CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tư liệu sản xuất và sức lao động là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình
sản xuất. Hoạt động trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định để mua sắm các yếu tố phục vụ cho
hoạt động SXKD của mình. Quá trình SXKD là quá trình vốn của doanh nghiệp luôn
vận động và tuân theo một chu kỳ nhất định. Sự vận động của các luồng tiền trong
doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, đồng
thời làm nảy sinh các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị, hợp thành các quan hệ tài
chính trong doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp bao gồm các
nhóm sau:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nƣớc: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước thông qua việc nộp các
khoản thuế, lệ phí vào ngân sách.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác: Đây là mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác (nhà cung cấp, khách hàng), các trung
gian tài chính… nảy sinh trong quá trình giao dịch với nhau.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Mối quan hệ này thể hiện trong việc
doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính (thanh toán tiền lương, tiền công,
thưởng phạt vật chất) với người lao động trong doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với chủ sở hữu doanh nghiệp: Mối quan hệ này
liên quan đến việc đầu tư, góp vốn hay rút vốn của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp và
hoạt động phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề trên, có thể kết luận rằng: “Tài chính doanh nghiệp là các
quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh gắn liền với việc tạo lập, sử dụng
các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh”.
1.1.2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Thứ nhất, giúp doanh nghiệp xác định và tổ chức các nguồn vốn nhằm bảo
đảm nhu cầu sử dụng vốn cho quá trình SXKD. Để thực hiện các hoạt động SXKD
trong điều kiện của cơ chế thị trường có hiệu quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn
và có phương án tạo lập, huy động vốn, cụ thể là:
Doanh nghiệp phải xác định nhu cầu vốn (vốn cố định và vốn lưu động) cần thiết
cho quá trình SXKD.
1
Doanh nghiệp phải xem xét khả năng đáp ứng nhu cầu và các giải pháp huy động
vốn. Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng thì doanh nghiệp phải huy động thêm vốn, tìm
kiếm nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả. Ngược
lại, nếu khả năng lớn hơn nhu cầu thì doanh nghiệp có thể tính đến phương án mở rộng
sản xuất, mở rộng thị trường hoặc có thể tham gia vào thị trường tài chính thông qua
các hoạt động như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản...
Doanh nghiệp phải lựa chọn nguồn vốn và phương thức thanh toán các nguồn
vốn sao cho chi phí phải trả là thấp nhất trong khoảng thời gian hợp lý.
Thứ hai, giúp doanh nghiệp phân phối thu nhập. Chức năng này biểu hiện ở
việc doanh nghiệp phân phối thu nhập từ doanh thu bán hàng và từ các hoạt động
khác. Nhìn chung, các doanh nghiệp phân phối thu nhập của mình như sau:
Bù đắp các yếu tố đầu vào đã tiêu hao trong quá trình SXKD như chi phí khấu
hao TSCĐ, chi phí vật tư, chi phí cho lao động và các chi phí khác...
Phần lợi nhuận còn lại sẽ được doanh nghiệp phân phối bằng cách bù đắp các chi
phí là chia lãi cho đối tác góp vốn, chi trả cổ tức, phân phối lợi nhuận sau thuế vào các
quỹ của doanh nghiệp.
Thứ ba, giám đốc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giám
đốc tài chính là việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp. Cụ thể qua tỷ trọng, cơ cấu nguồn huy động, việc sử dụng
nguồn vốn huy động, việc tính toán các yếu tố chi phí vào giá thành và chi phí lưu
thông, việc thanh toán các khoản công nợ với ngân sách, với người bán, với tín dụng
ngân hàng, với công nhân viên và kiểm tra việc chấp hành kỷ luật tài chính, kỷ luật
thanh toán, kỷ luật tín dụng của doanh nghiệp. Trên cơ sở quá trình kiểm tra, kiểm soát
như trên, chủ thể quản lý doanh nghiệp sẽ phát hiện ra những sự mất cân đối, sơ hở
trong công tác điều hành, quản lý, từ đó giúp ngăn chặn kịp thời các tổn thất có thể xảy
ra, nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Ba chức năng trên của tài chính doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Cụ thể, chức năng phân phối được tiến hành đồng thời với chức năng giám đốc trong
khi chức năng giám đốc thực hiện tốt là cơ sở quan trọng cho những định hướng phân
phối tài chính đúng đắn, đảm bảo các tỷ lệ phù hợp với quy mô sản xuất, phương
hướng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất được tiến hành liên tục. Việc tạo vốn và
phân phối tốt sẽ khai thông các luồng tài chính, thu hút mọi nguồn vốn khác nhau để
đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và sử dụng hiệu quả đồng vốn, tạo ra
nguồn tài chính dồi dào là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng giám đốc
tài chính của doanh nghiệp.
2
Thang Long University Library
1.2. Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính doanh
nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Theo “giáo trình tài chính doanh nghiệp, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội,
trang 66 của Lưu Thị Hương, Vũ Duy Hào, năm 2012”, thì:
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc xem xét đánh giá kết quả của việc quản
lý và điều hành tài chính của doanh nghiệp thông qua việc phân tích bằng các phương
pháp phù hợp các số liệu trên báo cáo tài chính, phân tích những gì đã làm được,
những gì chưa làm được và dự đoán, tiên liệu trước những gì sẽ xảy ra, đồng thời tìm
nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hướng tới hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm tận dụng phát huy
các điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu và nâng cao chất lượng quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, người sử dụng thông tin đưa ra các quyết đinh tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
Theo “TS Lê Thị Xuân, Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp, Học viện
Ngân hàng, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, năm 2011, trang 10”, thì:
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu
tài chính hiện hành và trong quá khứ của doanh nghiệp nhằm mục đích đánh giá thực
trạng tài chính, dự tính các rủi ro và tiềm năng tương lai của một doanh nghiệp, trên cơ
sở đó giúp cho nhà phân tích ra các quyết định tài chính có liên quan tới lợi ích của họ
trong doanh nghiệp đó.
Trọng tâm của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính
tổng hợp, các chỉ tiêu đặc trưng tài chính và dựa trên mối liên hệ giữa các dữ liệu để
đưa ra các kết luận chính xác, hữu ích. Ngoài ra phân tích tài chính còn sử dụng các
báo cáo tài chính để phân tích, đánh giá năng lực, vị thế tài chính của doanh nghiệp.
Từ đó giúp các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp từ các góc độ khác nhau, vừa có
thể đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động
tài chính doanh nghiệp, để nhận biết phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính,
quyết định đầu tư phù hợp.
Tóm lại, phân tích tài chính doanh nghiệp là một quát trình kiểm tra, xem xét các
số liệu về tài chính hiện hành và trong quá khứ của doanh nghiệp nhằm mục đích
đánh giá thực trạng tài chính, dự tính các rủi ro và tiềm năng tương lai của một doanh
nghiệp, trên cơ sở đó giúp cho nhà quản trị đưa ra các quyết định tài chính có liên quan
đến lợi ích của họ trong doanh nghiệp đó.
3
1.2.2. Sự cần thiết phải phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là việc vận dụng tổng thể các phương pháp phân tích khoa
học để đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp cho các đối
tượng quan tâm nắm bắt được thực trạng, dự đoán được chính xác viễn cảnh tài chính
trong tương lai cũng như rủi ro tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Đây là tiền
đề đề các nhà phân tích đưa ra các quyết định phù hợp với lợi ích của họ. Các đối
tượng phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau sẽ quan tâm theo góc độ và với
những mục tiêu khác nhau. Do đó, ý nghĩa của việc phân tích tài chính đối với từng
đối tượng là khác nhau.
Đối với ngƣời quản lý doanh nghiệp: Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản
lý doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một số quyết định tài chính
mà nhà quản lý thường phải cân nhắc là việc doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù
hợp với loại hình sản xuất kinh doanh? Nguồn vốn tài trợ cho doanh nghiệp nên là
nguồn nào? Nhà quản trị sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày ra sao? Trên cơ sở
phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh toán, khả năng
cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lời, nhà quản trị có thể dự
đoán về kết quả hoạt động và mức lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó,
họ có thể đưa ra các quyết định đầu tư, phân chia lợi tức và lập kế hoạch kinh doanh.
Vì vậy, đối với nhà quản lý, phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng,
quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tƣ: Mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư là thời gian
hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính,
tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp.
Tại các Công ty cổ phần, cổ đông là những người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp
nên họ có thể sẽ phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ
phiếu trên thị trường, nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của
các nhà đầu tư khi đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt
được. Thông qua hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp, các cổ đông sẽ đưa ra
các tiên liệu về khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị của doanh
nghiệp trên thị trường. Trên cơ sở đó, nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định kinh doanh của
minh.
Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp: Nếu phân tích tài chính được các nhà
đầu tư và các nhà quản lý doanh nghiệp thực hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng
sinh lời và tăng trưởng của doanh nghiệp thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng
và các chủ thể cho vay vốn quan tâm, sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của
doanh nghiệp. Vì vậy, các chủ thể cho vay sẽ chú ý đặc biệt đến số lượng tiền và các
tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền của doanh nghiệp, từ đó so sánh với số nợ
4
Thang Long University Library
ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
các ngân hàng và các nhà cho vay cũng rất quan tâm tới số vốn đầu tư vào doanh
nghiệp của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm rủi ro cho họ trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản
chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn
hạn thì người cho vay đều cần phải phân tích tài chính doanh nghiệp để xác định mức
độ đáng tin cậy của doanh nghiệp trước khi tiến hành cho vay.
Đối với ngƣời lao động trong doanh nghiệp: Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà
quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người được hưởng lương trong doanh nghiệp
cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt
động của doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của
người lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia
góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định nên họ cũng là những người chủ doanh
nghiệp nên họ có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. Vì vậy, họ cũng cần
phân tích tài chính doanh nghiệp để hiểu rõ về doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết
định liên quan đến tương lai của mình.
Đối với cơ quan quản lý Nhà nƣớc: Dựa vào các báo cáo tài chính doanh
nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá,
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ, mức độ tuân
thủ chính sách, chế độ và luật pháp quy định của doanh nghiệp; tình hình hạch toán chi
phí, giá thành có tuân thủ theo đúng quy định của các chuẩn mực kế toán hiện hành,
tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp giúp người sử dụng thông
tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát vừa xem xét
một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm
yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự
báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.3. Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông
tin, từ thông tin nội bộ doanh nghiệp đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông
tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có
thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
1.2.3.1 Nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Những thông tin bên ngoài mà nhà phân tích cần lưu ý thu thập thông tin chung
bao gồm các thông tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về
kinh tế tại một thời điểm cho trước. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có
5
tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu
vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Khi cơ hội thuận lợi, các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi
nhuận của Công ty, giá trị của Công ty cũng tăng lên, và ngược lại. Khi phân tích tài
chính doanh nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ:
qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược lại. Đồng thời thu thập
thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành kinh doanh như thông tin
liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, và các sản phẩm của
ngành, tình trạng công nghệ, thị phần... và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với
doanh nghiệp: các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản
lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp...
1.2.3.2 Nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp
Những thông tin bên trong phục vụ cho quá trình phân tích tài chính bao gồm hệ
thống các báo cáo tài chính, chiến lược phát triển và tình hình quản lý doanh nghiệp.
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính, các nhà phân tích có thể sử dụng
thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng
bậc nhất. Các nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp được thể hiện trong các tài liệu sau
đây:
Báo cáo tài chính: Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp bao gồm 4 báo cáo
chính là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Cụ thể như sau:
Một, Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tài chính trình bày tóm tắt tình trạng Tài
sản - Nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Thông thường, bảng
cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán,
phần trên là phần Tài sản và phần dưới là phần Nguồn vốn. Các khoản mục trên bảng
cân đối kế toán được sắp xếp theo tính thanh khoản giảm dần. Bên tài sản bao gồm tài
sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Bên nguồn vốn bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và
vốn chủ sở hữu. Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài
sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ cho các tài sản đó phản ánh khả năng độc
lập về tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán giúp nhà phân tích nhận biết
được loại hình doanh nghiệp, quy mô và mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp, là
cơ sở đánh giá khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn
và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo phản ánh doanh thu,
chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp trong một thời kỳ. Báo cáo này cho biết sự dịch
6
Thang Long University Library
chuyển của tiền trong quá trình SXKD của doanh nghiệp và cho phép người phân tích
dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời, báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh còn cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết
quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý của doanh
nghiệp.
Ba, Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ: là báo cáo tổng hợp phản ánh khái quát tình hình
thu chi tiền mặt của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Để đánh giá khả năng chi
trả của doanh nghiệp, người phân tích cần xác định dòng tiền thực nhập quỹ và thực
xuất quỹ doanh nghiệp tại ba hoạt động chính của doanh nghiệp là hoạt động kinh
doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Trên cơ sở phân tích dòng tiền nhập quỹ
và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích sẽ thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ
đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó giúp nhà phân tích đánh giá được tình
hình thu chi tiền mặt trong năm của doanh nghiệp.
Bốn, Thuyết minh báo cáo tài chính: cung cấp các thông tin đầy đủ nhất về
tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời
giải thích nguồn gốc những con số cụ thể rõ ràng. Thuyết minh báo cáo tài chính bao
gồm bảy nội dung sau:
(1) Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp
(2) Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp
(3) Chi tiết một số chỉ tiêu trong BCTC
(4) Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động SXKD
(5) Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp
(6) Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới
(7) Các kiến nghị
Năm, Các báo cáo khác: ngoài các báo cáo tài chính thông thường, một số các
báo cáo khác được sử dụng để trợ giúp việc phân tích như báo cáo kiểm toán, báo cáo
tổng kết của ban giám đốc, các chi tiết bổ sung…
1.2.4. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp
nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và
chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Có rất nhiều phương pháp
phân tích tài chính khác nhau tuy nhiên các nhà phân tích thường ưu tiên sử dụng các
phương pháp chính dưới đây.
7
1.2.4.1 Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp chủ yếu, được sử dụng phổ biến nhất trong
phân tích tài chính để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi của chỉ
tiêu phân tích. Có nhiều phương thức so sánh khác nhau và việc sử dụng phương thức
nào sẽ tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của việc phân tích. Tuy nhiên, tựu chung lại,
các nhà phân tích thường tiến hành so sánh theo thời gian và không gian.
So sánh theo thời gian: Phân tích tài chính theo thời gian chia theo khoảng ngắn
hạn và dài hạn. Thời gian ngắn hạn thường được tính với mốc 3 năm liên tiếp. Phân
tích doanh nghiệp trong khoảng này giúp nhà phân tích nhìn ra được sự biến động tăng
hay giảm về số lượng tuyệt đối cũng như tương đối. Để có cái nhìn rõ hơn về xu
hướng cũng như xu thế hoạt động của doanh nghiệp, phân tích tài chính dài hạn trong
thời gian từ 5-10 năm sẽ đáp ứng được nhu cầu đó với việc phân tích cơ bản với các
chỉ tiêu như ROA, ROE, EPS…và đồ thị tương ứng các thời kì. Nhà phân tích khi tiến
hành so sánh theo thời gian có thể sử dụng các cách sau:
So sánh giữa số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực hiện với chỉ tiêu trong kế hoạch để thấy rõ mức độ hoàn
thành kế hoạch của doanh nghiệp.
So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so
sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt
đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
So sánh theo không gian: là việc nhà phân tích tiến hành so sánh giữa số liệu
của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, đạt hay chưa đạt. Bên cạnh đó,
nhà phân tích sẽ tiến hành phân tích doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp cạnh
tranh, từ đó định vị vị thế của doanh nghiệp.
1.2.4.2 Phương pháp tỷ số (phương pháp tỷ lệ)
Phương pháp tỷ số là phương pháp truyền thống thường được áp dụng phổ biến
trong phân tích tài chính. Theo phương pháp này, các tỷ số tài chính được phân thành
các nhóm tỷ số đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động
của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, về năng lực hoạt động
kinh doanh, về khả năng sinh lời... Mỗi nhóm tỷ số lại bao gồm nhiều tỷ số phản ánh
riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau. Tuỳ
theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục
vụ mục tiêu phân tích của mình. Phân tích tỷ số cho phép nhà phân tích so sánh dọc giữa
8
Thang Long University Library
các ngành cùng năm và phân tích so sánh ngang giữa các năm hoặc phân tích chỉ tiêu
theo mục đích riêng.
1.2.4.3 Phương pháp loại trừ
Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng lần lượt của từng
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Các nhân tố bao gồm nhân tố làm tăng hoặc làm giảm,
nhân tố khách quan hoặc những nhân tố chủ quan, nhân tố tích cực hoặc nhân tố tiêu
cực… Việc nhận thức được mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ
tiêu phân tích là vấn đề bản chất của phương pháp này. Phương pháp loại trừ có thể
được thực hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất dựa vào sự ảnh hưởng trực tiếp của từng
nhân tố, gọi là “Phương pháp số chênh lệch”. Cách thứ hai được tiến hành bằng cách
thay thế sự ảnh hưởng lần lượt của từng nhân tố, gọi là “Phương pháp thay thế liên
hoàn”. Nội dung cụ thể của phương pháp này như sau:
Phƣơng pháp số chênh lệch: Phương pháp số chênh lệch là phương pháp dựa
vào sự ảnh hưởng trực tiếp của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Bởi vậy, trước hết
nhà phân tích cần biết được số lượng các chỉ tiêu nhân tố ảnh hưởng, mối quan hệ giữa
các chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định công thức lượng hoá sự ảnh
hưởng của nhân tố đó. Tiếp đó, nhà phân tích phải sắp xếp theo trình tự xác định ảnh
hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, tức là nhân tố số lượng xếp trước, nhân
tố chất lượng xếp sau. Trong trường hợp có nhiều nhân tố số lượng và chất lượng thì
nhân tố chủ yếu xếp trước, nhân tố thứ yếu xếp sau.
Phƣơng pháp thay thế liên hoàn: Sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn là
việc nhà phân tích tiến hành thay thế lần lượt từng nhân tố theo một trình tự nhất định
và xác định mức độ ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu phân tích. Như vậy là một chỉ
tiêu phân tích có bao nhiêu nhân tố ảnh hưởng thì sẽ có bấy nhiêu nhân tố phải thay
thế. Cuối cùng, nhà phân tích sẽ tiến hành tổng hợp sự ảnh hưởng của tất cả các nhân
tố bằng một phép cộng đại số. Kết quả của phép cộng đại số này cũng chính bằng đối
tượng cụ thể của phân tích đã được xác định ở trên.
Phƣơng pháp liên hệ cân đối: Cơ sở của phương pháp này là sự cân bằng về
lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Dựa vào nguyên lý cân
bằng nói trên, nhà phân tích có thể xây dựng phương pháp phân tích mà trong đó các
nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng là tổng số hoặc
hiệu số. Để xác định sự ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu
phân tích thì nhà phân tích cần tính toán mức chênh lệch của từng nhân tố giữa hai kỳ
(kỳ thực tế so với kỳ kế hoạch hoặc kỳ thực tế so với các kỳ kinh doanh trước), giữa
các nhân tố mang tính chất độc lập.
9
Phƣơng pháp phân tích Dupont
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường sử dụng mô hình Dupont để
phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính, từ đó chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng
đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự logic chặt chẽ. Mô hình Dupont có dạng:
Mô hình phân tích Dupont được biểu hiện bằng sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Mô hình phân tích tài chính Dupont
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
(ROS)
LNST
Doanh
thu thuần
Doanh thu
thuần
Vòng quay tổng
tài sản
Doanh thu
thuần
Tổng chi
phí
Chi phí sản
xuất
Tổng tài
sản
Tài sản
ngắn hạn
Vốn vật tư
hàng hoá
Chi phí ngoài
sản xuất
Tài sản
dài hạn
Vốn bằng
tiền, phải thu
(Nguồn: PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính,
ĐHKTQD, NXB Tài chính, năm 2013, trang 41)
10
Thang Long University Library
Mô hình trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời từ tài sản, nhà quản trị cần
xem xét các biện pháp nâng cao khả năng sinh lời doanh thu và vòng quay tài sản. Cụ
thể:
Tỷ suất sinh lời của doanh thu thuần phụ thuộc vào hai nhân tố là lợi nhuận sau
thuế và doanh thu thuần. Hai nhân tố này có mối quan hệ cùng chiều, nghĩa là nếu
doanh thu thuần của doanh nghiệp tăng thì lợi nhuận sau thuế cũng tăng và ngược lại.
Để tăng doanh thu thuần, ngoài việc phải giảm các khoản giảm trừ doanh thu, mở rộng
thị phần, doanh nghiệp phải tăng cường kiểm soát chi phí sản xuất, áp dụng các biện
pháp hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải nâng cao chất
lượng sản phẩm để tăng giá bán, góp phần nâng cao mức tổng lợi nhuận.
Để nâng cao vòng quay tổng tài sản, doanh nghiệp cần phải khai thác tối đa công
suất của các tài sản đã đầu tư, giảm bớt hàng tồn kho, chi phí sản xuất dở dang.
Mô hình phân tích tài chính Dupont có ý nghĩa rất lớn đối với quản trị doanh
nghiệp. Thứ nhất, mô hình này giúp các nhà phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp một cách sâu sắc và toàn diện. Thứ hai, thông qua mô hình này, nhà
phân tích đánh giá được sự ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Từ đó, các nhà quản trị có thể đưa ra các biện pháp xác thực nhằm cải
thiện tình hình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ở các kỳ
kinh doanh tiếp theo.
1.2.4.4 Phương pháp đồ thị
Đồ thị là phương pháp phản ánh trực quan các số liệu dưới dạng biểu đồ hoặc đồ
thị qua đó mô tả xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích hoặc thể hiện mối
quan hệ kết cấu của các bộ phận trong một tổng thể nhất định. Như vậy, phương pháp
đồ thị có tác dụng minh hoạ kết quả đã tính toán được bằng biểu đồ hay đồ thị, giúp
cho việc đánh giá bằng trực quan, thể hiện rõ ràng và mạch lạc diễn biến của chỉ tiêu
phân tích qua từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, nhà phân tích xác định rõ những nguyên
nhân biến động của chỉ tiêu phân tích và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Phương pháp đồ thị có thể phản ánh dưới những
góc độ sau:
Biểu thị quy mô (độ lớn) các chỉ tiêu phân tích qua thời gian hoặc biểu hiện tốc
độ tăng trưởng của chỉ tiêu phân tích qua thời gian.
Biểu hiện mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích với các chỉ tiêu nhân tố.
1.2.5. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp được thực hiện qua 5 bước là xác
định mục tiêu phân tích, xác định nội dung cần phân tích, thu thập dữ liệu phân tích,
xử lý dữ liệu phân tích và tổng hợp kết quả phân tích.
11
Sơ đồ 1.2. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
(Nguồn: TS Phạm Thị Thuỷ & ThS Nguyễn Thị Lan Anh, Báo cáo tài chính Phân tích, dự báo và đánh giá, NXB ĐHKTQD, năm 2013, trang 114)
Bƣớc 1, xác định mục tiêu phân tích: Bước đầu tiên trong quy trình phân tích
tài chính là xác định mục tiêu phân tích. Đây là công việc quan trọng, quyết định tới
chất lượng của báo cáo phân tích và tác động tới mức độ hài lòng của các đối tượng sử
dụng báo cáo phân tích. Việc xác định mục tiêu phân tích phụ thuộc vào mục đích ra
quyết định tài chính của từng đối tượng khác nhau.
Bƣớc 2, Xác định nội dung cần phân tích: Sau khi xác định mục tiêu phân tích,
nhà phân tích sẽ xác định các nội dung cần phân tích để đạt được các mục tiêu đó.
Việc xác định đúng nội dung cần phân tích (không thừa, không thiếu) sẽ bảo đảm cung
cấp những thông tin hữu ích nhất cho các đối tượng sử dụng để ra quyết định hợp lý.
Bƣớc 3, thu thập dữ liệu phân tích Căn cứ vào nội dung cần phân tích, nhà
phân tích sẽ tiến hành thu thập dữ liệu phân tích. Các dữ liệu phân tích có thể ở bên
trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp. Để đảm bảo cho tính hữu ích của dữ liệu thu thập
được, nhà phân tích cần kiểm tra tính tin cậy của dữ liệu. Nhà phân tích nên tiếp cận
các dữ liệu có nguồn hợp pháp (được các cấp có thẩm quyền phê duyệt) để nâng cao
mức độ tin cậy của dữ liệu.
Bƣớc 4, xử lý dữ liệu phân tích: Sau khi thu thập được dữ liệu, nhà phân tích sẽ
sử dụng các phương pháp hợp lý để xử lý dữ liệu theo các nội dung phân tích đã xác
định. Dữ liệu sau khi được xử lý sẽ là nguồn thông tin hữu ích để nhà phân tích nhận
định tổng quát cũng như chi tiết thực trạng vấn đề phân tích, lý giải nguyên nhân của
các thực trạng đó và đề xuất kiến nghị cho các đối tượng sử dụng báo cáo phân tích.
Bƣớc 5, tổng hợp kết quả phân tích: Tổng hợp các kết quả phân tích là bước
cuối cùng, kết thúc quá trình phân tích tài chính. Trong bước này, nhà phân tích viết
báo cáo về kết quả phân tích gửi tới các đối tượng sử dụng. Các hạn chế của kết quả
phân tích (như không đủ dữ liệu phân tích) cũng cần được công bố trong báo cáo phân
tích.
12
Thang Long University Library
1.2.6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.6.1 Phân tích bảng cân đối kế toán
Phân tích bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tập trung vào việc phân tích
tình hình tài sản, nguồn vốn và phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn
vốn của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài sản của doanh nghiệp:
Công việc đầu tiên mà nhà phân tích cần làm khi phân tích tình hình tài sản
doanh nghiệp là tiến hành so sánh quy mô tổng tài sản để thấy được sự biến động của
tổng tài sản giữa các thời điểm, từ đó nắm được tình hình đầu tư của doanh nghiệp.
Sau đó, nhà phân tích tiến hành đánh giá cơ cấu tổng tài sản thông qua việc tính toán
tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản, qua đó nhận xét về mức độ phù hợp
của cơ cấu tài sản với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ trọng của từng bộ
phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản được xác định như sau:
Bước tiếp theo của quá trình phân tích tình hình tài sản là việc so sánh mức tăng,
giảm của các chỉ tiêu tài sản trên bảng cân đối kế toán thông qua số tuyệt đối và tương
đối giữa cuối kì với đầu kì hoặc nhiều thời điểm liên tiếp (năm trước với các năm sau).
Bước này giúp nhà phân tích nhận biết các nhân tố ảnh hưởng và xác định mức độ ảnh
hưởng đến sự biến động về cơ cấu tài sản. Từ đây, nhà phân tích có thể đưa ra các
nhận xét về quy mô từng khoản mục thành phần của tài sản là tăng hay giảm, đồng
thời lý giải cho sự biến động tăng hoặc giảm đó cũng như phân tích ảnh hưởng của
biến động này đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Phân tích tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp
Việc phân tích tình hình nguồn vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích tình
hình tài sản. Đầu tiên, nhà phân tích cần tính toán và so sánh tình hình biến động giữa
các kỳ (năm) với nhau. Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn được xác định như sau:
Sau đó, nhà phân tích tiếp tục tiến hành phân tích theo chiều ngang, tức là so
sánh sự biến động giữa các thời điểm của các chỉ tiêu nguồn vốn trên bảng cân đối kế
toán, qua đó biết được tình hình huy động vốn, nắm được các nhân tố ảnh hưởng và
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của cơ cấu nguồn vốn.
13
Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Các tài sản trong doanh nghiệp được chia thành 2 loại TSNH và TSDH. Để hình
thành nên 2 loại tài sản này, doanh nghiệp phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng,
bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời
gian dưới một năm, gồm các khoản nợ ngắn hạn, các khoản chiếm dụng vốn của nhà
cung cấp, người lao động hay Nhà nước và các khoản nợ phải trả ngắn hạn khác.
Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động
kinh doanh, bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản vay nợ trung, dài hạn và các
khoản phải trả dài hạn khác.
Để phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, nhà phân tích
thường sử dụng chỉ tiêu vốn lưu động ròng. Vốn lưu động ròng là sự chênh lệch giữa
TSNH và nguồn vốn ngắn hạn của doanh nghiệp, cụ thể:
Vốn lưu động ròng (VLĐR = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn)
VLĐR dƣơng: phản ánh doanh nghiệp đang sử dụng toàn bộ nguồn vốn ngắn
hạn và một phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho TSNH. Điều này làm giảm rủi ro
thanh toán nhưng đồng thời cũng làm giảm khả năng sinh lời vì chi phí tài chính mà
doanh nghiệp phải bỏ ra cao.
VLĐR âm: hàm ý rằng doanh nghiệp phải sử dụng toàn bộ nguồn vốn dài hạn và
một phần nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho TSDH. Tuy giảm được chi phí tài chính
do chi phí huy động vốn thấp song doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro thanh toán
cao.
VLĐR bằng 0: đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang sử dụng chiến lược quản
lý vốn dung hòa, dùng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho TSNH và nguồn vốn dài hạn tài
trợ cho TSDH. Điều này vừa đảm bảo khả năng sinh lời, lại vừa hạn chế rủi ro thanh
toán cho doanh nghiệp.
1.2.6.2 Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Khi phân tích BCKQKD, nhà phân tích có thể phân tích tình hình kinh doanh nói
chung của doanh nghiệp qua 3 mục lớn về là doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
Phân tích tình hình doanh thu
Đầu tiên, nhà phân tích cần lần lượt so sánh các chỉ tiêu về doanh thu bán hàng
và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác thông qua số
tuyệt đối và tương đối giữa kỳ này và kỳ trước hoặc nhiều kỳ với nhau, qua đó rút ra
nhận xét về tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ thường có quy mô lớn nhất và cũng là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tổ
14
Thang Long University Library
chức sản xuất, phân phối, bán hàng của doanh nghiệp. Phân tích tình hình doanh thu
giúp các nhà quản trị thấy được ưu, nhược điểm trong quá trình tạo doanh thu và xác
định các yếu tố làm tăng, giảm doanh thu, từ đó loại bỏ hoặc giảm tác động của các
yếu tố tiêu cực, đẩy mạnh và phát huy yếu tố tích cực của doanh nghiệp nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phân tích tình hình chi phí
Tất cả các khoản chi phí đều là dòng tiền ra của doanh nghiệp. Giá vốn hàng bán
thường là khoản chi phí lớn nhất trong doanh nghiệp. Do đó việc kiểm soát giá vốn
hàng bán thông qua việc theo dõi và phân tích từng bộ phận cấu thành của nó là rất có
nghĩa đối với các nhà quản trị. Bởi lẽ, việc giảm tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu
sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Ngoài ra, chi
phí lãi vay cũng là khoản mục cần chú trọng trong phân tích vì nó phản ánh tình hình
công nợ của doanh nghiệp. Như vậy, nếu chi phí bỏ ra quá lớn hoặc tốc độ tăng của
chi phí lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu thì tức là doanh nghiệp đang sử dụng nguồn
lực không hiệu quả. Qua việc phân tích tình hình chi phí có thể giúp ban lãnh đạo giảm
thiểu được chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phân tích tình hình lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình SXKD của bất kỳ
doanh nghiệp nào. Lợi nhuận cao cho thấy doanh nghiệp hoạt động tốt, ít rủi ro và
ngược lại. Thông qua phân tích mối quan hệ giữa tổng doanh thu, tổng chi phí và lợi
nhuận đạt được của doanh nghiệp, nhà phân tích sẽ đánh giá được chính xác hiệu quả
kinh doanh và khả năng sinh lời cho chủ sở hữu.
Sau cùng, kết hợp những nhận xét và đánh giá rút ra từ ba phần doanh thu, chi
phí và lợi nhuận, nhà phân tích sẽ có thể thấy được xu hướng biến động của kết quả
SXKD và đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp nhất.
1.2.6.3 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong những báo cáo tài chính tổng hợp phản
ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh sau một kỳ hoạt động của doanh
nghiệp. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ tập trung vào ba luồng tiền chính là lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư
và lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính.
Trường hợp lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh âm (thu < chi), điều
này thể hiện quy mô đầu tư của doanh nghiệp mở rộng, vì đây là kết quả của số tiền
chi ra để mua nguyên vật liệu dự trữ hàng tồn kho, chi thường xuyên… Nếu lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh dương thì ngược lại.
15
Trường hợp lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư âm (thu < chi), điều này
thể hiện quy mô đầu tư của doanh nghiệp mở rộng, vì đây là kết quả của số tiền chi ra
để đầu tư tài sản cố định, góp vốn liên doanh… Nếu lưu chuyển tiền thuần từ hoạt
động đầu tư dương thì ngược lại.
Trường hợp lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính âm (thu < chi), điều này
thể hiện quy mô đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp mở rộng, vì đây là kết quả của
số tiền doanh nghiệp chi ra để mua cổ phiếu, chi trả nợ gốc vay… Nếu lưu chuyển tiền
thuần từ hoạt động tài chính dương thì ngược lại.
Nếu luồng tiền từ hoạt động kinh doanh lớn hơn hai luồng tiền còn lại tức là hoạt
động mang lại tiền chủ yếu cho doanh nghiệp là tiền từ hoạt động inh doanh. Việc
phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định xu
hướng tạo ra tiền của các hoạt động trong doanh nghiệp và làm tiền đề cho việc lập dự
toán tiền trong kỳ kinh doanh tới.
1.2.6.4 Phân tích các chỉ tiêu tài chính
1) Phân tích khả năng thanh toán
Phân tích KNTT là việc đánh giá khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền nhằm
thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các chủ nợ khi đến hạn thanh toán. Chủ nợ của doanh
nghiệp có thể là ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn, các trái chủ (đối tượng mua trái
phiếu của doanh nghiệp) hoặc các chủ nợ liên quan đến hoạt động kinh doanh hàng
ngày của doanh nghiệp (khách hàng, nhà cung cấp vật tư, người lao động…). Chính vì
lẽ đó, các chủ nợ là những đối tượng đầu tiên quan tâm tới KNTT của doanh nghiệp.
Các ngân hàng phân tích KNTT của doanh nghiệp để đánh giá khả năng thu hồi
đúng hạn, trễ hạn hay không có khả năng thu hồi các khoản lãi vay và gốc cho vay của
mình. Khách hàng và nhà cung cấp cần phân tích KNTT của doanh nghiệp để đánh giá
khả năng thực hiện các điều khoản đã kí kết thực hiện trên hợp đồng. KNTT kém có
thể dẫn tới việc không tuân thủ hợp đồng đã kí kết và có thể ảnh hưởng tới mối quan
hệ giữa doanh nghiệp và các đối tác kinh doanh. Phân tích KNTT cũng rất có ích đối
với các chủ sở hữu doanh nghiệp. KNTT kém là dấu hiệu của việc mất quyền kiểm
soát hoặc thất thoát vốn đầu tư trong tương lai. Đối với các Công ty tư nhân hoặc các
Công ty hợp danh, chủ sở hữu chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của đơn vị
thì KNTT kém còn đe dọa ảnh hưởng tới tài sản của chủ sở hữu. Do KNTT quan trọng
đối với các chủ nợ và chủ sở hữu nên cũng rất quan trọng đối với các nhà quản trị
doanh nghiệp. Bởi lẽ các nhà quản trị được trao nhiệm vụ điều hành hoạt động của
doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp tăng trưởng nhưng vẫn phải đảm bảo KNTT tốt.
16
Thang Long University Library
Các khoản nợ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: nợ ngắn hạn và nợ dài
hạn nên công việc phân tích KNTT của doanh nghiệp cũng được chia thành hai nội
dung là phân tích KNTT ngắn hạn và phân tích KNTT dài hạn.
Bảng 1.1: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh
nghiệp
Chỉ tiêu
Công thức
Hệ số KNTT hiện thời
Hệ số KNTT nhanh
Hệ số KNTT tức thời
Hệ số KNTT hiện thời (current ratio): cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp sẵn sàng được bù đắp bằng bao nhiêu đồng TSNH. Vì vậy, đây là chỉ tiêu phản
ánh tổng quát nhất khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện khả năng các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp sẽ được thanh toán kịp thời. Nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1, TSNH không
đủ bù đắp cho nợ ngắn hạn, thể hiện doanh nghiệp đang gặp rủi ro, không có KNTT nợ
ngắn hạn. Xét về lý thuyết, chỉ tiêu này bằng 1 thể hiện TSNH của doanh nghiệp vừa
đủ bù đắp các khoản nợ ngắn hạn, nghĩa là doanh nghiệp có KNTT nợ ngắn hạn. Tuy
nhiên, trong thực tế nếu chỉ tiêu này chỉ ở mức bằng 1 thì KNTT của doanh nghiệp vẫn
rất mong manh. Nhà phân tích do vậy cần so sánh chỉ tiêu này giữa các kì và với các
doanh nghiệp khác cùng ngành hoặc trung bình ngành để đánh giá KNTT nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp vì trên thực tế không có một mức chuẩn cho độ lớn của chỉ tiêu này.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh (quick ratio): thể hiện khả năng bù đắp nợ
ngắn hạn bằng các TSNH có thể chuyển đồi nhanh thành tiền. Tử số của công thức
tính hệ số KNTT nhanh chênh lệch với tử số của công thức tính hệ số KNTT hiện thời
thành phần hàng tồn kho. Các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền bao gồm: (1)
tiền và các khoản tương đương tiền ở trạng thái sẵn sàng được sử dụng để thanh toán
nợ, (2) các khoản đầu tư ngắn hạn có thể chuyển nhượng nhanh chóng để có tiền thanh
toán nợ và (3) các khoản phải thu khách hàng cũng có thể sử dụng dịch vụ bao thanh
toán (factoring) của các ngân hàng thương mại để chuyển đổi nhanh chóng thành tiền.
Khoản mục hàng tồn kho do không thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt nên không
có trong chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán nhanh. Tương tự như chỉ tiêu hệ số KTNN
hiện thời, chỉ tiêu KNTT nhanh của doanh nghiệp càng cao thể hiện khả năng các
17
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng các tài sản có khả năng chuyển đổi thành
tiền nhanh chóng càng tốt.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời: thể hiện khả năng bù đắp nợ ngắn hạn
bằng số tiền hiện đang có của doanh nghiệp. Do tiền có tầm quan trọng đặc biệt quyết
định tính thanh khoản nên chỉ tiêu này được sử dụng nhằm đánh giá khắt khe khả năng
thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp.
2) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
Phân tích hiệu quả hoạt động trong thực tế chủ yếu sử dụng tỷ số hoạt động, còn
được gọi là tỷ số quản lý tài sản hay tỷ số hiệu quả hoạt động. Nhóm tỷ số này đo lường
hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp và được thiết kế bao gồm các tỷ số sau.
Bảng 1.7: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
Chỉ tiêu
Công thức
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân
Vòng quay hàng tồn kho
Thời gian quay vòng hàng tồn kho
Vòng quay các khoản phải trả
Kỳ trả tiền bình quân
Thời gian quay vòng của tiền
Kỳ thu tiền bình quân + Thời gian quay
vòng hàng tồn kho - Kỳ trả tiền bình quân
Vòng quay các khoản phải thu cho biết trong kỳ kinh doanh, các khoản phải thu
của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh
nghiệp thu hồi nợ kịp thời và ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, khi chỉ tiêu này của
doanh nghiệp quá cao thì tức là phương thức thanh toán tiền, chính sách tín dụng của
doanh nghiệp quá chặt chẽ, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng hàng tiêu thụ.
Ngược lại, nếu chỉ tiêu vòng quay khoản phải thu quá thấp thì tức là chính sách bán
chịu của doanh nghiệp hiện tại là không hiệu quả, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
18
Thang Long University Library
Kỳ thu tiền bình quân hay thời gian quay vòng khoản phải thu cho biết bình
quân doanh nghiệp mất bao nhiêu ngày để thu hồi một khoản phải thu. Chỉ tiêu này
càng ngắn, chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ từ khách hàng càng nhanh, doanh nghiệp ít bị
chiếm dụng vốn. Ngược lại, kỳ thu tiền bình quân càng dài chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền
càng chậm, doanh nghiệp có nguy cơ bị chiếm dụng nhiều vốn. Vòng quay khoản phải
thu càng cao thì kỳ thu tiền bình quân càng thấp và ngược lại.
Vòng quay hàng tồn kho cho biết số lần bình quân mà hàng tồn kho luân chuyển
trong kỳ hay thời gian hàng hóa nằm trong kho trước khi được bán ra. Hệ số này cao
cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh, tức là doanh nghiệp bán
hàng thuận lợi và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Tuy nhiên, hệ số này quá cao
cũng không tốt vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự trữ trong kho của doanh nghiệp
không nhiều, trường hợp nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì có khả năng doanh
nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần do không có hàng để
cung ứng. Đồng thời, nếu dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho khâu sản xuất không đủ
có thể khiến dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ. Bên cạnh đó, nếu số
vòng quay hàng tồn kho thấp chứng tỏ hàng tồn kho của doanh nghiệp ứ đọng nhiều,
sản phẩm không tiêu thụ được dẫn đến tình thế khó khăn về tài chính của doanh
nghiệp trong tương lai. Vì vậy, số vòng quay hàng tồn kho cần phải phù hợp để đảm
bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho cho biết khoảng thời gian cần thiết để doanh
nghiệp có thể tiêu thụ được hết số lượng hàng tồn kho của mình (bao gồm cả hàng hoá
còn đang trong quá trình sản xuất). Chỉ số này càng lớn càng bộc lộ những yếu kém
của doanh nghiệp trong khâu tiêu thụ hàng hóa hoặc đình trệ về nguyên vật liệu cho
sản xuất. Thông thường nếu chỉ số này ở mức thấp sẽ cho thấy doanh nghiệp hoạt
động khá tốt. Tuy nhiên, ở mức nào là thấp, mức nào là cao thì nhà phân tích cần so
sánh tương ứng chỉ tiêu này của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác trong ngành
để đưa ra kết luận.
Vòng quay các khoản phải trả phản ánh khả năng chiếm dụng vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp đối với nhà cung cấp, người lao động và cơ quan Nhà nước. Nếu số
vòng quay các khoản phải trả năm nay nhỏ hơn năm trước chứng tỏ doanh nghiệp
chiếm dụng vốn trong thời gian dài hơn và thanh toán chậm hơn năm trước. Ngược lại,
nếu chỉ tiêu này của năm nay lớn hơn năm trước chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng
vốn trong thời gian ngắn hơn và thanh toán nhanh hơn năm trước. Việc chiếm dụng
vốn của các chủ thể khác có thể sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí về vốn, đồng
thời thể hiện uy tín trong quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và sự tín nhiệm của
người lao động. Tuy nhiên, cũng cần lưu rằng nếu số vòng quay các khoản phải trả quá
19
nhỏ (các khoản phải trả lớn) sẽ tiềm ẩn rủi ro về khả năng thanh khoản và có thể ảnh
hưởng không tốt đến xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp.
Kỳ trả tiền bình quân là chỉ tiêu thể hiện số ngày trung bình mà doanh nghiệp
cần để trả tiền cho nhà cung cấp. Hệ số này thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
nhà cung cấp. Hệ số này cao tức là doanh nghiệp có quan hệ tốt với nhà cung cấp và
có khả năng kéo giãn thời gian trả tiền cho người bán. Ngược lại hệ số này thấp nghĩa
là doanh nghiệp phải trả tiền cho người bán trong thời gian ngắn sau khi nhận hàng mà
không được ưu đãi về các điều khoản thanh toán.
Thời gian quay vòng của tiền cho biết một đồng mà doanh nghiệp chi ra thì trung
bình bao nhiêu ngày thu hồi lại được. Hệ số này càng cao chứng tỏ lượng tiền mặt của
doanh nghiệp càng khan hiếm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cho các hoạt động
khác như đầu tư. Nếu hệ số này nhỏ thì tức là khả năng quản lý vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp tốt. Tuy nhiên khi phân tích chỉ tiêu này, nhà phân tích cũng cần chú ý tới đặc điểm
lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp để đưa ra được nhận định chính xác nhất.
3) Phân tích đòn bẩy tài chính
Vay nợ dài hạn là một thành phần quan trọng trong các nguồn huy động vốn cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên khả năng thanh toán gốc vay nợ dài hạn
gắn liền với cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để
phân tích khả năng thanh toán gốc vay nợ dài hạn gắn liền với việc phân tích cấu trúc
tài chính của doanh nghiệp.
Bảng 1.2 Các chỉ tiêu đánh giá KNTT gốc vay nợ dài hạn
Chỉ tiêu
Công thức
Hệ số nợ
Hệ số nợ phải trả / vốn chủ sở hữu
Hệ số thanh toán của TSDH đối với nợ dài hạn
Khả năng thanh toán lãi vay
Các chỉ tiêu hệ số nợ hay hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu đều thể hiện mức
độ rủi ro tài chính mà các chủ nợ phải gánh chịu. Nếu hệ số nợ và hệ số nợ phải
trả/vốn chủ sở hữu cao thể hiện mức độ rủi ro tài chính lớn, tức là KNTT gốc nợ vay
dài hạn của doanh nghiệp là kém. Bên cạnh việc thể hiện mức độ rủi ro tài chính, các
chỉ tiêu này còn thể hiện khả năng bảo vệ các chủ nợ trong trường hợp doanh nghiệp
mất KNTT (bị phá sản).
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -