Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại huyện phù...

Tài liệu Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại huyện phù ninh, tỉnh phú thọ

.PDF
73
32
66

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Trường Đại học Mở Hà Nội – Khoa sau đại học, Khoa Luật kinh tế đã giúp đỡ em, cung cấp các kiến thức cần thiết, hướng dẫn em học tập, nghiên cứu trong suốt quá trình tham gia chương trình học tập tại nhà trường và thực hiện luận văn thạc sỹ này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Cô giáo, PGS.TS Nguyễn Hiền Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sỹ này. Hà Nội, ngày……tháng ……..năm 2020 Tác giả luận văn Đỗ Trần Nam 3 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ...............................................................6 1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp ...................................................6 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp .......................................................................6 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp..................................................................7 1.2. Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ..........................................................................10 1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .....................................................10 1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ...................................................11 1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .......................................................14 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÊ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ ..................................................................................................................20 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp ...................20 2.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp ......................................................20 2.1.2. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ..........................................................................22 2.1.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp ..............................................................28 2.1.4. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ..............................................................................31 2.1.5. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm thất nghiệp .......................34 2.2. 37Điều kiện kinh tế - xã hội huyện Phù Ninh và cơ quan bảo hiểm thất nghiệp huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ ........................................................................................................... 37 2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ ..................................................................................40 2.3.2. Một số hạn chế trong thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ ....................................................................................................44 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TẠI HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ .......................................................................................................51 i 3.1. Yêu cầu về hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .....................................51 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ............................53 3.2.1. Quy định mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp .........................53 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo nghề dành cho người lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp.............................................................................54 3.2.3. Hoàn thiện quy định về quỹ bảo hiểm thất nghiệp ..........................................55 3.2.4. Hoàn thiện quy định về thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp .........................55 3.2.5 Hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ......56 3.2.6. Ban hành các quy định riêng đối với các đối tượng đặc thù để tăng tính công bằng giữa các đối tượng NLĐ, NSDLĐ ....................................................................56 3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ ..................................................................................57 3.3.1. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .................................................................................................57 3.3.2. Tăng cường công tác quản lý, thống kê và nắm bắt tình hình lao động .........59 3.3.3. Nâng cao vai trò của Trung tâm dịch vụ việc làm và năng lực cán bộ thực hiện công tác pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ..................................................................60 3.3.4. Đảm bảo thực hiện hiệu quả vai trò công đoàn trong doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động ............................................................................................................61 3.3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan về thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .................................................................................................62 3.3.6. Tăng cường thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ........................................................................................................63 KẾT LUẬN ...............................................................................................................65 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................66 ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BLLĐ : Bộ luật lao động HĐLĐ : Hợp đồng lao động ILO : Tổ chức lao động thế giới NLĐ : Người lao động NSDLĐ : Người sử dụng lao động NSNN : Ngân sách nhà nước UBND : Uỷ ban nhân dân iii LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, tác động đến người lao động và cả người sử dụng lao động. Thậm chí tỷ lệ thất nghiệp còn được coi là thước đo đánh gia sự cân bằng của một nền kinh tế. Do đó, bảo hiểm thất nghiệp có vai trò rất lớn đối với không chỉ người lao động, người sử dụng lao động mà còn được coi là liều thuốc làm hạ nhiệt sự căng thẳng xã hội do tình trạng thất nghiệp gây ra, là một trong những công cụ để quản trị thị trường lao động, thực hiện chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Trong sự phát triển chung toàn cầu, bảo hiểm thất nghiệp xuất hiện và ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình. Tại Việt Nam vấn đề thất nghiệp đã đuợc nhìn nhận một cách khách quan và đúng đắn trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2009, cho đến nay chính sách này đã thực hiện tốt vai trò là “điểm tựa” cho người thất nghiệp, đóng góp đáng kể vào thực hiện an sinh xã hội, phát triển kinh tế đất nước ta. Song thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội luôn có sự biến đối theo sự thay đổi của nền kinh tế và thị trường lao động. Do đó chính sách bảo hiểm thất nghiệp cũng luôn cần được nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn để phát huy được tốt nhất vai trò của mình. Huyện Phù Ninh là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, còn nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn của tỉnh ủy Phú Thọ, cũng như những chính sách thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất, làm kinh doanh kết hợp với các điều kiện thuận lợi như về giao thông, điều kiện tự nhiên, huyện Phù Ninh đã có những bước chuyển mình về kinh tế. Cùng với đó, quy mô dân số, lực lượng lao động của tỉnh cũng có sự tăng lên, số lao động trẻ với những ưu điểm về sức khỏe, sự nhanh nhạy đã tạo nên áp lực về việc làm, giữ việc làm cho những người lao động vốn tưởng như đã ổn định lâu dài. Trên địa bàn tỉnh cũng có một số khu công nghiệp, cụm công 1 nghiệp thu hút không chỉ lao động địa phương mà còn cả lao động các huyện lân cận tạo nên sự cạnh tranh về việc làm, nguy cơ thất nghiệp đối với lao động tại huyện Phù Ninh cũng tăng lên. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp thực sự có vai trò, ảnh hưởng lớn đến tình hình lao động, việc làm và đời sống lao động, dân cư của tỉnh, chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại huyện Phù Ninh” cho luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề tài khoa học về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp dưới những quy mô, góc độ khác nhau. Qua tìm hiểu của tác giả, có một số công trình sau: - Luận văn Thạc sĩ Ngô Thị Thu Hoài (2012), Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An”, Đại học Luật Hà Nội, Trần Vân Khánh (2013), Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp sau 04 năm thực hiện - Những vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện, Đại học Luật Hà Nội; Ngô Thị Thủy (2013), Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Ngọc Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp theo luật việc làm năm 2013, Đại học Luật Hà Nội; Lương Thị Hòa (2016), Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Bình, Viện Đại học Mở Hà Nội; Lữ Bỉnh Huy (2016), “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái”, Đại học Luật Hà Nội; Dương Thị Nguyệt Khuê (2017), “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn; Phạm Qúy Bẩy (2017), “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái”, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Huyền (2017),“Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình”, Đại học Luật Hà Nội; Hoàng Thị Hải (2018), “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn”, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2019), “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình”, Đại học Luật Hà Nội. Luận án Tiến sĩ: Lê Thị Hoài Thu (2004), “Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn 2 Hiền Phương (2009), “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội. Bài đăng tạp chí: Đỗ Năng Khánh (2001), Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp - sự cần thiết khách quan và nguyên tắc xây dựng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 9/2001; Lê Thị Hoài Thu (2006), Quy định về bảo hiểm thất nghiệp trong công ước Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2006; Trương Thị Thu Hiền (2016), Đánh giá kết quả 7 năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, Tạp chí quản lý nhà nước số 6/2016; Lương Quỳnh Hoa (2017), Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Tạp chí quản lý nhà nước số 7/2017; Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo Bộ luật hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 9/2018; Trương Thị Thu Hiền (2018), Hoàn thiện quy định về thu chi bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí quản lý nhà nước số 1/2018; Hà Thị Hoa Phượng (2019), Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Thái Lan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2019. Đề tài nghiên cứu khoa học: Nguyễn Văn Định (2000), "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” - Đại học Kinh tế Quốc dân; "Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Lao động sửa đổi, bổ sung" (2002), Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; Nguyễn Huy Ban và các cộng sự ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2004), Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp hiện đại - vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam".Nguyễn Văn Định (2008), Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Đại học Kinh Tế Quốc Dân; Đoàn Xuân Trường (chủ nhiệm đề tài, 2019), Pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về bảo hiểm thất nghiệp – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về bảo hiểm thất nghiệp nói chung, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu pháp luật bảo hiểm thất nghiệp gắn với thực tiễn thực hiện tại các địa phương nhưng còn chưa nhiều, trong đó chưa có công trình nào nghiên cứu pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực tại tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Luận văn nghiên cứu về bảo hiểm thất nghiệp, các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp chủ yếu là Luật việc làm, Luật bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành, nghiên cứu về tổ chức và thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có thể có sự so sánh với tình hình chung các địa phương trong cả nước, các huyện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Luận văn được nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn : - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp. - Phân tích quy định pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam hiện hành, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng phương pháp luận trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lenin, duy vật lịch sử và các chính sách quan điểm của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn gồm có: phương pháp luật học truyền thống, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê. Các phương pháp được vận dụng linh hoạt xuyên suốt nội dung luận văn. Phương pháp phân tích, tổng hợp phân chia cái tổng thể, phức tạp thành những yếu tố giản đơn hơn, từ đó có sự nhận thức cụ thể, sâu sắc vấn đề. Tổng hợp nhằm thống nhất, khái quát được cái chung, cái trọng yếu từ các dữ liệu, thông tin phân tích, tìm hiểu được để đưa ra những kiến nghị, giải pháp. Phương pháp 4 so sánh đối chiếu các quy định pháp luật BHTN hiện hành và pháp luật BHTN trong các giai đoạn, nhận diện những điểm mới và có luận giải nguyên nhân, cơ sở của những thay đổi, đánh giá sự tiến bộ, phù hợp với thực tế, so sánh kết quả thực hiện tại Phù Ninh với các địa phương khác. Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp, chọn lọc những thông tin trên cơ sở các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo tổng kết, số liệu thống kê… có ý nghĩa đối với đề tài nghiên cứu, từ đó sắp xếp, khái quát hóa thông tin theo từng nội dung cần luận giải trong mỗi phần của Luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài Luận văn phân tích, nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về BHTN, thực tiễn thực hiện tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn huyện Phù Ninh. Do đó, luận văn có ý nghĩa như một tài liệu có giá trị tham khảo đối với các cá nhân, đơn vị, tổ chức nghiên cứu về vấn đề pháp luật trong lĩnh vực BHTN. Đồng thời, những giải pháp được đề cập đến trong luận văn có ý nghĩa thực tiễn nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN tại huyện Phù Ninh và nhiều địa phương khác trên cả nước. 7. Bố cục luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật bảo hiểm thất nghiệp. Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại huyện Phù Ninh. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại huyện Phù Ninh 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại tất yếu trong nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Thực trạng thất nghiệp được coi là thước đo để đánh giá tình hình lao động, hoạt động giải quyết việc làm cũng như đánh giá sự phát triển kinh tế xã hội của một địa phương, quốc gia. Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ, giai đoạn và mỗi một quốc gia sẽ có những quan điểm khác nhau khi nhìn nhận về vấn đề thất nghiệp. Theo nội dung tại Phần IV Công ước số 102 năm 1952 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức lương phổ biến trong thị trường lao động. Còn người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, không làm kể cả một giờ trong tuần lễ điều tra, đang đi tìm việc làm và nếu có điều kiện là họ làm ngay. Theo Luật về hỗ trợ lao động (Luật bảo hiểm việc làm) của Cộng hoà liên bang Đức ngày 25/6/1969, thất nghiệp được hiểu là người lao động tạm thời không có quan hệ việc làm hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn. Theo Luật về trợ cấp chờ việc của Trung Quốc năm 1995 thì thất nghiệp là hiện tượng người đang làm việc bị mất việc làm vì những lí do khác nhau [21]. Tại Nhật Bản, hiện tượng thất nghiệp được gắn với người lao động thất nghiệp được hiểu là người không có việc làm trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm [35]. Như vậy, có thể thấy rằng một người thất nghiệp có các đặc điểm cơ bản: phải là người lao động; không có việc làm; có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. NLĐ được xác định theo quy định pháp luật của từng quốc gia, trong từng thời kỳ theo các tiêu chí khác nhau, các tiêu chí ấy có thể là độ tuổi hay quan hệ lao động…. NLĐ được xem là thất nghiệp khi trước đó họ đã có một quan hệ lao động, một công việc ổn định 6 để làm, có thu nhập, tuy nhiên vì các lý do khác nhau về chính trị, kinh tế, xã hội… dẫn đến NLĐ bị mất việc làm, chấm dứt quan hệ lao động với NSDLĐ và chưa thể tìm được công việc mới. Ngược lại, không được xem là người lao động thất nghiệp đối với các trường hợp như NLĐ tạm thời không đi làm vì lý do như nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ tạm thời vì tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người trong độ tuổi lao động nhưng là học sinh, sinh viên chưa tốt nghiệp, những người ở nhà làm công việc nội trợ… Khi mới được triển khai thực hiện, BHTN được thiết kế là một bộ phận của BHXH nhưng sau đó nó được tách ra khỏi BHXH, là một trong những chính sách có vai trò, ý nghĩa to lớn khắc phục tình trạng thất nghiệp. Sau khi kết thúc một quan hệ lao động, NLĐ bị mất thu nhập để đảm bảo cuộc sống của mình và những người phụ thuộc. BHTN nhằm trợ giúp về mặt tài chính cho người thất nghiệp để họ ổn định cuộc sống của mình và gia đình trong một chừng mực nhất định mang tính ngắn hạn, từ đó tạo điều kiện để NLĐ tham gia vào thị trường lao động, có những cơ hội mới về việc làm. BHTN ddowcj hiểu như sau: “Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người thất nghiệp và hỗ trợ người thất nghiệp tìm việc làm trên cơ sở sự đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp”. 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm như bản chất là sự phân phối lại tổng sản phẩm xã hội trong nước một cách không đều, hoạt động trên nguyên tắc số đông bù số ít, vừa mang tính bồi hoàn lại vừa không bồi hoàn [19], BHTN còn có những đặc điểm riêng như sau: Thứ nhất, BHTN có đối tượng là NLĐ trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhưng bị mất việc làm và luôn sẵn sang quay lại thị trường lao động. Đó là những NLĐ đã kết thúc một quan hệ lao động với NSDLĐ và đang trong thời gian để có thể bắt đầu một quan hệ lao động mới, trong khoảng thời gian này NLĐ không có việc làm, đồng thời không có thu nhập. NLĐ chỉ được hưởng trợ cấp BHTN trong một khoảng thời gian nhất định sau khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với NSDLĐ. So với BHXH thì đối tượng của BHTN hẹp hơn so với đối tượng của BHXH, đối tượng của BHXH còn bao gồm những NLĐ đã nghỉ hưu, những NLĐ đang làm việc. 7 Thứ hai, về mục đích, BHTN được xác định là phương án hỗ trợ một phần thu nhập mà NLĐ bị mất trong khoảng thời gian ngắn hạn do rơi vào tình trạng thất nghiệp đồng thời hỗ trợ cho NLĐ tìm kiếm việc làm mới thông qua các hoạt động, dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm việc làm, dạy nghề. BHTN không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận mà với bản chất là một bộ phận của hệ thống chính sách an sinh xã hội, chia sẻ rủi ro khi NLĐ cần được trợ giúp. BHTN nhằm mục tiêu bù đắp một phần thu nhập, hỗ trợ tài chính giúp ổn định đời sống cho những NLĐ thất nghiệp thông qua chi trả trợ cấp thất nghiệp và triển khai các giải pháp nhằm nhanh chóng đưa người thất nghiệp quay trở lại thị trường lao động như đào tạo chuyển đổi nghề, tư vấn giới thiệu việc làm hoặc hỗ trợ duy trì việc làm, tránh sa thải lao động. Thông qua chế độ chi trả của quỹ BHTN, góp phần giảm gánh nặng tài chính cho NSDLĐ, doanh nghiệp, cho nhà nước và góp phần tăng trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ của mình. Thứ ba, bên cạnh trợ cấp bằng tiền, BHTN còn phải thực hiện các biện pháp tạo điều kiện, tìm kiếm cơ hội để NLĐ tìm được việc làm phù hợp, tiếp tục tham gia quan hệ lao động chứ không đơn thuần chỉ có hoạt động thu và chi quỹ bảo hiểm cho các đối tượng như các chế độ an sinh xã hội khác. Các hoạt động này rất đa dạng như giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, đào tạo nâng cao tay nghề, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp nhận, tuyển dụng lao động thất nghiệp,… 1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm thất nghiệp Thất nghiệp là hiện tượng tất yếu, khách quan trong nền kinh tế thị trường nhưng nếu tỷ lệ thất nghiệp vượt quá giới hạn cho phép thì nó sẽ trở thành vấn đề xã hội gay cấn, để lại hậu quả trên các mặt kinh tế, xã hội, tâm lý. Chính vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp ra đời như một yếu tố đóng vai trò thăng bằng trong nền kinh tế, đối với người lao động, người sử dụng lao động, đối với Nhà nước và xã hội. - Đối với người lao động Thất nghiệp tác động rất lớn đến tinh thần, tâm lý của NLĐ và gia đình họ. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra khi NLĐ bị mất việc làm thì có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác dụng như chính sách trợ cấp thất nghiệp. Rõ ràng với chính sách này NLĐ cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm một công việc mới, ổn định dần và tiến đến việc cải thiện đời sống của gia đình mình trong tương lai. Thông qua hình thức chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp, 8 BHTN hỗ trợ một khoản tiền nhất định dành cho NLĐ khi họ rơi vào tình trạng mất việc làm, bù đắp một phần vào thu nhập bị mất, qua đó giúp NLĐ và gia đình họ tạm thời ổn định cuộc sống trong thời gian tìm việc. Bên cạnh đó, BHTN không chỉ bù đắp về vật chất cho NLĐ thất nghiệp mà thông qua các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, nó còn giúp NLĐ có cơ hội quay trở lại thị trường lao động, tham gia vào một quan hệ lao động mới. Nhờ có chế độ trợ cấp việc làm và thông qua các hoạt động hỗ trợ tìm kiếm việc làm, đào tạo nghề, nâng cao tay nghề…NLĐ và gia đình họ có thể tạm thời ổn định cuộc sống, có tâm lý vững vàng, yên tâm hơn để tìm kiếm việc làm mới, thậm chí nhờ chế độ hỗ trợ đào tạo nghề NLĐ còn có cơ hội tìm kiếm việc làm khác có thể thích hợp hơn. Chế độ hỗ trợ đào tạo nâng cao tay nghề của BHTN giúp NLĐ có cơ hội duy trì việc làm, trụ lại với công việc do sức ép đổi mới công nghệ, cạnh tranh việc làm… - Đối với người sử dụng lao động Tham gia BHTN không chỉ thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ của mình mà còn là con đường để bảo vệ tài nguyên sức lao động, nguồn lực lao động chung của một quốc gia. Xét trên phương diện kinh tế, tham gia BHTN sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, cho NSDLĐ một khoản chi lớn vì quỹ BHTN sẽ chi trả cho NLĐ khoản tiền trợ cấp khi họ thôi việc. Đây là một lợi ích lớn mà doanh nghiệp có thể thấy rõ để giải quyết chế độ cho NLĐ thôi việc, bị mất việc làm. Do đó, gánh nặng tài chính của doanh nghiệp được san sẻ. Hơn nữa, nhờ có BHTN, NLĐ sẽ yên tâm làm việc, nâng cao hiệu quả lao động, nhờ đó NSDLĐ cũng có những lợi ích ổn định được lực lượng nhân công, phát triển được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, quan hệ lao động giữa NLĐ và người sử dụng lao động cũng trở nên gắn bó hơn qua sự thể hiện trách nhiệm với nhau. Trong quá trình hoạt động sản xuất, đổi mới, nâng cao công nghệ sản xuất là yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp để bắt kịp yêu cầu của thị trường. Nhờ có chế độ đào tạo nâng cao tay nghề của BHTN mà NSDLĐ cũng có điều kiện ổn định được đội ngũ lao động, giảm bớt áp lực về nguồn lao động. - Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội có thể ảnh hưởng xấu đến kinh tế - xã hội, cả NLĐ và NSDLĐ. Thất nghiệp gia tăng có thể kéo theo sự gia tăng của 9 lạm phát, làm cho nền kinh tế suy thoái, chậm phục hồi. Thậm chí, nó có thể làm cho tình hình xã hội trở nên bất ổn. Chính vì thế, khắc phục và giải quyết thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải mà chính phủ các nước buộc phải quan tâm, giải quyết. Hệ thống BHTN với các quy định về trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm việc làm là sự đảm bảo cần thiết cho NLĐ có cuộc sống bình thường khi mất việc làm, giảm gánh nặng về chi tiêu cho Nhà nước, hạn chế các tệ nạn xã hội phát sinh, bảo vệ những giá trị tiến bộ xã hội. Từ góc độ kinh tế vĩ mô, BHTN là một loại hình “tự động ổn định” hỗ trợ tiêu dùng trong tình trạng kinh tế suy thoái. Các chế độ BHTN do đó góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả – tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động [29]. BHTN còn có vai trò quan trọng điều tiết, ổn định thị trường lao động ở các quốc gia. 1.2. Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Thị trường lao động là một bộ phận quan trọng trong cấu thành của nền kinh tế quốc dân, cùng với các thị trường tài chính, bất động sản, khoa học – công nghệ và hàng hóa. Việc điều chỉnh, điều tiết hiệu quả thị trường lao động là công cụ tốt nhất để giải quyết vấn đề cung cấp nhân lực, đồng thời giải quyết vấn đề thất nghiệp. Do đó, cần có sự can thiệp của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ BHTN là đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. BHTN là một chính sách thuộc hệ thống các chính sách về an sinh xã hội và pháp luật về BHTN cũng là một bộ phận của hệ thống pháp luật an sinh xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tham gia và thụ hưởng BHTN. Nhà nước điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực việc làm, trong đó có vấn đề thất nghiệp, ban hành các quy định nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật BHTN. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật BHTN là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện về việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp và thực hiện các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc. 10 1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm thất nghiệp - Nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN. Nguyên tắc này được hình thành dựa trên cơ sở bản chất của an sinh xã hội là “lưới đỡ” cho mọi đối tượng trong xã hội. Đối tượng của BHTN là thu nhập của NLĐ bị mất do bị mất việc làm, chưa tìm được việc làm mới. Thất nghiệp có thể đến với bất kỳ ai, khi rơi vào tình trạng này, người lao động, người tham gia BHTN cần có sự hỗ trợ từ nhà nước, từ cộng đồng để đảm bảo cuộc sống được ổn định phần nào, đảm bảo ở mức tối thiểu. Sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN được thể hiện dưới hình thức là trợ cấp cho người tham gia, song không phải NLĐ nào tham gia BHTN cũng được hưởng trợ cấp thất nghiệp và khi rơi vào tình trạng thất nghiệp, NLĐ cũng phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới được hưởng trợ cấp. Đối với NSDLĐ, họ cũng tham gia đóng góp vào quỹ BHTN song không phải doanh nghiệp nào cũng cần đến sự hỗ trợ của quỹ này và mức độ cũng khác nhau tùy thuộc vào tình hình sử dụng lao động. Có doanh nghiệp thì khá ổn định về lực lượng lao động, có doanh nghiệp lại thường xuyên sa thải, thay thế nguồn nhân lực. Nguyên tắc mức đóng BHTN được tính trên cơ sở tiền lương của NLĐ. Quỹ BHTN được hình thành chủ yếu dựa trên sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ nhưng mức thu nhập của NLĐ lại rất khác nhau. Dựa trên định mức về thu nhập, NLĐ được chia thành nhiều nhóm khác nhau, NLĐ có thu nhập cao, NLĐ có thu nhập trung bình và NLĐ có thu nhập thấp. Mức đóng BHTN phải dựa trên tiền lương của NLĐ để phù hợp với khả năng chi trả, tình hình thực dựa trên tiền lương của NLĐ là một cách để phân phối lại thu nhập của người lao động vào trong xã hội. Đồng thời, phù hợp với tình hình thực tế của nguời lao động về nguồn thu nhập. Tham gia BHTN có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ, đơn vị sử dụng lao động, để khuyến khích sự tham gia BHTN của các đối tượng, các quy định pháp luật về mức đóng phải phù hợp để không được ảnh hưởng quá nhiều đến thu nhập, mức chi phí cho sinh hoạt của NLĐ vì bên cạnh BHTN, NLĐ cũng phải tham gia thêm các loại hình bảo hiểm khác. Đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa những người tham gia BHTN, kể cả NLĐ và người SDLĐ thì mức đóng BHTN phải được tính toán trên cơ sở tiền lương của NLĐ. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng khi kết hợp với nguyên 11 tắc mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHTN. Nguyên tắc mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng BHTN. Tiêu chí để xác định mức hưởng trợ cấp BHTN của người lao động được xác định trên mức đóng và thời gian đóng BHTN của họMức hưởng trợ cấp dựa trên mức đóng và thời gian đóng giúp đảm bảo sự công bằng giữa chính những NLĐ, điều này được thể hiện khi NLĐ có mức đóng càng cao, thời gian đóng càng lâu thì sẽ được hưởng mức trợ cấp cao hơn so với NLĐ có mức đóng thấp hơn, thời gian tham gia BHTN ngắn hơn.Song mức hưởng BHTN cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào mức đóng và thời gian dóng BHTN của NLĐ. Mức hưởng BHTN quá cao hoặc quá thấp đều có ảnh hưởng trực tiếp đến NLĐ ở những thái cực khác nhau. Nếu mức trợ cấp BHTN quá cao, cuộc sống của NLĐ được đảm bảo hơn mức tối thiểu sẽ dẫn tới việc NLĐ có thể không tích cực tìm việc làm, muốn duy trì tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp vì hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng đủ cho trang trải cuộc sống. Mức trợ cấp thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng quyết tâm tìm việc làm của NLĐ mà nó còn có thể ảnh hưởng đến mức lương mà NLĐ yêu cầu khi tìm kiếm công việc mới. Do đó, mức hưởng BHTN cần được tính toán phù hợp, về nguyên tắc, mức trợ cấp thất nghiệp không được cao hơn mức thu nhập của NLĐ trước khi thất nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo đời sổng tối thiểu cho người thất nghiệp [18]. Ngược lại, nếu mức hưởng BHTN quá thấp thì không đảm bảo được mục đích, ý nghĩa an sinh xã hội tốt đẹp của BHTN và không đáp ứng được mục đích, nhu cầu của NLĐ khi tham gia BHTN. Điều này sẽ làm giảm sự thu hút của chính sách BHTN với NLĐ, mức trợ cấp quá thấp dẫn đến họ không tha thiết tham gia, đóng góp vào quỹ BHTN. Nguyên tắc BHTN phải được thực hiện đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia. Một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN đó là các thủ tục mà NLĐ phải thực hiện khi tham gia, hưởng chế độ BHTN. Thủ tục tham gia được thiết kế đơn giản, dễ dàng, thuận tiện không chỉ nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN mà còn khuyến khích, thúc đẩy được sự tham gia của đông đảo NLĐ, góp phần ổn định xã hội, thực hiện tốt chương trình việc làm 12 quốc gia. Đối tượng tham gia BHTN là NLĐ gồm nhiều loại hình lao động khác nhau, cùng với đó là trình độ, năng lực, hiểu biết pháp luật của các nhóm NLĐ cũng là khác nhau.Do đó để khuyến khích, tạo điều kiện cho NLĐ tham gia BHTN thuận lợi nhất, để chính sách BHTN đi vào cuộc sống, gần gũi và khuyến khích được NLĐ tham gia thì các thủ tục, quy trình BHTN phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện. Thủ tục BHTN, nhất là thủ tục đề nghị và nhận trợ cấp thất nghiệp phải thuận tiện để đảm bảo hỗ trợ kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi họ và gia đình đang cần sự hỗ trợ. Về phía NSDLĐ, tham gia BHTN còn là trách nhiệm của người SDLĐ đối với NLĐnhưng vì những lý do như điều kiện kinh tế, nhận thức về ý nghĩa của BHTN đối với NSDLĐ chưa thực sự đầy đủ, cho rằng đây hoàn toàn là quyền lợi, lợi ích của NLĐ nên họ không thực sự tự nguyện tham gia BHTN. Trường hợp các thủ tục BHTN không thuận tiện cũng là lý do để họ từ chối, trì hoãn thực hiện tham gia BHTN cho NLĐ. Nhìn chung, cải cách thủ tục trong các quy trình, chế độ BHTN để việc tham gia, hưởng trợ cấp dễ dàng, thuận lợi không chỉ là tiêu chí BHTN hướng đến mà BHXH, BHYT và các chế độ trợ giúp xã hội khác cũng cần xác định làm mục tiêu để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an sinh xã hội nói chung trên thực tiễn. Nguyên tắc quỹ BHTN được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHTN hỗ trợ, chi trả trợ cấp BHTN cho NLĐ bị thất nghiệp khi họ đáp ứng các yêu cầu về thủ tục, hồ sơ hưởng BHTN. Quỹ BHTN được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu từ đóng góp của NLĐ, NSDLĐ. Quỹ được quản lý bởi một cơ quan quản lý quỹ nhằm đảm bảo sự tập trung, thống nhất vì chế độ BHTN được thực hiện nhất quán, cần có sự tập trung để kip thời điều tiết, đảm bảo sự an toàn của quỹ mà cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì thực hiện BHTN. Công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn trong hoạt động thu – chi quỹ BHTN là thước đo để đánh giá hiệu quả trong hoạt động quản lý và sử dụng quỹ. Điều này là cần thiết để tránh hành vi gian dối, trục lợi BHTN của các cá nhân, tổ chứcdẫn đến quỹ BHTN không được sử dụng đúng mục đích, không đạt hiệu quả cao. Quỹ BHTN có ý nghĩa quan trọng, yếu tố quyết định đối với việc duy trì thực hiện chính sách BHTN. Mức đóng được dựa trên cơ sở mức tiền lương và mức hưởng 13 được tính toán trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng nhưng không phải lúc nào sự tính toán này cũng có thể đảm bảo duy trì quỹ BHTN. Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHTN, Nhà nước có chính sách bảo hộ cho quỹ bằng các phương thức, cơ chế khác nhau như bù đắp cho quỹ khi quỹ có nguy cơ mất cân đối, hỗ trợ phí BHTN cho NLĐ, tạo cơ chế huy động nguồn khác ngoài khoản đóng góp của người tham gia BHTN cho quỹ BHTN một cách thuận lợi và có những ưu đãi, đảm bảo cho cơ chế huy động đó được thực hiện. 1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Thứ nhất, quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Đối tượng tham gia BHTN bao giờ cũng có NLĐ và NSDLĐ. Các nước trên thế giới thường quy định NLĐ tham gia BHTN là những NLĐ trong độ tuổi lao động, có khả năng lao độngvà tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội và quan niệm của các quốc gia về BHTN mà quy định điều kiện NLĐ tham gia BHTN khác nhau. Một số quốc gia quy định NLĐ phải làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn tương đối dài thì mới là đối tượng tham gia BHTN. Những NLĐ độc lập tự làm, những người làm thuê theo mùa vụ là những đối tượng khó quản lý cả về thu nhập và việc làm để tính toán phí bảo hiểm, xác minh tình trạng việc làm do vậy thường không được quy định là đối tượng tham gia BHTN.Người sừ dụng lao động là những người được hưởng lợi từ chính sách BHTN, việc NSDLĐ tham gia đóng góp vào quỹ BHTN còn thể hiện trách nhiệm xã hội của họ.. Sự san sẻ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đóng góp vào quỹ BHTN cũng nhằm dung hòa, xây dựng mối quan hệ tốt đẹpvới NLĐ. Phạm vi đối tượng NSDLĐ tham gia BHTN gắn liền với phạm vi đối tượng NLĐ tham gia BHTN. Tức là ở những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất mà NLĐ phải tham gia BHTN thì đương nhiên NSDLĐ đó cũng phải tham gia BHTN. Thứ hai, quy định về chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Về điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp: Điều kiện hưởng BHTN là những yêu cầu mà NLĐ cần phải đạt được, thực hiện được theo quy định pháp luật BHTN để được hưởng trợ cấp thất nghiệp.Đó là các điều kiện: i) Chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc có lý do chính đáng, trừ trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng 14 lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng; ii) Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ; iii) Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp; iv) Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp BHTN [3]. Theo quy định tại Công ước số 44 của ILO, để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, NLĐ thất nghiệp phải đáp ứng các điều kiện là có năng lực làm việc, sẵn sàng làm việc nhưng hiện tại không có việc làm; có đăng ký tìm việc tại một phòng tìm việc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hay một trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm do nhà nước quản lý; có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng BHTN đủ thời hạn quy định của thời kỳ dự bị; trước đó không tự ý nghỉ việc vô cớ hoặc không phải bị nghỉ việc vì kỷ luật hay tranh chấp nghề nghiệp; có giấy chứng nhận mức lương hay thu nhập trước khi bị thất nghiệp (trường hợp trả trợ cấp theo mức lương). Chính sách BHTN của các nước đều quy định về thời gian dự bị, là khoảng thời gian NLĐ có tham gia đóng góp cho quỹ BHTN trước khi thất nghiệp. Quy định này nhằm đảm bảo rằng chỉ có những người thực sự và thường xuyên lao động, hoạt động kinh tế thì mới có thể xem như mất thu nhập thực sự và cần một khoản trợ cấp thay thế để đảm bảo cuộc sống. Quy định này cũng nhằm đảm bảo rằng số đóng góp của mỗi người tham gia BHTN đã đạt tới mức tối thiểu khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, góp phần cân đối tài chính quỹ BHTN. Pháp luật cũng quy định điều kiện trước đó NLĐ không tự ý nghỉ việc vô cớ hoặc không phải bị nghỉ việc vì kỷ luật hay tranh chấp nghề nghiệp để tránh tình trạng NLĐ lạm dụng chính sách BHTN, sẵn sàng tự ý bỏ việc mà không có lý do phù hợp, ảnh hưởng đến quỹ BHTN, cổ súy cho tính vô kỷ luật, bất ổn của lực lượng lao động. Tuy nhiên không phải cứ bị mất việc làm, rơi vào tình trạng thất nghiệp là NLĐ được hưởng trợ cấp thất nghiệp ngay mà phải qua một khoảng thời gian nhất định. Theo Công ước số 44 của ILO, thời gian này không được vượt quá 08 ngày cho mỗi thời kỳ thất nghiệp. Pháp luật BHTN quy định thời gian này nhằm đảm bảo rằng NLĐ sau khi mất việc làm thì thực sự rơi vào tình trạng thất nghiệp, tức là chưa tìm được việc làm mới ngay, chưa thể quay lại thị trường lao động ngay. Tránh để xảy ra việc cả NLĐ và cơ quan BHTN phải thực hiện những thủ tục nhằm giải quyết chế độ BHTN cho NLĐ nhưng ngay sau đó phải hủy bỏ do NLĐ sớm 15 tìm được việc làm mới. Về mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp: Người lao động khi đủ điều kiện hưởng BHTN sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và các dịch vụ được chi trả từ quỹ BHTN trong khoảng thời gian nhất định. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp thường được xác định, giới hạn bởi một tỷ lệ % trên cơ sở tiền lương, tỷ lệ này được tính toán đảm bảo cho NLĐ và gia đình họ duy trì được các điều kiện sống tối thiểu c trong thời gian tìm một công việc mới. Tại Công ước số 102 năm 1952 của ILO yêu cầu mức trợ cấp thất nghiệp không thấp hơn 45% mức thu nhập trước khi mất việc. Công ước này quy định thêm rằng giới hạn chuẩn của mức thu nhập tối đa để làm căn cứ đóng BHTN phải được ấn định cao đến mức sao cho có thể đảm bảo rằng mức tối thiểu 45% sẽ được áp dụng đối với tất cả NLĐ. Công ước số 168 của ILO về thúc đẩy việc làm và bảo vệ chống thất nghiệp năm 1988 còn đòi hỏi cao hơn, tỷ lệ nói trên được thay bằng 50% mức thu nhập trước đó. Mức trợ cấp thất nghiệp không được cao ngang bằng tiền lương của NLĐ trước khi thất nghiệp vì nếu mức trợ cấp cao sẽ dễ gây ra ảnh hưởng tiêu cực chính NLĐ, muốn duy trì tình trạng thất nghiệp, không tìm việc làm mới. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ảnh hưởng lớn đến khả năng chi trả của quỹ BHTN do đó nó phải bị giới hạn và thường được xác định căn cứ vào thời gian đóng BHTN mà NLĐ tham gia. Điều 24, Công ước số 102 của ILO hướng dẫn rằng trợ cấp thất nghiệp có thể trả suốt thời gian NLĐ bị mất việc làm ngoài ý muốn, và đôi khi trợ cấp này cũng có thể hạn chế trong nhiều trường hợp đối với các loại đối tượng hưởng trợ cấp. Riêng đối với đối tượng hưởng trợ cấp là người làm công ăn lương, thời gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế trong khoảng 13 tuần trong từng thời kỳ 12 tháng. Không chỉ trợ cấp cho người thất nghiệp, chế độ BHTN thực sự có ý nghĩa khi còn hướng tới mục tiêu lâu dài gắn với NLĐ là tìm kiếm được một công việc mới để duy trì cuộc sống lâu dài và hạn chế chi trả từ quỹ BHTN. BHTN hỗ trợ cho NLĐ tìm kiếm việc làm, học nghề để chuyển đổi hoặc nâng cao tay nghề hướng tới mục tiêu nâng cao giá trị NLĐ, tìm được nhiều cơ hội việc làm hơn. Chế độ hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp thông qua cung cấp thông tin thị trường 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất