Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn thành phố đà nẵng...

Tài liệu Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn thành phố đà nẵng

.PDF
85
144
57

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ BÍCH TRÂM PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ BÍCH TRÂM PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Huỳnh Thị Bích Trâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN .............................................................................................5 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................5 1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện ...............................................11 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......29 2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện...............................................29 2.2. Thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng .........................................................................................................................42 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN QUA THỰC TIỄN CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................................................58 3.1. Quan điểm, yêu cầu hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ..............58 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................60 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện .......................................................................................................................64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................73 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng Trang 2.1. Số đối tượng tham gia qua các năm (2008-2016) 43 2.2. Số thu BHXH tự nguyện qua các năm (2008-2016) 45 2.3. Số chi BHXH tự nguyện qua các năm (2008-2016) 46 2.4. Thống kê các trường hợp nhận trợ cấp theo 2 chế độ từ 2008 - 2016 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề an sinh xã hội được xem là một trong những nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Với tư cách là một trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, BHXH thực sự đã trở thành một công cụ đắc lực và hiệu quả giúp cho Nhà nước điều tiết xã hội trong nền kinh tế thị trường, gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng, tiến bộ và phát triển xã hội bền vững. Tại Việt Nam, việc thực hiện BHXH cho mọi người lao động thông qua việc mở rộng độ bao phủ và nâng cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện nhằm phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của BHXH, góp phần quan trọng không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn nhằm mục tiêu ổn định xã hội và an sinh cho mọi ngƣời dân. Những nội dung này đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020. Tiếp đó, tại Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 tiếp tục khẳng định và đặt ra mục tiêu “Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện…”. Nước ta hiện là một nước đang phát triển, lực lượng lao động khu vực phi chính thức và lao động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng cao (khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước). Chính đội ngũ này đã góp phần quan trọng vào phát triển nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy, việc thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện sẽ góp phần quan trọng vào việc bình đẳng, mở rộng hơn quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH cho người lao động. Có thể nói việc xây dựng các quy định của pháp luật liên quan đến chế độ BHXH tự nguyện có tầm đặc biệt quan trọng bởi hiện nay đối tượng lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 70% lực lượng lao động. Do đó việc 1 hoàn thiện pháp luật và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện có hiệu quả thì hệ thống an sinh xã hội ở nước ta mới có thể phát triển thực sự vững chắc. Vì vậy việc ban hành và thực hiện các quy định về BHXH tự nguyện là một vấn đề cấp thiết và phù hợp với nguyện vọng của đại đa số người lao động. Đây là nhu cầu chính đáng và thiết thực cần được Nhà nước và xã hội quan tâm thực hiện. Việc nghiên cứu đề tài về thực trạng pháp luật của BHXH tự nguyện để từ đó hoàn thiện các chính sách pháp luật có liên quan đến BHXH tự nguyện là hết sức thiết thực và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức về nhu cầu nói trên, với mong muốn đóng góp một phần công sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật, đưa ra một số giải pháp thực hiện đối với BHXH tự nguyện của thành phố Đà Nẵng hiện nay, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo và bạn bè, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh nước ta đang tiến hành một loạt các biện pháp an sinh xã hội nhằm đảm bảo đời sống của người lao động, các quy định của pháp luật về an sinh xã hội liên quan đến BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. BHXH tự nguyện là một vấn đề mới tại Việt Nam nên những công trình nghiên cứu đã được công bố về mảng đề tài này chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nhìn chung các tác giả mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề lý luận, tổng quan và thực tiễn thực hiện mà chưa đi sâu vào nghiên cứu thực trạng pháp luật của Đà Nẵng về BHXH tự nguyện. Vì vậy, với đề tài này tác giả sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu và phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về BHXH tự nguyện để từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như thực hiện hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Cung cấp luận cứ khoa học cho việc đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật qua nghiên 2 cứu trường hợp thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận của BHXH tự nguyện; thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam hiện nay; các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả về BHXH tự nguyện. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật BHXH tự nguyện hiện hành, đánh giá thực trạng pháp luật BHXH tự nguyện nói chung và việc áp dụng BHXH tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về thời gian: Số liệu phục vụ phân tích đánh giá thực trạng trong thời kỳ 2008-2016 và số liệu do cơ quan BHXH thành phố Đà Nẵng cung cấp. - Phạm vi về nội dung: + Các vấn đề liên quan tới việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, tại thành phố Đà Nẵng + Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia BHXH tự nguyện như: Chính sách của nhà nước, thu nhập của người dân, sự quan tâm và nhận thức của người tham gia, phí tham gia, tổ chức thực hiện và tuyên truyền, thủ tục tham gia. - Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện ở thành phố Đà Nẵng 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về BHXH tự nguyện và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc tế ILO về BHXH tự nguyện qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn giải, quy nạp ... những phương pháp 3 trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp với nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài. * Phương pháp tổng hợp thông tin Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả đã sử dụng phương pháp này nhằm tổng hợp các thông tin, số liệu liên quan được dùng cho việc phân tích, đánh giá tình hình tham gia BHXH tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng được lấy trong khoảng thời gian từ năm 2008 – 2016. * Phương pháp phân tích thông tin Tác giả sử dụng phương pháp này dùng để so sánh đối chiếu các chỉ tiêu thống kê, so sánh sự khác nhau về tình hình tham gia BHXH tự nguyện. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã phân tích được những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với BHXH tự nguyện. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã phân tích và đánh giá được thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện tại Đà Nẵng hiện nay. Luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện BHXH tự nguyện. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu thành ba chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật BHXH tự nguyện Chương 2. Thực trạng pháp luật BHXH tự nguyện qua thực tiễn thực hiện ở thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện qua thực tiễn của thành phố Đà Nẵng 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa BHXH tự nguyện Con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải lao động để tạo ra các giá trị giúp thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, không phải lúc nào cuộc sống của con người cũng thuận lợi, có thu nhập thường xuyên, sức khỏe ổn định mà nó luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro như: thiên tai, lũ lụt, ốm đau, tai nạn, những biến động xã hội,… và không ai tránh được quy luật sinh lão bệnh tử. Để tạo ra cơ chế hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, các nước trên thế giới ngay từ rất sớm đã xây dựng các loại hình BHXH. BHXH bắt buộc là loại hình được áp dụng cho những người làm việc trong khu vực chính thức, bao gồm: cán bộ, công chức Nhà nước và những người lao động có quan hệ lao động ổn định. Đối với loại hình này, cả hai bên trong quan hệ lao động (người lao động và người sử dụng lao động) đều có trách nhiệm tham gia đóng góp tạo dựng quỹ BHXH bắt buộc. Ở Đức, người tham gia BHXH bắt buộc gồm người lao động có mức thu nhập đạt tới mức quy định; người về hưu; người thất nghiệp; học sinh, sinh viên; nông trang viên; người hoạt động nghệ thuật. Ở quốc gia này, công chức Nhà nước không phải đóng BHXH theo tiền lương cá nhân, nhưng phải đóng thuế chung, trong đó có phần để đảm bảo các chế độ hưu. Công chức có thể tham gia vào hệ thống BHXH tư nhân để có mức thụ hưởng cao hơn (ngoài mức do hệ thống của Nhà nước chi trả). Có nhiều tổ chức cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, trong đó có các tổ chức BHXH tư nhân, đã giúp cho hoạt động BHXH có hiệu quả hơn, người lao động có cơ hội được thụ hưởng BHXH tốt hơn. Với mô hình tự quản này, có thể có một số cơ quan BHXH khác nhau, thực hiện cho các nhóm đối tượng khác nhau như BHXH cho những người 5 lao động trong ngành đường sắt, BHXH cho lao động ngành hàng không, BHXH cho cảnh sát và quân đội…[25] Với mong muốn đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho người nông dân và lao động tự do, BHXH tự nguyện đã ra đời và bắt đầu thực hiện từ năm 2008. Có thể nói BHXH tự nguyện được kỳ vọng là chỗ dựa cho người thu nhập thấp, đem đến cơ hội hưởng “lương hưu” cho hàng chục triệu người không nằm trong diện bảo hiểm bắt buộc. Việc xây dựng chế độ BHXH tự nguyện là rất cần thiết, nhằm áp dụng cho đối tượng không thuộc diện làm công ăn lương, không được bảo vệ bởi bảo hiểm xã hội bắt buộc, những đối tượng làm nghề tự do, những người nông dân, ... mà trong nền kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay, đối tượng này rất rộng lớn. Trải qua quá trình thực hiện BHXH tự nguyện càng chứng tỏ đây là chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu thực hiện việc mở rộng độ bao phủ và nâng cao hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam chính là phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của BHXH, góp phần quan trọng không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn nhằm mục tiêu ổn định xã hội và an sinh cho mọi người dân. Trong khoản 3 điều 3 Luật BHXH 2006 thì BHXH tự nguyện được định nghĩa: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH”. Tuy nhiên, định nghĩa BHXH tự nguyện theo Luật BHXH 2006 lại chưa thực sự chỉ rõ được tính chất, tầm quan trọng và tính cụ thể của loại hình này; gây khó khăn nhất định trong việc hình dung cũng như nắm bắt của người tham gia đối với loại hình này. Để giải quyết những vướng mắc còn tồn tại trong Luật BHXH 2006, Luật BHXH 2014 đã có một quy định mới với nhiều nét cụ thể và rõ ràng hơn đó là: “BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”. 6 Như vậy, có thể xác định được rõ ràng chủ thể tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện là Nhà nước thông qua cơ chế đại diện là các cơ quan BHXH ở các cấp. Và thực chất BHXH tự nguyện là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tích lũy dần do sự đóng góp tự nguyện của người lao động nhằm đảm bảo thu nhập để thoả mãn nhu cầu sinh sống thiết yếu cho người lao động và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Bên cạnh việc giữ nguyên quyền được chọn mức và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của người tham gia thì định nghĩa về BHXH tự nguyện theo Luật mới còn đề cập đến chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm khuyến khích thêm nhiều các đối tượng khác trong xã hội tham gia BHXH tự nguyện, đồng thời thể hiện đây là một chính sách BHXH có ý nghĩa sâu sắc của Nhà nước nhằm tạo cơ hội cho người tham gia đều có thể được hưởng hai chế độ cốt lõi của BHXH tự nguyện. 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH, do đó mang đầy đủ các đặc điểm của BHXH nói chung. Thứ nhất, người lao động khi tham gia BHXH được đảm bảo thu nhập (bảo hiểm) cả trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác, khi tham gia vào quan hệ BHXH và đảm bảo các điều kiện luật định, người lao động được bảo hiểm cho tới lúc chết. Thứ hai, các sự kiện bảo hiểm trong BHXH liên quan đến thu nhập của người lao động gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết... Thứ ba, người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, tuy nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH. Bên cạnh những đặc điểm trên, BHXH tự nguyện còn mang những nét đặc trưng riêng có như sau: Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường không có quan hệ lao động chính thức, đa phần là những người lao động tự tạo việc làm, nông dân, ngư dân và 7 lao động tự do. Việc tham gia BHXH tự nguyện mang tính chất tự nguyện, phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia. BHXH tự nguyện còn có tính linh hoạt trong thiết kế chế độ, cách thức đóng phí phù hợp với nhu cầu của người tham gia. BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc đều là một bộ phận tạo thành hệ thống chế độ chính sách BHXH hoàn chỉnh của Đảng và Nhà nước, cùng thực hiện các chế độ BHXH do Nhà nước ban hành , quản lý, bảo hộ và cùng thực hiện. Hai chính sách này cùng mục tiêu là bảo vệ che chắn, ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập do khả năng lao động bị giảm hoặc mất ; bằng nguồn trợ cấp từ quỹ BHXH , góp phần đảm bảo công bằng và an sinh xã hội Tuy nhiên, 2 loại hình BHXH này cũng có sự khác biệt nhau về nguồn hình thành quỹ và nội dung. BHXH bắt buộc do cả người sử dụng lao động và người lao động đóng có sự bảo hộ của nhà nước nên nguồn quỹ này tương đối lớn và ổn định, mức trợ cấp BHXH khá cao. BHXH tự nguyện chủ yếu do những người lao động có thu nhập thấp và không ổn định đóng góp nên quỹ ban đầu nhỏ bé và lâu dài, kém ổn định hơn. BHXH bắt buộc dành cho những người từ 40-45 tuổi tham gia BHXH đủ thời gian tối thiểu đóng BHXH để được hưởng chế độ hưu trí. Khi về hưu, nếu không đủ, họ sẽ tham gia BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. Khi tham gia BHXH tự nguyện thì quá trình tham gia có người lao động, người sử dụng lao động và tổ chức BHXH. Còn chủ thể tham gia quá trình đóng BHXH tự nguyện chỉ gồm người tham gia BHXH tự nguyện và tổ chức BHXH. Mức đóng, phương thức đóng BHXH tự nguyện linh hoạt hơn BHXH bắt buộc và người tham gia BHXH tự nguyện được tạm dừng đóng BHXH tự nguyện mà không cần lý do. 1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện BHXH là trụ cột chính, là xương sống trong hệ thống an sinh xã hội, đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của người lao động, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Vì vậy, cùng với các loại hình BHXH khác, BHXH tự nguyện có vai trò quan 8 trọng đối với người lao động cũng như sự phát triển bền vững của xã hội nói chung. Trước hết, BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng đối với người lao động. Do đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người lao động tự do, hầu như không có quan hệ lao động với chủ sử dụng lao động, thu nhập thường thấp, không ổn định như: nông dân, những người kinh doanh, buôn bán tự do,… Thứ hai, việc tham gia BHXH tự nguyện còn giúp người lao động có ý thức trong việc tiết kiệm đầu tư những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Thứ ba, BHXH tự nguyện tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, cùng truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội và góp phần thực hiện công bằng xã hội, phân phối lại thu nhập xã hội trên cơ sở sự tương trợ để thiết lập hệ thống an sinh xã hội bền vững. Thứ tư, người lao động có quyền lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và người lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện để được hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của nhà nước. Khi tham gia vào BHXH tự nguyện thì mức đóng góp được chia cho người sử dụng lao động và người lao động; tỷ lệ đóng góp của các bên khác nhau tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH tự nguyện thông qua việc người sử dụng lao động trả lương cho người lao động để người lao động tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện. 1.1.4. Bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện BHXH ra đời là nhu cầu khách quan và là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật, Đức, Anh, Canada…, BHXH phát triển vững mạnh, cùng với hệ thống BHXH đa dạng, với nhiều loại hình BHXH phong phú. Tính chất của BHXH là quá trình tổ chức đền bù hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, hình thành do sự đóng góp của các bên tham 9 gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH, nhằm: Bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng; Góp phần bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. BHXH nhằm bù đắp những thiệt hại, rủi ro cho người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố trong cuộc sống, BHXH nói chung và BHXH nói riêng mang bản chất kinh tế và mang bản chất xã hội. - Tính kinh tế của bảo hiểm xã hội tự nguyện Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể hiện ở việc người tham gia BHXH tự nguyện đóng góp một khoản tiền để hình thành nên quỹ dự trữ. Nguồn quỹ dự trữ này được dùng để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. BHXH tự nguyện tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH mà họ tham gia. Chính vì vậy, về mặt kinh tế BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức, phân phối lại thu nhập, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. Quỹ Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành nên GDP của mỗi quốc gia, được phân phối lại cho những thành viên trong xã hội khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết... sự phân phối thu nhập có thể thực hiện giữa người trẻ và người già, giữa những người khỏe mạnh với người ốm đau, giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp hoặc phân phối giữa bản thân người lao động và gia đình họ. Chính nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Tóm lại, bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện chính là việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện góp phần tổ chức, phân phối lại thu nhập, nhằm bảo đảm đời sống của người lao động và gia đình họ trước những bất trắc, rủi ro xã hội. - Tính xã hội của bảo hiểm xã hội tự nguyện "BHXH và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính 10 của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội". Về mặt xã hội, BHXH nói chung và BHXH tự nguyện với mục tiêu không vì lợi nhuận, mà vì mục tiêu xã hội. Người tham gia BHXH tự nguyện được chia sẻ rủi ro và được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Quỹ BHXH tự nguyện thực hiện theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” đã góp phần trang trải những rủi ro khi xảy ra cho người lao động và gia đình họ. Mặc dù người lao động đóng một khoản tiền nhỏ trong thu nhập của mình, nhưng được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ lớn từ nguồn quỹ BHXH tự nguyện, nhờ đó đã chia sẻ, giúp cho người lao động và gia đình họ trang trải rủi ro khi thu nhập của họ bị giảm hay bị mất. Như vậy, về mặt xã hội, BHXH tự nguyện hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, là một trong những chính sách xã hội, góp phần thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của đất nước, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần ổn định đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, giữa bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH tự nguyện đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình của họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH tự nguyện, và ngược lại, khi nói đến sự đóng góp một khoản kinh phí nhỏ từ thu nhập nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH tự nguyện. 1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện 1.2.1. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.2.1.1. Nguyên tắc tự nguyện Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham gia. Người tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Theo nguyên tắc này, việc tham gia hay không tham gia là hoàn toàn do người tham gia quyết định. Mức đóng được tính dựa trên cơ sở mức thu nhập tháng do người tham gia lựa chọn, phương thức đóng theo nhu cầu và khả năng của bản 11 thân trên cơ sở những khung quy định.Với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là hầu hết người lao động không có quan hệ lao động, cho nên nguồn hình thành quỹ BHXH tự nguyện không phải do nhiều bên đóng góp mà sự đóng góp của chính bản thân người lao động và khả năng đầu tư phần tiền nhàn rỗi của Quỹ. Luật BHXH 2014 quy định mức đóng và phương thức đóng BHXH tự nguyện của người lao động cũng thể hiện rõ nguyên tắc tự do ý chí của người tham gia BHXH tự nguyện. Đây là nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự nguyện xuất phát từ đối tượng của loại hình BHXH này do rất khó quản lý những lao động ở khu vực phi chính thức, cũng như các đối tượng này thường là những người có thu nhập không ổn định, do đó cần tạo điều kiện để phù hợp với nhu cầu tham gia của họ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng đóng BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung. Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thường là những người nông dân, người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức và người nghèo, đời sống và thu nhập của họ bấp bênh, không ổn định. Vì vậy, để tạo điều kiện cho những đối tượng này có đủ điều kiện tham gia BHXH tự nguyện thì các quy định về BHXH tự nguyện phải linh hoạt. Sự linh hoạt thể hiện rõ nhất ở các quy định về mức đóng, phương thức đóng, và mức hưởng bảo hiểm. Khác với BHXH bắt buộc, mức đóng được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương, mức đóng trong BHXH tự nguyện thường được tính trên cơ sử mức thu nhập của người lao động. Người lao động tham gia BHXH tự nguyện thường có quan hệ lao động không ổn định. Để có một mức thu nhập nhất định trong một tháng họ phải làm nhiều công việc khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau, thu nhập giữa các tháng cũng khác nhau. Bởi vậy để thuận tiện cho người lao động thì việc quy định mức đóng của BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức thu nhập là phù hợp và linh hoạt. Phương thức đóng cũng phải linh hoạt để người lao động tham gia có thể lựa chọn. Họ có thể đóng bảo hiểm hàng tháng, hàng quý, hoặc sáu tháng một lần, thậm chí 12 một năm một lần. Vì thu nhập bấp bênh, nên họ không thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng đóng BHXH mà không cần lý do. Chính vì vậy, mức hưởng của người tham gia BHXH tự nguyện cũng rất đa dạng, cần được tính toán phù hợp, đảm bảo lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Mức hưởng BHXH tự nguyện cần được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH. Quy định mức hưởng như vậy mới phù hợp, vừa đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, vừa cân đối được thu – chi của quỹ BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, không có quyền lợi nào là tuyệt đối, ngoài việc quy định về BHXH tự nguyện một cách linh hoạt, cũng cần trong một giới hạn nhất định, như vậy mới cân đối được lợi ích của các chủ thể trong quan hệ BHXH tự nguyện, lợi ích của người lao động mới được lâu dài, bền vững. Ví dụ như theo quy định của Pháp luật Việt Nam, mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng đóng BHXH nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 mức lương tối thiểu chung. Sở dĩ phải quy định mức thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung để tin tưởng rằng cuộc sống của người lao động khi về già và nghỉ hưu vẫn được đảm bảo dù họ làm công việc giản đơn nhất. Pháp luật giới hạn mức đóng bảo hiểm để tránh tình trạng hưởng bảo hiểm nhưng phải đóng thuế thu nhập. Theo chỉ thị số 34/CT-TTg được ban hành ngày 26/12/2016, từ ngày 1/1/2018, người tham gia BHXH tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng bằng 10% của mức đóng theo chuẩn nghèo khu vực nông thôn. Trường hợp người lao động thuộc diện cận nghèo thì mức hỗ trợ là 25% (tương ứng với 38.500 đồng/tháng); người lao động thuộc diện nghèo thì mức hỗ trợ là 30% (tương ứng 46.200 đồng/tháng) 1.2.1.2. Mức hưởng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH tự nguyện Quyền được hưởng BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH của người lao động là việc họ được hưởng chế độ trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các trường hợp người lao động hoặc bị giảm khả năng lao 13 động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. BHXH là thu nhập khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến mức nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện, càng chứng tỏ được những mặt ưu điểm hơn. Đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống. Có thể nói nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu. Ý nghĩa xã hội của BHXH tự nguyện thể hiện ở chỗ người lao động có quyết định tham gia hay không, chính vì lẽ đó BHXH tự nguyện được thực hiện với nguyên tắc là không bắt buộc người lao động phải tham gia, đây vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu chung hướng tới việc người lao động ai cũng có cơ hội được hưởng BHXH. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho người lao động làm việc trong bất kỳ thành phần kinh tế nào, bất kỳ loại hình tổ chức lao động nào. Khi có đủ điều kiện, dấu hiệu phát sinh quan hệ BHXH thì đều được hưởng quyền lợi về BHXH không phân biệt hình thức pháp lý làm phát sinh quan hệ lao động, giới tính, tuổi tác … Mặt khác, việc quy định số lượng các chế độ BHXH hay nói cách khác khả năng khống chế, khắc phục các rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. 1.2.1.3. Người vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở tổng thời gian đã đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện Theo đó thì đối với trường hợp người lao động vừa tham gia bảo hiểm bắt buộc, vừa tham gia bảo hiểm tự nguyện thì sẽ được hưởng chế độ hưu trí và tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH (gộp tất cả thời gian đã đóng BHXH tự nguyện và bắt buộc lại sao cho đủ 20 năm đóng BHXH). 1.2.1.4. Quỹ BHXH tự nguyện được nhà nước quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan