Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở việt nam...

Tài liệu Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở việt nam

.PDF
89
266
104

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM NGUYỄN DUY DUYÊN HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM NGUYỄN DUY DUYÊN CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 60380107 Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Duy Duyên LỜI CẢM ƠN Tác giả xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới TS. Đặng Vũ Huân, người đã trực tiếp động viên, hướng dẫn và tận tình chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tác giả cũng xin bày tỏ lời cám ơn chân thành tới các thầy cô giảng viên, các thầy cô Khoa Sau đại học, trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tác giả có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học của mình. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin được gửi lời cám ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và những đồng nghiệp đã giúp đỡ, ủng hộ tác giả có thể hoàn thành luận văn của mình một cách tốt nhất. Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2017. Học viên thực hiện luận văn Nguyễn Duy Duyên MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP 6 1.1. Khái quát về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp 6 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 7 1.2. Lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 10 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 10 1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 14 1.2.3. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 19 Kết luận chương 1 25 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 26 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay 26 2.1.1. Các quy định về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 26 2.1.2. Quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 34 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay 44 2.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 44 2.2.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp của các chủ thể theo quy định của pháp luật 53 2.2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 59 Kết luận chương 2 62 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 63 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam. 63 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp phải đảm bảo phát triển bền vững 63 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật môi trường 65 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế và hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường 65 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam 66 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam 66 3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam 72 Kết luận chương 3 76 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CCN Cụm công nghiệp DN Doanh nghiệp ĐTM Đánh giá tác động môi trường KBM Kế hoạch bảo vệ môi trường KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất KKT Khu kinh tế MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Trải qua gần ba mươi năm xây dựng và phát triển, các khu công nghiệp ở Việt Nam đã có đóng góp quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo động lực cho phát triển công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người dân… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà khu công nghiệp đem lại, việc gia tăng ồ ạt các khu công nghiệp (KCN) trong thời gian qua cùng với việc quy hoạch và vận hành các KCN mà không quan tâm sâu sắc đến bảo vệ môi trường đã gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường sinh thái cũng như môi trường sống của khu vực dân cư quanh đó. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp hiện nay đang là một thực trạng đáng báo động. Theo báo cáo hiện trạng môi trường KCN ở Việt Nam năm 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì lượng chất thải phát sinh từ các KCN đang có chiều hướng gia tăng theo tốc độ phát triển của KCN, dự báo đến năm 2020, tổng lượng nước thải từ các KCN gần 5.000.000m3/ngày, lượng các chất gây ô nhiễm từ các chất gây không khí từ các KCN là 5.000.000 kg/ngày. Thêm vào đó, thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại các KCN ngày càng diễn biễn phức tạp và khó kiểm soát. Trong khi hiện nay, hầu hết các công nghệ, phương pháp xử lý chất thải tại các KCN ở nước ta đang áp dụng chưa thật an toàn và đạt hiệu quả cao, hoạt động giám sát, cưỡng chế của các cơ quan chức năng còn nhiều yếu kém. Để bảo vệ môi trường tại KCN, Việt Nam đã thi hành nhiều chính sách, chương trình thể hiện bằng các văn bản, nghị định, thông tư của Chính phủ và các bộ ngành có liên quan. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998, tiếp đến là Nghị quyết số 41/2004/NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 1 31 tháng 8 năm 2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường. Các Nghị quyết đã chỉ ra những yếu kém trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời đưa ra những định hướng rất quan trọng trong đó nhấn mạnh các đô thị, các khu công nghiệp phải thực hiện tốt phương án xử lý chất thải, ưu tiên xử lý chất thải độc hại. Nghị quyết Đại hội XII một lần nữa khẳng định: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững". Để cụ thể hóa các định hướng nêu trên, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nói riêng đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đó. Tuy vậy cơ sở pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường tại các KCN ở nước ta còn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng các đòi hỏi mà thực tiễn đang và sẽ đặt ra trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước. Việc nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện hệ thống các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN cũng như thực trạng bảo vệ môi trường tại KCN bằng pháp luật, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó và thực tế là yêu cầu cấp thiết đối với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài "Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam" làm luận văn Thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo vệ môi trường là một lĩnh vực khá rộng và đã có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất lại không nhiều, có thể khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như sau: Về các công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án, có "Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp và các khu chế xuất" của TS. Trịnh Thị Minh Sâm, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004. Báo cáo về "Tình hình và phương hướng phát triển các khu công nghiệp nước ta thời kỳ 2006-2020" của Bộ Kế hoạch - Đầu 2 tư năm 2006. Báo cáo "Kiểm soát ô nhiễm môi trường khu kinh tế khu công nghiệp Hà Nội" của Tổng cục Môi trường năm 2013. "Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam" của các tác giả Doãn Hồng Nhung và Nguyễn Thị Bình, Nxb Xây dựng năm 2016; "Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Phượng Quỳnh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011; "Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương", Luận văn Thạc sĩ luật học của Học viện Chính trị Quốc gia - Hồ Chí Minh, năm 2009; "Bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Quốc Kỳ, Trường Đại học Vinh, năm 2015. Về các bài viết đánh giá hay gợi mở một số khía cạnh của pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, có thể kể đến như: Bài viết của tác giả Vũ Thị Duyên Thủy đăng trên tạp chí Luật học số 9/2011"Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam"; bài " Môi trường khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh Phía Bắc thực trạng và bài học kinh nghiệm" của tác giả Phương Nhung đăng trên tạp chí quản lý Nhà nước số 174 (tháng 7/2010). Về công tác quản lý môi trường KCN, tác giả Ngô Sỹ Trung có bài viết: "Quản lý môi trường các khu công nghiệp hiện nay" được đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 6/2010. Tác giả Hoàng Thị Hường với bài viết: "Tăng cường quản lý môi trường đối với các Khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 157 (tháng 2/2009). tác giả Lê Thị Kim Tuyên với bài viết: "Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam hiện nay" đăng trên Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, tháng 7 năm 2012. Tác giả Nguyễn Thị Bình với bài viết "Trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp của Ban quản lý khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử tháng 7 năm 2016; tác giả Hồ Anh Tuấn với bài viết "Hoàn 3 thiện pháp luật bảo vệ môi trường nước trong khu công nghiệp ở Việt Nam" đăng trên VNU Journal of Science: Legal Studies - Vol. 32, No. 4 (2016)… Có thể khẳng định, cho đến nay, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nhưng việc đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật bảo vệ môi trường tại các KCN ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực vẫn là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của phát triển bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế. * Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là: - Nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN. - Khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam hiện nay để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận pháp luật, hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường tại KCN và thực tiễn thi hành ở Việt Nam. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN, từ đó, xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống 4 pháp luật, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, có độ tin cậy để nghiên cứu đề tài như: Phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, lịch sử… trong đó, phương pháp tổng hợp, phân tích là những phương pháp được sử dụng chủ yếu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn các vấn đề lý luận pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN, góp một phần nhỏ vào việc xây dựng các luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật, luận văn chỉ ra các ưu điểm, hạn chế, bất cập là cơ sở thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo pháp luật về bảo vệ môi trường. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. Khái quát về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp Trong quá trình phát triển kinh tế, đã hình thành nên những khu vực tập trung chỉ có các cơ sở công nghiệp. Từ đó xuất hiện nhu cầu ban hành các quy định về các khu vực này. Khái niệm KCN, với tư cách là thuật ngữ pháp lý, được đưa ra đầy đủ lần đầu tiên tại Quy chế Khu công nghiệp và khu công nghệ cao kèm theo Nghị định số 36/NĐ/CP ngày 24/4/1997 và được sửa đổi trong Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Nghị định này quy định: "Khu công nghiệp được hiểu là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định được thành lập theo điều kiện, trình tự thủ tục quy định". Khoản 11 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 cũng định nghĩa: "Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp". Khái niệm KCN theo Luật Đầu tư năm 2014 không đề cập tới yếu tố "được thành lập theo điều kiện, trình tự thủ tục quy định", nhưng có thể thấy, để thành lập KCN thì các nhà đầu tư xây dựng KCN cũng phải thực hiện trình tự thành lập theo quy định của Luật Đầu tư 2014. Như vậy, với khái niệm này, một KCN được hiểu phải đáp ứng 02 điều kiện là: (i) Khu vực có ranh giới địa lý xác định; ( ii) Chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Với các điều kiện này, KCN có tính chất, đặc điểm khác so với các cơ sở sản xuất ngoài KCN. + Về không gian: Là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ khác và thường không có cư dân sinh sống. Các khu công nghiệp đều được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào 6 KCN, phân biệt với các vùng còn. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó, không chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải tuân thủ quy chế pháp lý riêng của KCN. Toàn bộ hạ tầng kỹ thuật KCN được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ phục vụ công nghiệp, không phục vụ mục đích sống dân cư, kể cả những người làm việc trong KCN. + Về chức năng hoạt động: KCN là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp trong KCN là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong KCN, không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho loại hình sản xuất này. + Về thành lập: KCN không phải là khu vực được thành lập tự phát mà được thành lập theo quy định của pháp luật, trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt. Để phát triển các KCN, Nhà nước phải thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hệ thống cơ chế chính sách toàn diện, đồng bộ. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng quy hoạch phát triển các KCN, thẩm định kỹ trước khi thành lập và triển khai xây dựng chúng. + Về mục đích thành lập: KCN được thành lập nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho sản xuất công nghiệp và nhằm tách riêng khu vực sản xuất và khu vực sinh sống của nhân dân. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 thì hoạt động bảo vệ môi trường được hiểu là "hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành". Từ định nghĩa này, hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN được hiểu là "hoạt động giữ gìn cho môi trường KCN trong lành, sạch đẹp, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường của KCN, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, 7 cải thiện, phục hồi môi trường KCN, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành". Theo đó, bảo vệ môi trường tại KCN thực chất là những hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân tiến hành nhằm mục đích cơ bản sau: Một là, giữ gìn cho môi trường KCN được trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường KCN,đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục những hoạt động gây hậu quả xấu do các tổ chức, cá nhân tác động đến môi trường KCN. Hai là, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường KCN. Để bảo vệ môi trường tại KCN nhất là trong xu thế phát triển mạnh mẽ của quá trình CNH - HĐH, những sức ép môi trường nói chung và môi trường KCN nói riêng, thì vấn đề hết sức quan trọng là phải phòng ngừa những tác động tiêu cực của hoạt động của KCN đối với môi trường và sức khỏe người lao động trong các KCN, của người dân tại các khu vực xung quanh KCN, bảo vệ môi trường sống tốt cho tất cả cộng đồng. Ba là, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường KCN. Quá trình tiến hành các hoạt động xản xuất công nghiệp đã thải ra một lượng lớn các chất thải gây ô nhiêm nặng nề môi trường đất, nước, không khí. Vì vậy, việc khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường, hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường từ các hoạt động của các KCN là yêu cầu cấp thiết hiện nay của công tác bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường tại KCN nói riêng. Bốn là, phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường trong KCN. Hoạt động công nghiệp trong các KCN có thể tạo ra những nguy cơ gấy ra sự cố môi trường. Do đó, hoạt động phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường trong KCN là một hoạt động không thể thiếu trong các KCN bởi nếu những sự cố này xảy ra thì hậu quả có thể rất nghiêm trọng cho môi trường và đời sống con người. Sự cố môi trường biển của "vụ Formusa" tại KCN Vũng Áng tỉnh Hà tĩnh làm cho cá của vùng biển dài hơn 200 km thuộc 04 tỉnh miền trung và làm ảnh hưởng tới hàng trăm ngàn ngư dân và các người khác là một 8 ví dụ điển hình cho ảnh hưởng của sự cố môi trường của KCN đến môi trường và đời sống kinh tế, xã hội. Vấn đề môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN có những đặc điểm khác biệt so với hoạt động bảo vệ môi trường chung, của các doanh nghiệp hoạt động ngoài KCN, cụ thể: Thứ nhất, có nhiều đối tượng thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN: Đối với các doanh nghiệp không hoạt động trong KCN thì chủ yếu có các nhóm đối tượng liên quan đến thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường gồm cơ quan nhà nước về môi trường (cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường), doanh nghiệp, cộng đồng dân cư xung quanh doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với KCN, bên cạnh những đối tượng nêu trên thì còn có thêm hai nhóm đối tượng khác là Ban quản lý các KCN (là cơ quan quản lý nhà nước đối với các KCN) và chủ đầu tư, vận hành KCN. Việc xuất hiện hai đối tượng này sẽ làm xuất hiện thêm nhiều mối quan hệ bảo vệ môi trường so với các doanh nghiệp hoạt động ngoài KCN. Ví dụ như mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với Ban quản lý các KCN, giữa Ban quản lý các KCN với chủ đầu tư, vận hành KCN, giữa chủ đầu tư, vận hành KCN với các doanh nghiệp hoạt động trong KCN… Thứ hai, do đặc thù về hoạt động của các doanh nghiệp trong một địa điểm tập trung là KCN nên vấn đề môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường cũng có những đặc điểm khác biệt, cụ thể: (i) Nhiều doanh nghiệp trong KCN gần nhau, loại chất thải có thể giống nhau nên có thể bố trí xử lý chất thải tập trung, có thể giảm chi phí vận chuyển chất thải và giảm xả thải chất thải ra môi trường; (ii) Giảm các tác động đến môi trường từ việc vận tải, xây dựng và vận hành các hệ thống cung cấp điện, nước, viễn thông…; (iii) Tác động đến môi trường khu dân cư sẽ giảm do các KCN được quy hoạch và lựa chọn địa điểm xa khu dân cư, xã các khu vực nhạy cảm về môi trường; (iv) Hoạt động quan trắc về môi trường thuận tiện hơn do các doanh 9 nghiệp tập trung vào một địa điểm. Hoạt động quản lý nhà nước về môi trường cũng sẽ thuận lợi hơn. Tuy nhiên, nếu các KCN được quy hoạch và vận hành không hoặc không quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường thì hoạt động của các KCN cũng là nguyên nhân phá huỷ nghiêm trọng môi truờng tại nhiều khu vực. Bởi lẽ, tại các KCN, quy mô tác động tới môi trường thường là rất lớn do có nhiều tác động cùng lúc và cùng tập trung vào một khu vực nên nguy cơ ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường do tác động quá sức chịu tải của môi trường là rất cao. Đây cũng chính là lý do yêu cầu bảo vệ môi trường của các KCN thường được đặt ra khắt khe hơn, đòi hỏi tính tổ chức cao hơn so với các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ, lẻ. 1.2. Lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp Từ phân tích khái niệm, đặc điểm của bảo vệ môi trường tại KCN ở trên, có thể đưa ra định nghĩa pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN "Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp là một bộ phận của pháp luật môi trường, bao gồm các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, nhằm phòng ngừa, hạn chế những tác động xấu tới môi trường khu công nghiệp và môi trường xung quanh". Với định nghĩa này, có thể thấy, nội hàm khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN bao gồm: Một là, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN là một bộ phận của pháp luật môi trường: Hệ thống pháp luật môi trường trên thế giới nói chung và pháp luật môi trường Việt Nam nói riêng đều điều chỉnh hai vấn đề chính. Thứ nhất, là bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên (thường gọi là mảng xanh). Điều chỉnh vấn đề này nhà nước ban hành các quy định pháp luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong quá tŕnh khai thác, sử dụng, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học như: bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên 10 khoáng sản, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn thủy sinh… Các quy định pháp luật về vấn đề này tập trung điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh theo hướng đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sự dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt động phát triển, đồng thời gắn chặt trách nhiệm của họ với việc bảo tồn và sử dụng hợp lý chúng, đảm bảo lợi ích lâu dài về môi trường của cộng đồng. Thứ hai, được pháp luật môi trường điều chỉnh là kiểm soát, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường (thường gọi là mảng nâu). Về lĩnh vực này pháp luật môi trường được xây dựng và thực hiện theo hướng ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan để giảm thiểu các chất gây ô nhiễm môi trường, phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động xấu cho môi trường do ảnh hưởng của các loại chất thải. Các quy định pháp luật về lĩnh vực này điều chỉnh các nội dung như: đánh giá tác động môi trường; quản lý chất thải; bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng, sản xuất kinh doanh, dịch vụ…Các quy định pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN thuộc nhóm quy định vấn đề thứ hai này. Nói cách khác, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN là một bộ phận của pháp luật môi trường. Hai là, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN điều chỉnh những mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN và môi trường xung quanh: Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường có thể được phân loại theo các nhóm sau: (i) Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường tại KCN. Có thể kể đến một số quan hệ như: quan hệ phát sinh từ hoạt động quy hoạch xây dựng KCN, quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN, các quan hệ phát sinh từ hoạt động xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN… (ii) Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong quá trình hoạt động của mình có liên quan đến môi trường KCN. Ví dụ: các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quản lý chất thải của chủ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trong KCN… 11 Ba là, mục đích của pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nhằm phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường KCN khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường do hoạt động của KCN gây ra: Thông qua sự định hướng cách xử sự cho các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức, cá nhân khi tác động đến môi trường KCN đồng thời ràng buộc trách nhiệm các chủ thể này bằng những chế tài cụ thể, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN không những có tác dụng phòng ngừa mà còn phần nào hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường KCN. Từ khái niệm, đặc điểm môi trường và bảo vệ môi trường tại KCN và nội hàm khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN, có thể chỉ ra những đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN như sau: Thứ nhất, các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN bao gồm những quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường chung nhưng cũng được áp dụng tại KCN và các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường được quy định riêng cho các KCN. Chúng ta thấy rằng, vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra không chỉ đối với KCN mà còn đặt ra đối với hầu hết các lĩnh vực, địa bàn của đời sống xã hội (Bảo vệ môi trường tại trường học, bệnh viện, nơi công cộng, đô thị, nông thôn… KCN). Phù hợp với những đặc thù này, các nhà làm luật sẽ xây dựng những quy định "riêng" cho địa bàn, lĩnh vực. Bên cạnh đó, những hành vi gây ảnh hưởng xấu tới môi trường tương tự nhau như sản sinh, xả các loại chất thải như nước thải, chất thải rắn, khí thải… chất thải thông thường hoặc chất thải nguy hại… các hoạt động đầu tư có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường nên pháp luật phải quy định về vấn đề này. Các nhóm quy định này được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng có liên quan, trong đó có các đối tượng thuộc KCN. Vì vậy, hệ thống quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN được chi thành hai loại: (i) Những quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường chung và (ii) các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường được quy định riêng cho các KCN. Về nguyên tắc, hai nhóm quy phạm pháp luật này tạo thành một chỉnh thể thống nhất, không mâu thuẫn và không chồng 12 chéo và là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ trong bảo vệ môi trường tại các KCN. Thứ hai, quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như Luật đầu tư, Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật bảo vệ môi trường… Các mối quan hệ này được thể hiện cụ thể như: Quan hệ phát sinh trong hoạt động đầu tư xây dựng KCN, loại hình, ngành nghề được lựa chọn đầu tư vào KCN (Luật Đầu tư); quan hệ trong xử lý những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường như xử phạt vi phạm hành chính, bồi thưởng thiệt hại, trách nhiệm hình sự đối với những đối tượng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường (Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Hình sự) và các nghĩa vụ bảo vệ môi trường mà các đối tượng khác nhau phải thực hiện (Luật Bảo vệ môi trường). Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN không chỉ nhằm mục đích bảo vệ môi trường mà còn nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo quan điểm phát triển bền vững. Phát triển bền vững là phạm trù được hình thành do nhu cầu của việc bảo vệ môi trường. Thực chất của phát triển bền vững là sự kết hợp giữa phát triển với việc duy trì môi trường hay nói cách khác là yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là quyền phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường [34, tr.17]. Phát triển bền vững được hiểu dưới nhiều khía cạnh và theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có cách hiểu phát triển bền vững bao gồm những khía cạnh xã hội và hoạch định chính sách và cũng có cách hiểu chỉ thuần tuý dưới góc độ môi trường [34, tr.18]. Trong quá trình phát triển các KCN, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN góp phần xem xét đầy đủ những yêu cầu bảo vệ môi trường từ hoạt động quy hoạch, xây dựng đến vận hành các KCN và các doanh nghiệp trong KCN. Việc xem xét này sẽ góp phần đáng kể trong quyết định chính sách nhằm bảo đảm phát triển bền vững. Quyết định chính sách là bước quan trọng trong phát triển bền vững. Khả năng kết hợp giữa phát triển và bảo vệ môi trường phụ thuộc rất lớn việc ban hành các chính sách đúng đắn. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan