAY.....................................................................................................29 2.1.2. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 .................................................................................................................................31 2.1.3 QUYỀN NHÂN THÂN CỦA TRẺ EM TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ............................................................................................................37 81 2.1.4 QUYỀN TÀI SẢN CỦA TRẺ EM TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 .......................................................................................................................41 2.2. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG .............................42 2.3. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .................................46 2.3.1 CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TRẺ EM PHẠM TỘI .................................47 2.3.2 CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI PHẠM TỘI XÂM HẠI TRẺ EM .........................................................................................................................52 CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ...................................90 3.1 KHÁI QUÁT NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở NƢỚC TA...........................................................................................................................90 3.1.1. Phê chuẩn và nội luật hoá các nguyên tắc của Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em ........................................................................................................................................90 3.1.2 Xây dựng một hệ thống pháp luật tƣơng đối đồng bộ về bảo vệ quyền trẻ em trong các lĩnh vực quan hệ xã hội ..................................................................................91 3.1.3 Hoạch định và tổ chức thực thi nhiều chƣơng trình hành động quốc gia về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em ........................................................................................59 3.2 NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRẺ EM .......................................................................................................................94 3.3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ....................................61 3.4 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG............................................................101 3.5 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ................................................................106 3.5.1 THỰC TRẠNG NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...........................106 3.5.2 TÌNH HÌNH TRẺ EM BỊ TỘI PHẠM XÂM HẠI .............................................109 3.6 CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG TRẺ EM PHẠM TỘI ..............113 3.6.1 NHÓM NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ GIA ĐÌNH .....................................73 3.6.2 NHÓM NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ NHÀ TRƢỜNG...........................116 3.6.3 NHÓM NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ XÃ HỘI .......................................117 3.6.4 SỰ BẤT CẬP TRONG HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ HỆ THỐNG CƠ QUAN BẢO VỆ PHÁP LUẬT ...................120 3.7 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TRẺ EM ...............................................121 3.7.1 NHỮNG NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CHỦ YẾU TRONG CHIẾN LƢỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ..............................................................................................................................121 82 3.7.2 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ..125 83 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1 TRUYỀN THỐNG BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM Dân tộc ta từ ngàn xưa đã có truyền thống coi trọng gia đình, thương yêu, tôn trọng trẻ em. Truyền thống đó đã đi vào ca dao, tục ngữ và cả trong pháp luật, từ xa xưa ông cha ta đã có câu “con hơn cha là nhà có phúc”, hay “dạy con từ thuở còn thơ”. Tuy cuộc sống đầy khó khăn, vất vả song các bậc cha mẹ, ông bà đều dành cho trẻ em một sự quan tâm đặc biệt. Ngược dòng thời gian, chúng ta bắt gặp một sự quan tâm, ưu ái đặc biệt đối với trẻ em trong bối cảnh một xã hội phong kiến. Bộ Luật Hồng Đức dưới triều đại vua Lê Thánh Tông, một trong những bộ luật tầm cỡ thế giới với nhiều quy định pháp lý tiến bộ, mang đậm tính nhân văn và đạt trình độ cao về kỹ thuật pháp lý là một minh chứng sống cho truyền thống quý báu này. Quốc triều hình luật là một bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong lịch sử nhà nước pháp luật phong kiến Việt nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời; có những điểm tiếp cận với kỹ thuật pháp lý hiện đại [1], làm cho nhiều nhà nghiên cứu đã "đi từ sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên khác"[2]. Điều 16 Bộ Luật Hồng Đức quy định: “những người từ 15 tuổi trở xuống, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo luật này; trẻ em từ 10 tuổi trở xuống phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để Vua xét định, ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra không bắt tội; trẻ em từ 7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật ấy phải bồi thường. Nếu ai xét ra 1 tình trạng đáng thương hay tài năng đáng tiến thì đặc cách cho được khỏi phải thích mặt”. Tại Điều 17 quy định: “Khi còn bé nhỏ phạm tội, đến khi lớn mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn nhỏ”. Qua đó có thể thấy, mặc dù pháp luật phong kiến chủ yếu là mang tính chất hình sự với hệ thống các chế định tội phạm và hình phạt song cũng đã có chính sách ưu đãi đối với trẻ em khi phạm tội và sự trừng trị nghiêm minh đối với những hành vi xâm phạm đến trẻ em. Nhà làm luật đã có sự xem xét, tính toán thận trọng trong quá trình xét xử và quyết định hình phạt, các quy định pháp luật luôn cân nhắc xem xét kỹ lưỡng theo hướng giảm nhẹ, hoặc miễn trách nhiệm cho trẻ em. Ngoài các quy định về xử lý những trẻ em phạm pháp, pháp luật phong kiến còn chú ý quan tâm đến trẻ em khi chúng bị tội phạm xâm phạm đến. Điều 313 Bộ Luật Hồng Đức quy định: “những trẻ nhỏ mồ côi tự bán mình mà không có ai bảo lãnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng thảy đều xử tội xuy, trượng như luật (đàn bà đánh 50 roi, đàn ông đánh 80 trượng), đòi lại tiền trả cho người mua mà huỷ bỏ văn khế”. Thể hiện tính nghiêm minh trong việc xử lý các hành vi xâm phạm nhân phẩm của các em, Điều 404 Bộ Luật Hồng Đức quy định: “gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con gái thuận tình cũng xử như tội hiếp dâm”. Không chỉ được bảo vệ về các lợi ích tinh thần, danh dự, trẻ em còn được bảo vệ về mặt quan hệ tài sản. Ví dụ, tại Điều 377 có quy định: “khi chồng chết, con còn nhỏ, mẹ đi cải giá mà lại đem bán điền sản của con, thì xử phạt 50 roi, trả tiền lại người mua, trả ruộng cho con. Nếu có lý do đã trình bày với họ hàng bằng lòng cho bán, cũng phải trình quan để xem xét cần tiêu hết bao nhiêu, thì chỉ cho bán bấy nhiêu thôi. Nếu người chồng sau mạo tên con người chồng trước mà bán, thì người chồng sau, người viết thay văn tự và người chứng kiến đều xử phạt 60 trượng, biếm 2 tư. Người biết sự việc mà cứ mua thì xử phạt 80 trượng và mất số tiền mua, ruộng phải trả lại cho con. Vợ sau mà bán điền sản của con vợ trước thì cũng xử tội như thế”. Một số ví dụ về các quy định trong Bộ Luật Hồng Đức đã cho thấy tính nhân văn của bộ luật và truyền thống của dân tộc được thể hiện trong bộ luật về 2 bảo vệ trẻ em. Đương nhiên, chúng ta không thể đặt vấn đề so sánh với pháp luật hiện đại bởi “mọi sự so sánh đều khập khiễng”, song có thể nói, hiếm có một bộ luật nào vào thời bấy giờ trên thế giới lại có thể quy định về bảo vệ và chăm sóc trẻ em nhiều và sâu sắc, tiến bộ đến như vậy. Mặc dù pháp luật phong kiến chủ yếu bảo vệ tầng lớp địa chủ, áp bức nông dân với những điều luật và hình phạt hà khắc song vẫn có những quy định mang đậm tính nhân văn, bảo vệ trẻ em trong một bối cảnh xã hội hết sức đói nghèo và lạc hậu. Chúng ta ngày nay nên học tập kinh nghiệm quý báu của người xưa “trong việc qui định trách nhiệm pháp lý giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trách nhiệm pháp lý của cha mẹ đối với con cái; kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật trong các môi trường: gia đình, đoàn thể, cộng đồng dân cư và xã hội”[3]. 1.2 MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN TRONG ĐƢỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC TA VỀ BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một truyền thống và đường lối nhất quán, xuyên suốt trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước ta. Đường lối của Đảng về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được thể hiện rất rõ nét, sinh động, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn và phát triển phù hợp xu hướng của thế giới hiện đại. Điều đó đã được khẳng định ngay từ ngày đầu mới thành lập (3-21930) dù trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, Đảng ta vẫn giành mối quan tâm rất lớn đến chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đối với trẻ em. Trong chương trình Việt Minh đã xác định học sinh, nhi đồng là hai tầng lớp nhân dân - lực lượng của cách mạng, đối với học sinh có chính sách là "Bỏ học phí, mở thêm trường học, giúp đỡ học trò nghèo" còn đối với nhi đồng thì chính sách là "được Chính phủ chăm sóc đặc biệt về thể lực và trí lực". Trong bài Diễn ca Hồ Chí Minh viết: Trẻ em bố mẹ khỏi lo Dạy nuôi Chính phủ giúp cho đầy đủ Thanh niên có trường học nhiều 3 Chính phủ trợ cấp trò nghèo hàn nho Sự quan tâm của Đảng thể hiện rõ nét trong chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về Công tác thanh vận số 17/CT/TW ngày 01 tháng 09 năm 1947 với một số quy định như sau: “- Các cấp bộ trong Đoàn thanh niên Việt nam phải có người chuyên môn phụ trách thiếu nhi. - Phải mở những lớp dạy chữ cho các em biết chữ - Giúp đỡ cho các thiếu nhi ra sách, báo chí để giáo dục cho thiếu nhi - Nêu cao những thành tích của thiếu nhi - Giúp đỡ cho các em lưu lạc vì chiến tranh” [4;31] Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người vô cùng khó khăn vất vả nhưng Người đã dành một sự quan tâm ưu ái sâu sắc và cảm động đối với trẻ em. Người quan niệm, trẻ em là thế hệ mầm non, người chủ tương lai, quyết định vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Điều đó xuất phát từ tình thương bao la, rộng lớn và thể hiện một nhân cách đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh. Người coi trọng nhân tố con người trong mọi công việc, hoạt động xã hội trong đó trẻ em được dành sự quan tâm đặc biệt. Người nói: "Muốn có chế độ xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa" Từ đó đi đến việc phải "trồng người" - phải giáo dục, rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ. "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến trẻ em, Người đã từng viết trong di chúc rằng: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Với cả cuộc đời đi làm cách mạng, phục vụ tổ quốc, đồng bào, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên truyền bá tư tưởng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vì “ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản tư tưởng vô cùng quý báu trong đó có những quan điểm về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều này đã được thể hiện ngay trong 4 chương trình Việt Minh mang dấu ấn rất đậm nét, đặc thù của tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà lãnh tụ cách mạng, nhà văn hoá lớn của dân tộc và thời đại. Tư tưởng nhân văn, phát triển đối với trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói riêng đã được cương lĩnh hoá trong chương trình Việt Minh và sau đó Cách mạng tháng Tám thành công đã được thể chế hoá trong đạo luật cơ bản đầu tiên là Hiến pháp năm 1946. Điều này được minh chứng qua những quy định mang tính pháp lý cao nhất lúc bấy giờ là Hiến pháp năm 1946 có ghi rằng “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí, ở các trường sơ học địa phương quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình; Học trò nghèo được Chính phủ giúp” (Điều 15, Hiến pháp 1946) Đến bản Hiến pháp lần thứ hai ra đời 1959 đã quy định và là một minh chứng cho sự nhất quán về đường lối, chính sách trong vấn đề về trẻ em của Đảng ta. Từ những năm 1960, Đảng ta đã có nhiều chính sách về toàn dân bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng ngay cả trong thời kỳ đất nước còn chiến tranh, hai miền chia cắt. Chính sách quan tâm đến trẻ em được ghi nhận trong một số văn bản như chỉ thị số 197/CT/TW ngày 19 tháng 03 năm 1960 của Ban bí thư Trung ương Đảng về công tác thiếu niên, nhi đồng: “các em thiếu niên, nhi đồng ngày nay là lớp người xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản sau này. Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay mà còn chính là sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản sau này” [4;66] và “giáo dục thiếu niên, nhi đồng là một vấn đề không đơn giản mà là một vấn đề khoa học” [4;67]. Trong các báo cáo về “công tác thanh vận” và báo cáo về “nông vận là trọng tâm của công tác dân vận” có nhấn mạnh về vai trò của trẻ em như “thiếu nhi là những người gánh vác tương lai nên chúng ta phải săn sóc”[4;33] và “mọi ngành phải lấy nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục thiếu nhi làm nhiệm vụ của mình” [4;33] Năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, truyền thống bảo vệ, chăm sóc và giáo 5 dục trẻ em vẫn nhất quán được thể hiện trên phương diện lý luận, pháp luật và tư tưởng. Đường lối chính sách của Đảng về trẻ em được cụ thể hoá trong "Pháp lệnh Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em". Pháp lệnh này đánh dấu sự kiện pháp lý cơ sở mang tính toàn diện nhất so với trước đó trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đặc biệt trong Hiến pháp năm 1992, các quyền xã hội của công dân trong đó có quyền trẻ em đã có sự kế thừa và phát triển, phù hợp với những điều kiện mới [5;275]. Các quy định về quyền trẻ em đã trở thành một bộ phận cấu thành nội dung Luật Hiến pháp Việt nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền lập hiến Việt nam [6;20]. Đến Hiến pháp năm 1992, vấn đề quyền trẻ em, với trên 10 điều trong số 147 điều của Hiến pháp không còn là những quy định riêng lẻ, mà đã thực sự trở thành một chế định pháp lý chặt chẽ, hoàn chỉnh, mang tính hiến định. Hiến pháp đã thể hiện một nhân sinh quan, một nhận thức toàn diện đối với vấn đề trẻ em trong các vấn đề xã hội. Với quan điểm coi quyền trẻ em là một bộ phận quan trọng của quyền con người, Hiến pháp 1992 đã thể hiện việc đặt mối quan hệ quyền trẻ em với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, với quyền con người. Trong số 34 điều (từ điều 49 đến điều 82) của chương V "Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân", có đến 25 điều quy định các quyền cơ bản của công dân trực tiếp hay gián tiếp có liên quan đến quyền trẻ em, vì bản thân trẻ em cũng là công dân. Điều 65 của Hiến pháp trịnh trọng tuyên bố: "Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục". Đầu tư cho sự nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em cũng là đầu tư cho tương lai. Hiến pháp đã gắn nhu cầu chăm sóc trẻ em bên cạnh nhu cầu chăm sóc người mẹ, Điều 40 quy định: "Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em". Về phương diện mối quan hệ giữa người mẹ và trẻ, điều 63 Hiến pháp đã quy định: "Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật... nhà nước và xã hội chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn 6 bổn phận của người mẹ". Điều 41 quy định: "Nhà nước quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học". Điều 35 quy định: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu...", "Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác" (điều 36). Quyền học tập: bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. "Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức". Điều 59 quy định: "nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học tập văn hoá và học nghề phù hợp. Học sinh có năng khiếu được nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập và phát triển tài năng" (điều 59). Điều 67 quy định về chính sách của nhà nước đối với những người thuộc các đối tượng chính sách, thông qua đó xác định con cái của họ cũng được nhà nước tạo điều kiện trong học tập. Trong các quy định của Hiến pháp về giáo dục, quyền và nghĩa vụ học tập của công dân, cũng là của trẻ em. Điều 46 khẳng định: "Gia đình là tế bào của xã hội", xác định thêm một thiết chế xã hội nữa có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em cùng với Nhà nước và cộng đồng xã hội. Những quy định nói trên đã khẳng định, quyền trẻ em đã thực sự là một chế định hoàn chỉnh mang tính hiến định. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã mang đến cho trẻ em nhiều sự quan tâm, ưu đãi đặc biệt và với nhiều nội dung mới được thể hiện trong đường lối chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt nhất là đường lối này đã được thể chế hoá trong hệ thống pháp luật với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực. Nhìn lại thực tiễn xây dựng đất nước trong gần hai thập kỷ qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trước hết là trong hoạt động lập pháp, đã thể hiện việc đổi mới tư duy pháp lý, theo đó các quyền của trẻ em và trách nhiệm của xã hội đã được thể hiện cụ thể, phù hợp với thực tiễn xã hội hơn so với thời kỳ quản lý tập trung bao cấp. Đường lối chính sách của Đảng về bảo vệ quyền trẻ em đã lần lượt được thể chế hoá trong hệ thống pháp luật như trong Bộ luật Hình sự 1985, Luật Hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân 1998. Việt nam là quốc 7 gia đầu tiên của Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em ra đời năm 1989. Sau đó nhà nước ta đã ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (18-6-1991), Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật giáo dục 1998 nhằm cụ thể hoá các quy định của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia đồng thời hoà nhập pháp luật Việt nam với pháp luật quốc tế. Không chỉ trong pháp luật, chính sách bảo vệ trẻ em còn được thể hiện trong các Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em trên nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, dinh dưỡng, văn hoá... Với sự ra đời của Chỉ thị số 38-CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng khoá VII (30.5.1994) về việc thực hiện luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991- 2000 đã đạt được nhiều kết quả tốt. Đường lối về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em tiếp tục được thể hiện trong các văn kiện của Đảng tại các Đại hội đại biểu toàn quốc của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Văn kiện tiếp tục nhất quán tư tưởng xuyên suốt qua các thời kỳ đại hội về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, xác định sự nghiệp này vào vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nội dung chủ yếu trong đường lối bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Đảng và nhà nước ta được thể hiện trên mọi lĩnh vực, là trách nhiệm của mỗi gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Trẻ em phải được chăm sóc và bảo vệ những quyền tối thiểu cơ bản như quyền sống, tồn tại, phát triển, được bày tỏ ý kiến… Đó là những quyền tự nhiên của con người đặc biệt trẻ em lại là những người chưa trưởng thành nên việc đảm bảo những quyền tối thiểu cơ bản trên cho trẻ em là đạo lý truyền thống không chỉ của riêng quốc gia, dân tộc nào mà là đạo lý của nhân loại. Toàn xã hội cần phải dành ưu tiên cho trẻ em. Sự ưu tiên của người lớn được thể hiện ở việc người lớn phải có nghĩa vụ đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em trong những điều kiện có thể. Sự ưu tiên cho trẻ em cần phải được thực hiện từ trong gia đình cho đến cộng đồng và toàn xã hội. Sự ưu tiên này được thể hiện trong việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, ở sự lồng ghép các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em[39]. Mục đích là để tạo điều kiện 8 để trẻ em có thể thông qua những hành vi tích cực của người lớn có thể hưởng các dịch vụ tốt nhất về y tế, văn hoá, thể thao… một cách bình đẳng. Xã hội cần đảm bảo cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hoà về thể chất, trí tuệ và đạo đức, giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để Đảng ta xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng nòi giống. Chăm lo cho trẻ em còn là một trong những mục tiêu của 5 năm tới (2006-2010), đó là mục tiêu thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Truyền thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em của dân tộc ta đã được kế thừa, phát triển trên những tầm cao mới trong điều kiện xây dựng xã hội pháp quyền, dân chủ, hội nhập. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt nam đều nhìn nhận vai trò của trẻ em trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như một trong những ưu tiên trong toàn bộ chiến lược xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới. Từ cuộc sống đến pháp luật và từ pháp luật đến cuộc sống, đường lối của Đảng về trẻ em đã được ghi nhận, triển khai thực hiện trên quy mô toàn xã hội. Tuy còn nhiều bất cập, khó khăn, song những gì Việt nam đã đạt được trong sự nghiệp bảo vệ trẻ em cũng rất đáng tự hào, khích lệ để tiếp tục phát huy trong thời gian tới. 1.3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẶC THÙ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TRẺ EM 1.3.1 Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em trong hệ thống các quyền con ngƣời 1.3.1.1 Khái niệm trẻ em trong pháp luật quốc tế Lịch sử vấn đề, năm 1910 các tổ chức cứu trợ trẻ em của Anh và Thụy Điển ra đời nhưng vấn đề trẻ em chỉ thực sự được quan tâm từ sau chiến tranh thế giới I (1914- 1918). Vấn đề trẻ em cùng với các quyền trẻ em được quan tâm muộn đến như vậy trong khi ngay từ thưở ban đầu loài người đã ý thức được rằng trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Từ trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của nước Pháp cũng chưa đưa ra khái niệm quyền trẻ em 9 mà mới dừng lại ở việc đề cập đến quyền con người nói chung. Như vậy, quyền trẻ em chưa được đặt ra trong pháp luật. Nguyên nhân của sự ghi nhận chậm trễ này là do đơn giản quan niệm trẻ em là tài sản riêng của các bậc cha mẹ nhất là ở các nước phương Đông với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và “con không nghe cha mẹ trăm đường con hư”. Năm 1923 Hiến chương về quyền trẻ em được thông qua. Ngày 26/09/1924 Hội Quốc liên (tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc ngày nay) đã thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ 1924 về quyền trẻ em do hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trẻ em khởi thảo dựa trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Kể từ đây, quyền trẻ em đã trở thành một khái niệm được khẳng định và thừa nhận. Năm 1978 Ba lan đề xuất là cộng đồng quốc tế phải có một văn kiện quốc tế hoàn chỉnh, mang đầy đủ tính chất pháp lý làm nền tảng cho việc bảo vệ quyền trẻ em, ràng buộc các quốc gia thành viên vào trách nhiệm cụ thể để thay thế Tuyên ngôn vì Tuyên ngôn chỉ là “luật mềm”, không phải là văn bản mang tính ràng buộc và không áp đặt những nghĩa vụ cụ thể nào với các quốc gia thành viên. Việc bảo vệ quyền trẻ em đòi hỏi phải có một khuôn khổ, một chuẩn mực được cộng đồng quốc tế đồng ý. Đề xuất của Ba lan đã được Liên hợp quốc chấp thuận và sau 10 năm soạn thảo, Công ước được Liên hiệp quốc chính thức thông qua ngày 20/11/1989, ngày 26/01/1990 Công ước được mở cho các nước ký và phê chuẩn. Tại lễ ký ở Liên hiệp quốc, đại diện 60 nước đã ký vào văn bản cam kết rằng Chính phủ họ sẽ phê chuẩn phù hợp với Hiến pháp của từng nước. Công ước có hiệu lực là luật quốc tế vào ngày 02/09/1990. Ngay tại điều 1 của Công ước về quyền trẻ em đã xác định rõ: “trong phạm vi của công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy, trong công ước về quyền trẻ em, trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi (trừ khi luật pháp quốc gia quy định độ tuổi sớm hơn). Các văn bản pháp luật quốc tế khác như: Quy tắc Bắc Kinh, Hướng dẫn Riát và Quy tắc của Liên hiệp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thường sử 10 dụng thuật ngữ người trẻ tuổi, người chưa thành niên, trẻ em, là những người chưa đến 18 tuổi và thanh niên là người từ 15 đến 24 tuổi. Ngoài ra, khái niệm trẻ em còn có sự khác nhau ở cách quy định độ tuổi trong từng lĩnh vực cụ thể, ví dụ như ở một số văn bản, văn kiện khác của một số tổ chức thuộc Liên hiệp quốc như Quỹ dân số Liên hiệp quốc (VNFPA), tổ chức lao động quốc tế (ILO) và tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi. 1.3.1.2 Khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt nam Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 cũng như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 trước đây đều quy định tại Điều 1: “trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt nam dưới 16 tuổi”. [7] Như vậy, căn cứ để xác định trẻ em Việt nam là: phải là người có quốc tịch Việt nam và ở trong độ tuổi từ 0 đến 16 tuổi. Trong khi đó Bộ luật dân sự 2005, tại điều 18 lại quy định: “người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” (Bộ luật dân sự năm 1995 điều khoản này được quy định tại điều 20). Bộ luật hình sự năm 1999 tại điều 14 quy định: “người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi”, Bộ luật lao động năm 1994 quy định: “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” (điều 119), còn khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (điều 120), Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 tại điều 6 quy định: “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định tuổi con nuôi là người từ 15 tuổi trở xuống (điều 68). Khái niệm trẻ em có sự khác nhau về độ tuổi song ta có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt nam bao gồm cả người chưa thành niên và là những người dưới độ tuổi 18. Cách hiểu này phù hợp với khái niệm trẻ em trong pháp luật quốc tế. Từ những quy định trong pháp luật hiện hành, có thể đưa ra khái niệm của pháp luật quốc gia về trẻ em như sau: Trẻ em là công dân 11 Việt Nam dưới 18 tuổi. Khái niệm này cho phép kết hợp được cả theo quy định của công ước quốc tế và các quy định của pháp luật trong nước. 1.3.2 Khái niệm pháp luật về trẻ em Từ lý luận chung về điều chỉnh pháp luật, có thể nêu một khái niệm chung về pháp luật về trẻ em như sau. Pháp luật về trẻ em là tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành trên cơ sở khách quan của đời sống xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp của nhà nước và xã hội, nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em. Xét một cách phổ quát nhất, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật quốc gia nên nó cũng có những đặc trưng chung như các lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác, đồng thời pháp luật về trẻ em lại có nhiều đặc thù riêng xuất phát từ chính bản thân đối tượng này và những yếu tố xã hội khách quan tác động đến [8]. Một khái niệm cần làm rõ nữa là địa vị pháp lý của trẻ em. Địa vị pháp lý của trẻ em đó là tổng thể các quyền và nghĩa vụ - bổn phận pháp lý của trẻ em cùng với những đảm bảo pháp lý thực hiện. Địa vị pháp lý của trẻ em thể hiện bản chất nhà nước và xã hội cùng những điều kiện kinh tế, văn hoá, đạo đức xã hội và của nhân loại. Trong từng lĩnh vực pháp luật, địa vị pháp lý của trẻ em lại có những biểu hiện đặc thù. Chẳng hạn, trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân và gia đình, địa vị pháp lý của trẻ em được thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ - bổn phận của trẻ em với tư cách là thành viên trong đại gia đình. Trong lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự - trẻ em với tư cách là bị can, bị cáo có những quyền tố tụng để họ tự bảo vệ quyền lợi của mình. 1.3.3 Một số đặc thù cơ bản của pháp luật về trẻ em Xét về cấu trúc, pháp luật về trẻ em, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em có phạm vi rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Mỗi một ngành luật có những đặc thù riêng về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ về trẻ em trên những vấn đề mang tính nguyên tắc áp dụng như là cơ sở cho tất cả các ngành luật 12 khác. Mọi quy định pháp luật về trẻ em đều không được trái với hiến pháp. Mỗi ngành luật điều chỉnh về quyền trẻ em với các nét đặc thù riêng nhưng tập hợp lại đã tạo ra một hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt nam. Ngành luật hình sự bảo vệ quyền trẻ em trên hai phương diện: khi trẻ em cùng với các quyền của trẻ em là đối tượng bị xâm hại, và cả khi bản thân trẻ em có hành vi phạm tội. Luật tố tụng hình sự lại điều chỉnh các quan hệ xã hội về trẻ em theo cách riêng của mình. Đó là việc quy định cho các em những quyền tố tụng để họ có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời quy định những điều khoản nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, không để xảy ra, hạn chế việc xử lý oan sai. Luật hôn nhân và gia đình, nơi trẻ em là thành viên của gia đình lại có cách điều chỉnh đặc thù được thể hiện ở địa vị pháp lý - các quyền và nghĩa vụ bổn phận của trẻ em cùng với các quyền và nghĩa vụ - bổn phận pháp luật - đạo đức của các thành viên khác trong đại gia đình... Quy định những điều cấm và thông qua đó để bảo vệ lao động trẻ em - đó là nét đặc trưng của luật lao động thời kinh tế thị trường. Bảo vệ trẻ em thông qua một hệ thống các biện pháp xử phạt những hành vi xâm phạm quyền trẻ em và những biện pháp xử lý trẻ em vi phạm pháp luật trên nguyên tắc nhân đạo, lấy giáo dục làm chính... đó là đặc thù của luật hành chính và luật hình sự. Bảo vệ quyền trẻ em thường gắn với việc bảo vệ quyền người phụ nữ và các quan hệ gia đình [9]. Trẻ em là chủ thể của sự điều chỉnh pháp luật từ rất sớm. Có thể chỉ ra những biểu hiện cơ bản như: theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em, trẻ em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ và vì thế cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Hiến pháp đã gắn nhu cầu chăm sóc trẻ em bên cạnh nhu cầu chăm sóc người mẹ, Điều 40 quy định: "Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em". Điều 63 Hiến pháp đã quy định: "Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật... nhà nước và xã hội chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi 13 xã hội khác để giảm gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ". Xuất phát từ thực tế xã hội hiện nay, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em ngày càng mang tính toàn diện, cụ thể phù hợp với các loại đối tượng trẻ em. Trong nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, sự điều chỉnh pháp luật đã cụ thể hoá theo 8 loại đối tượng chính như: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em tàn tật, trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng tình dục; trẻ em lao động làm thuê; trẻ em nghiện hút vv... Tiếp đến là sự tác động to lớn của các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng đến pháp luật về trẻ em ở nước ta [8;15]. Điều này được thể hiện trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của trẻ em đối với các thành viên gia đình và ngược lại. Pháp luật bao giờ cũng dành một sự lưu ý đặc biệt đến mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán trong việc giải quyết các quan hệ hôn nhân - gia đình. Như trong việc đặt tên, họ cho đứa trẻ, trong việc giải quyết các quan hệ tài sản, thừa kế, quan hệ nhân thân vv… Đồng thời một yếu tố nữa rất quan trọng tác động đến đó là các quy định pháp luật về phụ nữ và việc thực hiện chúng luôn chịu sự quy định, tác động của các yếu tố như: vị trí, vai trò gia đình trong xã hội, những quan niệm, tư tưởng chính thống và bất thành văn đối với con cái, con trai con gái; những cách ứng xử truyền thống, các giá trị đạo đức truyền thống, các chính sách của nhà nước... Một đặc trưng nổi bật nữa là sự liên quan mật thiết giữa pháp luật về trẻ em với đạo đức. Thực ra thì về nguyên tắc, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức không chỉ có trong lĩnh vực quan hệ trẻ em, hôn nhân gia đình, mà còn có ở tất cả các lĩnh vực điều chỉnh khác của pháp luật. Nhưng ở các lĩnh vực pháp luật về trẻ em, nhất là trong các quan hệ hôn nhân gia đình, mối quan hệ này được thể hiện sâu sắc và bao quát hơn, bởi ở đó có yếu tố tình cảm là sợi dây gắn kết các thành viên gia đình. Các quyền, bổn phận - nghĩa vụ của trẻ em và giữa các thành viên khác trong gia đình trước hết là những quyền và bổn phận đạo đức. Pháp luật đã thể chế hoá và qua đó mà củng cố các quyền và bổn phận đạo đức đó. Các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện tương đối toàn diện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của cha mẹ và các con đối với nhau nhằm giữ gìn và 14 phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam. Trong việc hình thành nhân cách của trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng của đạo đức và giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật với những hình thức thích hợp. 1.3.4 Quyền trẻ em trong hệ thống các quyền con ngƣời Xét từ phương diện quyền con người, tuy có tính chất đặc biệt, song quyền trẻ em vẫn là một bộ phận hợp thành của quyền con người. Các quyền trẻ em liên quan đến ba phương diện cơ bản - quyền được bảo vệ, được chăm sóc và được giáo dục. Có thể phân loại quyền trẻ em thành các nhóm quyền như sau: - Nhóm quyền về dân sự - chính trị như các quyền có họ tên, quốc tịch, quyền tự do phát biểu ý kiến, đề đạt nguyện vọng, giao tiếp bạn bè, được bảo vệ không bị ngược đãi, đối xử tàn ác... - Nhóm quyền về kinh tế gồm các quyền được hưởng an toàn về xã hội, có mức sống đủ phát triển... - Nhóm quyền về xã hội gồm các quyền được chăm sóc sức khoẻ, được bảo vệ khỏi sự bóc lột trong lao động, quyền được làm con nuôi... - Nhóm quyền về văn hoá bao gồm quyền được học tập, quyền thông tin, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ... Hệ thống các quyền trẻ em được xác lập trong pháp luật bao gồm: - Quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền được xác định cha mẹ và chung sống với cha mẹ; - Quyền được chăm sóc và nuôi dưỡng; - Quyền được lắng nghe ý kiến; - Quyền được Nhà nước, xã hội tôn trọng và pháp luật bảo vệ; - Quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ; - Quyền được học tập; - Quyền được vui chơi, giải trí lành mạnh, được học tập văn hoá, văn nghệ, thể thao và du lịch; - Quyền được có tài sản, thừa kế và hưởng các chế độ bảo hiểm. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan