CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập tại trường Đại học Thuỷ sản Nha Trang em đã
tiếp nhận được những kiến thức vô cùng quý báu giúp ích cho em trong quá
trình học tập và công tác thực tế. Nhờ sự tận tâm và nhiệt tình của các thày cô
giáo đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu chỉ bảo, hướng dẫn và
giúp đỡ em trong quá trình học tập;
Qua đây em xin gửi đến quý thày, cô giáo trường Đại học Thuỷ sản
Nha Trang lời biết ơn chân thành nhất về những gì thày cô đã dạy bảo cho
em;
Em xim chân thành biết ơn cô giáo Phạm Thị Thanh Bình và thày giáo
Lê Kim Long, cô giáo Nguyễn Thị Kim Anh, về sự tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn của thày cô để em hoàn thành đề tài này;
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, phòng tài chính kế toán,
phòng Tổ chức hành chính công ty Nguyên liệu thuốc lá Bắc đã giúp đỡ tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài tốt nghiệp
này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2005
SVTT: Nguyễn Thị Bích Hiền
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
1
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế nước ta đã từng bước ổn định, phát triển và ra
nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang
chuyển biến không ngừng đổi mới trong quản lý, để cạnh tranh, tồn tại và
phát triển. Sự phát triển của các Doanh nghiệp đóng một vai trò quyết định
vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, bởi mỗi Doanh nghiệp là một tế
bào của nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển thì trước hết Doanh nghiệp phải tự chủ xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh cũng như tự hạch toán kinh doanh đảm bảo kinh doanh có hiệu
quả và đảm bảo đời sống không ngừng được cải thiện cho cán bộ công nhân
viên trong Doanh nghiệp. Do vậy mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý
là vấn đề quản trị tài chính doanh nghiệp, mà một trong những nội dung quan
trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp là việc kiểm tra giám sát một cách
thường xuyên, thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Và để làm tốt điều
đó bắt buộc Doanh nghiệp phải thực hiện phân tích đánh giá tình hình tài
chính của mình một cách thật chi tiết, khoa học để từ đó Doanh nghiệp có kế
hoạch, định hướng và hoạt động có hiệu quả hơn. Vì chỉ trên cơ sở phân tích
tài chính thì Doanh nghiệp mới đánh giá được hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh trong kỳ, thấy được những trọng điểm quản lý của công tác quản
lý tài chính để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả hoạt động của mình.
Hơn nữa việc phân tích tình hình tài chính không những đáp ứng nhu
cầu cần thiết về quản trị nội bộ mà đồng thời sẽ giúp cho các nhà đầu tư , các
tín chủ có được những thông tin hữu ích về tài chính của doanh nghiệp, để từ
đó họ có những quyết định đúng đắn trong việc đầu tư cho vay.
Mặt khác, sự xuất hiện của thị trường chứng khoán ở Việt Nam tạo cho các
nhà doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội trong việc tìm nguồn tài trợ từ các nhà
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
2
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đầu tư. Khi đó việc phân tích tình hình tài chính ở các doanh nghiệp sẽ trở nên
quan trọng hơn, nó giúp cho các nhà đầu tư thấy được tình hình tài chính của
doanh nghiệp mà họ muốn đầu tư có được lành mạnh hay không từ đó họ mới
có dủ tin cậy để đầy tư.
Từ những vấn đề nêu trên cùng với những kiến thức đã học và qua thời
gian tìm hiểu thực tế về tình hình quản lý tài chính của doanh nghiệp, rõ ràng
phân tích tài chính của doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết
trong hoạt động sản xuất kinh doanh đang được Ban lãnh đạo Công ty đặc
biệt quan tâm.
Với những lý do trên, tôi đã chon đề tài “Phân tích tình hình tài chính”
tại Công ty Nguyên liệu thuốc lá Bắc để thấy dược những thuận lợi, khó khăn
về tài chính của Công ty. Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và
tăng cường tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty
trong năm kế tiếp.
Nội dung kết cấu của chuyên đề:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính Doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tài chính của
Công ty Nguyên liệu thuốc lá Bắc.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý tài chính tại Công ty Nguyên liệu thuốc lá Bắc.
Việc đánh giá tình hình tài chính Doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp
và nhạy cảm, nó phụ thuộc rất nhiều vào ý kiến chủ quan của người đánh giá.
Mặt khác với nhận thức và thời gian hạn chế nên bài viết của tôi không thể
tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự chỉ bảo của các thày cô giáo và ý
kiến đóng góp của các bạn để nội dung khoá luận của tôi được hoàn thiện
hơn.
Hà nội, ngày
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
3
tháng
năm 2005
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Bích Hiền
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH QUẢN TRỊ
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1-TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1- Tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp
-Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức
giá trị phát sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội, gắn liền với quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp để phục vụ yêu
cầu SX-KD của doanh nghiệp và nhu cầu chung của xã hội.
Để đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn, doanh nghiệp cần
phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất và vận hành quá trình
trao đổi. Mọi quyết định phải gắn liền với luật pháp và sự hiểu biết về môi
trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế phức
tạp và luôn biến động, doanh nghiệp phải làm chủ được và dự đoán trước sự
thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Trong môi trường đó,
toàn bộ quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp từ khi ứng
vốn tiền tệ cho đến khi doanh nghiệp có nguồn tài chính và phân phối nguồn
tài chính đó đã nảy sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị.
Những quan hệ kinh tế đó là:
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước thể hiện: tất cả
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nộp thuế, phí và lệ phí,
nộp bảo hiểm cho NSNN và NSNN thực hiện tài trợ vốn dưới nhiều hình thức
khác nhau trong những trường hợp cần thiết như cấp vốn (vốn ban đầu, vốn
bổ sung) đối với doanh nghiệp nhà nước, cho doanh nghiệp vay hoặc các
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
4
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
khoản trợ giá, góp vốn liên doanh hoặc tham gia mua cổ phần, thu lợi nhuận
từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường: bao gồm thị
trường tài chính, thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động… ở đây bao
gồm các quan hệ thanh toán tiền mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ, tiền công
lao động, tiền mua bán cổ phiếu, trái phiếu, tiền vay, tiền bồi thường rủi ro,
tiền bảo hiểm.
+ Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: biểu hiện là sự luân
chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đó là quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa các Cổ đông và nhà quản lý, giữa quyền sử dụng và sở
hữu vốn, khoản tiền lương, tiền công cho người lao động, cấp phát điều hoà
vốn, phân phối thu nhập giữa các bộ phận trong doanh nghiệp.
Các quan hệ kinh tế nêu trên phản ánh sự vận động của vốn tiền tệ phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh và phân phối các nguồn tài chính
trong và ngoài doanh nghiệp và luôn gắn liền với việc tạo lập cũng như việc
sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định
tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt
động tài chính của doanh nghiệp, đó là tối đa hoá lợi nhuận và không ngừng
làm tăng giá trị doanh nghiệp trên thị trường.
Quản trị tài chính doanh nghiệp gắn liền với việc phân tích, xử lý và tổ
chức các quan hệ tài chính, nhằm đảm bảo cho các quan hệ tài chính diễn ra
một cách trôi chảy. Đó cũng là quá trình hình thành và sử dụng các công cụ
tài chính để đạt được mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp. Quản trị tài
chính doanh nghiệp là một bộ phận của quản trị doanh nghiệp có quan hệ chặt
chẽ với quản trị doanh nghiệp, giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác
quản trị doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
5
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều vấn đề tài chính
nảy sinh đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra các quyết định tài chính đúng
đắn và tổ chức thực hiện các quyết định kịp thời và có khoa học. Vì chỉ có
như vậy doanh nghiệp mới phát triển ổn định.
Trong công tác quản lý nhà quản trị tài chính phải trả lời được những câu
hỏi:
- Đầu tư vốn vào đâu và đầu tư như thế nào cho phù hợp với lĩnh vực kinh
doanh và đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
- Nguồn vốn được huy động từ đâu, vào thời điểm nào để đảm bảo sử
dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
- Lợi nhuận của doanh nghiệp được phân phối, sử dụng như thế nào để
vừa đảm bảo công bằng về lợi ích cho các thành viên, vừa đảm bảo về hiệu
quả.
- Phân tích, đánh giá và kiểm tra hoạt động tài chính như thế nào để
thường xuyên đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh.
- Quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp.
1.2- Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp:
Đối với hoạt động kinh doanh cũng như việc nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò
hết sức quan trọng thể hiện qua các vai trò sau:
-Huy động, đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp;
-Giữ vai trò trong việc đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả;
-Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động SXKD của doanh
nghiệp.
Như vậy quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò quyết định tới toàn
bộ công tác quản trị doanh nghiệp, quyết định đến sự thành bại của doanh
nghiệp. Nhưng để thực hiện được vai trò đó một trong những nội dung quan
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
6
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
trọng của quản trị tài chính mà các nhà quản lý quan tâm đó là việc phân tích
tài chính doanh nghiệp.
2- PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP:
2.1-Sự cần thiết của việc phân tích tài chính trong doanh nghiệp:
Phân tích kinh tế là tổng thể các phương pháp và công cụ cho phép ta
thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm quản lý
doanh nghiệp; đánh giá tình hình tài chính về khả năng và triển vọng của
Doanh nghiệp. Từ đó giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định
quản lý phù hợp (kể cả các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như các nhà sử
dụng thông tin khác) . Sự ra đời của phân tích kinh tế cùng với vai trò quan
trọng của tài chính Doanh nghiệp đã thúc đẩy hình thành lý luận về phân tích
tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc phân tích các báo cáo tài
chính, các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương
pháp, các công cụ và kỹ thuật phân tích mà các đối tượng quan tâm có những
thông tin thích hợp và cần thiết về tình hình tài chính doanh nghiệp, để từ đó
đưa ra các dự báo và các quyết định tài chính phù hợp.
Như vậy việc phân tích tài chính là công cụ chủ yếu phục vụ đắc lực
cho công tác đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhằm đưa ra các
thông tin chính xác, đầy đủ và toàn diện về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều vấn đề tài
chính nảy sinh đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những quyết định tài chính
kịp thời và đúng đắn. Và để đưa ra những quyết định được xem là đúng đắn
đó thì các nhà quản lý Doanh nghiệp phải biết được thông tin về “toàn cảnh
bức tranh tài chính” của doanh nghiệp. Và để có được những thông tin đó
nhất thiết phải thông qua hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Vì chỉ
có hoạt động phân tích tài chính thì mới có thể cung cấp thông tin về “toàn
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
7
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
cảnh bức tranh tài chính” của doanh nghiệp cho các chủ thể cần thông tin
trong việc đưa ra các quyết định.
Thông qua việc phân tích tài chính doanh nghiệp giúp các nhà quản lý
có thể kiểm soát được tình hình tài chính, tình hình hoạt động SXKD để từ đó
có thể dự đoán và đưa ra các quyết định tài chính thích hợp. Hơn nữa thông
qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mà đề ra các biện pháp để
khai thác tiềm năng cũng như khắc phục những hạn chế, vướng mắc tồn tại
trong doanh nghiệp nhằm góp phần đưa doanh nghiệp vào quỹ đạo phát triển
ổn định và lành mạnh.
Ngoài ra việc phân tích tài chính Doanh nghiệp không chỉ là sự quan
tâm của các nhà quản lý Doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của nhiều đối
tượng khác trong mối quan hệ kinh tế xã hội như: Nhà đầu tư; Chủ nợ; Khách
hàng; Cơ quan quản lý Nhà nước như Thuế, kiểm toán, cơ quan hữu quan
khác… ; kể cả người lao động.
Như vậy xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của việc phân tích tài
chính doanh nghiệp cho các chủ thể cần sử dụng thông tin về doanh nghiệp
mà việc phân tích tài chính ở mỗi doanh nghiệp là cần thiết và không thể thiếu
được ở các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
2.2- Yêu cầu của việc phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc phản ánh các quan hệ mật thiết
giữa các khoản mục và các nhóm khoản mục trong báo cáo tài chính, để xác
định các thông tin cần thiết phục vụ cho các nhà quản lý trong doanh nghiệp
và các đối tượng khác trong việc ra quyết định phù hợp với các mục tiêu của
đối tượng đó. Vì vậy khi phân tích tài chính doanh nghiệp cần phải đạt được
một số vấn đề sau:
-Đối với doanh nghiệp nói chung: Việc phân tích tài chính doanh
nghiệp phải cung cấp được đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin kinh tế
cần thiết, bao gồm các thông tin về công nợ, khả năng thanh toán, khả năng
sinh lời cũng như các nhân tố làm thay đổi nguồn vốn, khả năng thanh toán và
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
8
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó giúp các nhà quản lý có thể dự
đoán tình hình tài chính và đưa ra các quyết định đúng đắn, phù hợp cho
doanh nghiệp. Mặt khác việc phân tích tài chính còn phải cung cấp những
thông tin về tình hình khai thác, sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
Doanh nghiệp. Qua đó mà các nhà quản lý doanh nghiệp lập kế hoạch khai
thác, tạo lập vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh
nghiệp.
- Đối với các đối tượng khác: Việc quan tâm tới tình hình tài chính của
doanh nghiệp không chỉ các nhà quản lý doanh nghiệp mà còn cả các nhà đầu
tư, ngân hàng, cổ đông và cả cơ quan hữu quan Nhà nước…
Vì vậy khi phân tích tài chính DN phải cung cấp những thông tin tối
thiểu mà họ yêu cầu như: khả năng thanh toán, tình hình huy động và sử
dụng vốn của doanh nghiệp ( hiệu quả sử dụng vốn?), những thông tin về
nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các sự kiện,
các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh
nghiệp.
2.3- Phương pháp phân tích tài chính Doanh nghiệp.
2.3.1- Thông tin cần sử dụng trong phân tích:
Để phân tích tài chính doanh nghiệp trước tiên phải có tài liệu để phân
tích và phương pháp phân tích. Khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
tài liệu quan trọng được sử dụng đó là các báo cáo tài chính mà chủ yếu là
Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; Bảng
báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các thông tin khác về tình hình cụ thể của doanh
nghiệp trên sổ chi tiết tài khoản 511, tài khoản 331, tài khoản 131… và một số
khoản khác phản ánh doanh thu, chi phí và lợi nhuận…
2.3.2- Phương pháp phân tích:
Về mặt lý thuyết để phân tích tài chính doanh nghiệp có nhiều cách,
nhưng trên thực tế ở các doanh nghiệp thường sử dụng hai phương pháp chủ
yếu như: phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
9
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
* Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp sử dụng rộng rãi, phổ
biến trong phân tích kinh tế nói chung và trong phân tích tài chính nói riêng.
Trong quá trình phân tích nó được sử dụng từ khâu đầu đến khâu cuối cùng,
thể hiện từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích. Khi sử dụng
phương pháp này cần lưu ý tới điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh và kỹ thuật
so sánh.
+ Về điều kiện so sánh: Phải tồn tại các đại lượng, các chỉ tiêu để so
sánh; Các đại lượng, các chỉ tiêu phải thống nhất về nội dung và cách tính
toán, thống nhất cả về thời gian lẫn đơn vị đo lường.
+ Về tiêu thức so sánh: tuỳ thuộc vào mục đích phân tích, đối tượng
phân tích mà người ta lựa chọn các tiêu thức cụ thể.
+ Về kỹ thuật so sánh:
- So sánh về số tuyệt đối: Là việc xác định chênh lệch giữa trị số của
kỳ phân tích với trị số kỳ làm gốc (Số liệu kỳ kế hoạch, hoặc kỳ thực tế
trước). Kết quả so sánh cho thấy sự biến động về số tuyệt dối của chỉ tiêu kinh
tế ta phân tích.
- So sánh về số tương đối: Là xác định số % tăng (giảm) giữa kỳ phân
tích với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích.
* Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực
của các tỷ lệ, đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc
phương pháp này yêu cầu phải xác định được định mức để nhận xét, đánh giá
tình hình tài chính trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp đạt được với
tỷ lệ kế hoạch. Trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thì
các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng phản ánh nội
dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ
về khả năng thanh toán; về cơ cấu tài chính; các chỉ số về khả năng hoạt động
và các chỉ số về khả năng sinh lời…
Vậy để đưa ra những nhận xét về tình hình tài chính của doanh nghiệp một
cách chính xác, thì khi phân tích không chỉ sử dụng một phương pháp mà nên
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
10
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
biết kết hợp các phương pháp một cách linh hoạt. Từ đó thấy rõ thực chất hoạt
động tài chính cũng như biến động của từng chỉ tiêu tài chính trong doanh
nghiệp qua các giai đoạn khác nhau.
2.4-Nội dung công tác phân tích, đánh giá tài chính Doanh nghiệp
2.4.1-Đánh giá khái quát tình hình tài chính Doanh nghiệp
Đánh giá khái quát tình hình tài chính Doanh nghiệp sẽ cung cấp tổng
quát nhất tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh của Doanh nghiệp là khả
quan hay không khả quan. Điều đó cho phép chủ Doanh nghiệp thấy rõ thực
chất của quá trình hoạt động SXKD và dự đoán được xu thế phát triển của
Doanh nghiệp, trên cơ sở đó có những giải pháp hữu hiệu để quản lý.
Báo cáo tài chính là một tài liệu và cần thiết đối với việc quản trị
Doanh nghiệp đồng thời là thông tin hữu ích đối với người bên trong và ngoài
Doanh nghiệp có lợi ích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Doanh nghiệp
như: chủ sở hữu, các nhà đầu tư, cung cấp tín dụng, Chính phủ và các cơ quan
quản lý chức năng của Nhà nước… Vì vậy việc phân tích TCDN trước hết và
chủ yếu là đi sâu phân tích BCĐKT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
của Công ty.
a- Đánh giá khái quát tình hình tài chính Doanh nghiệp qua bảng cân đối kế
toán (BCĐKT):
BCĐKT phản ánh một cách tổng quát về toàn bộ tài sản hiện có của
Doanh nghiệp theo hai cách phân loại là tài sản và nguồn vốn hình thành tài
sản ở một thời điểm nhất định. Các chỉ tiêu của BCĐKT được phản ánh dưới
hình thức giá trị và tuân theo nguyên tắc cân đối :
“Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn”.
Phần tài sản: phản ánh giá trị tài sản hiện có tại các thời điểm lập báo
cáo. Nó phản ánh quy mô, kết cấu của các loại tài sản dưới hình thái giá trị
như: tài sản bằng tiền, hàng hoá tồn kho, các khoản phải thu, tài sản cố
định…mà doanh nghiệp hiện có. Về mặt pháp lý số liệu của phần tài sản đang
thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
11
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản hiện có
của doanh nghiệp, nó phản ánh qui mô kết cấu các nguồn vốn đã được Doanh
nghiệp đầu tư huy động vào SXKD. Mặt khác nó còn thể hiện trách nhiệm
pháp lý về mặt vật chất của DN đối với các nhà đầu tư, những nhà cung cấp
vốn cho doanh nghiệp như các Cổ đông, Ngân hàng, các chủ nợ…
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu
đánh giá khái quát tình hình tài chính, trình độ quản lý và sử dụng vốn cũng
như triển vọng kinh tế tài chính của Doanh nghiệp để định hướng cho việc
nghiên cứu, phân tích tiếp theo. Để làm được điều đó khi phân tích BCĐKT
cần chú ý xem xét các vấn đề sau:
Thứ nhất: Xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại
tài sản thông qua việc so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tương đối
lẫn tuyệt đối. Qua đó thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh và năng
lực kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi xem xét vấn đề này ta cần quan tâm
tới tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh, cụ thể:
- Sự biến động của tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn ảnh hưởng đến khả
năng ứng phó đối với các khoản nợ đến hạn.
- Sự biến động của hàng tồn kho chịu ảnh hưởng lớn bởi quá trình
SXKD từ khâu dự trữ đến khâu tiêu thụ sản phẩn.
- Sự biến động của các khoản phải thu chịu ảnh hưởng của công việc
thanh toán và chính sách tín dụng của Doanh nghiệp đối với khách hàng.
- Sự biến động của TSCĐ cho thấy quy mô và năng lực sản xuất hiện
có của Doanh nghiệp.
Thứ hai: Xem xét cơ cấu vốn có hợp lý hay không? Cơ cấu vốn đó có
tác động như thế nào đến quá trình kinh doanh, như xem xét tới chi phí sử
dụng vốn. Để làm được điều này trước hết phải xác định tỷ trọng từng loại tài
sản trong tổng tài sản, sau đó so sánh từng loại tài sản về số liệu giữa cuối kỳ
với đầu năm để thấy được sự biến động của cơ cấu vốn. Điều này chỉ thực sự
phát huy tác dụng khi ta chú ý đến tính chất ngành nghề kinh doanh của
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
12
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Doanh nghiệp, kết hợp cùng với sự xem xét tác động của từng loại tài sản đến
quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kỳ. Có như vậy
mới đưa ra quyết định hợp lý về việc phân bổ vốn cho từng giai đoạn, từng
loại tài sản của Doanh nghiệp.
Thứ ba: Khái quát mức độ độc lập hay phụ thuộc về mặt tài chính của
DN qua việc so sánh từng loại nguồn vốn giữa cuối kỳ và đầu năm cả về số
tương đối lẫn tuyệt đối. Về tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn
vốn. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng lên
thì điều đó chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của công ty là cao mức độ
phụ thuộc về mặt tài chính đối với các chủ nợ là thấp và ngược lại. Tuy nhiên
khi xem xét vấn đề này cần phải chú ý đến chính sách tài trợ của Doanh
nghiệp và hiệu quả kinh doanh mà Doanh nghiệp đạt được cũng như những
thuận lợi và khó khăn trong tương lai mà Doanh nghiệp có thể gặp phải.
Thứ tư: Xem xét mối quan hệ cân đối giữa các chỉ tiêu, các khoản mục
trên bảng cân đối kế toán.
Thứ năm: Xem xét trong năm công ty có những khoản đầu tư nào?
làm thế nào công ty mua sắm được những tào sản đó? Công ty đang gặp khó
khăn hay thuận lợi, phát triển?
b- Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là bảng báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thực hiện
nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước trong một kỳ kế toán.
Nội dung của báo cáo kết quả kinh doanh có thể thay đổi theo từng thời kỳ
theo yêu cầu quản lý, chính sách của Nhà nước xong nhìn chung phản ánh các
nội dung cơ bản: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản
lý Doanh nghiệp cũng như lỗ lãi trong kỳ.
Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể phân
tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn,
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
13
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tình hình chi phí và thu nhập của hoạt động khác
cũng như kết quả kinh doanh sau một kỳ kế toán.
Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để kiểm tra tình hình thực
hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của Công ty đối với Nhà nước về các khoản thuế
và các khoản phải nộp khác. Đồng thời cho cho phép nhà quản trị doanh
nghiệp và các đối tượng quan tâm khác đánh giá xu hướng phát triển của
doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau.
Khi phân tích báo cáo kết quả kinh doanh cần chú ý đến các vấn đề cơ bản
sau:
Thứ nhất: Xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu trên phần Lãi lỗ giữa kỳ
này với kỳ trước thông qua việc so sánh về số tuyệt đối cũng như số tương
đối. Đặc biệt chú ý đến doanh thu thuần, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau
thuế… đồng thời xem xét lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng hay
giảm là do nhân tố nào. Ta dựa vào phương trình kinh tế sau:
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng
bán - Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Thứ hai: tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng các khoản
chi phí, để xác định công ty đã sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực,
thông qua các chỉ tiêu tài chính sau: Tỷ suất giá vốn hàng bán trên doanh thu;
Tỷ suất chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu và tỷ suất chi phí bán
hàng trên doanh thu. Các chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu thu
được thì doanh nghiệp đã bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Các tỷ suất này càng
nhỏ chứng tỏ Doanh nghiệp đã sử dụng nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả.
Với phương pháp phân tích so sánh kỳ này với kỳ trước từ đó thấy được xu
hướng biến động của từng chỉ tiêu đang xem xét nhằm đưa ra những biện
pháp quản lý thích hợp.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
14
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Như vậy, với cách phân tích, tiếp cận tình hình như trên nhìn chung chưa lột
tả hết được thực trạng tình hình tài chính của một Doanh nghiệp . Do vậy các
nhà tài chính còn dùng các hệ số tài chính đặc trưng để giải thích rõ hơn về
các mối quan hệ tài chính này.
2.4.2-Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu
tài chính đặc trưng:
Phân tích, đánh giá tình hình tài chính Doanh nghiệp qua bảng cân đối
kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh chúng ta đã có cái nhìn tổng
quát về doanh nghiệp. Nhưng để biết được thêm chi tiết tình hình tài chính
của doanh nghiệp thì chúng ta phải đi sâu phân tích các nhóm chỉ tiêu tài
chính đặc trưng. Phân tích qua các chỉ tiêu tài chính đặc trưng giúp ta thấy
được khái quát tình hình tài chính qua các mặt chủ yếu như: đánh giá khả
năng thanh toán, kết cấu nguồn vốn, tình hình sử dụng các nguồn lực và khả
năng sinh lời của doanh nghiệp .
a-
Phân tích qua nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Để thấy rõ tình hình tài chính của Doanh nghiệp trong tương lai gần
cần đi sâu phân tích khả năng thanh toán của Doanh nghiệp. Nếu Doanh
nghiệp có khả năng thanh toán cao cho thấy tình hình tài chính khả quan và
ngược lại khả năng thanh toán thấp thể hiện tình hình tài chính khó khăn.
Một số chỉ tiêu về khả năng thanh toán được dùng:
*Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (HTQ)
HTQ
=
Tổng tài sản
Tổng vốn
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa tổng tài sản hiện có mà Doanh
nghiệp đang quản lý, sử dụng với tổng số nợ mà doanh nghiệp phải trả (gồm
cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Hệ số này lớn hơn 1 cho thấy khả năng thanh
toán của doanh nghiệp được đảm bảo, nghĩa là một đồng nợ của doanh nghiệp
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
15
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
có hơn một đồng tài sản đảm bảo. Ngược lại nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thể hiện
khả năng trả nợ của doanh nghiệp là yếu, nó thể hiện sự khó khăn về tài chính
của doanh nghiệp, là dấu hiệu ban đầu của sự phá sản… vì tổng tài sản của
doanh nghiệp không đủ trang trải các khoản nợ.
Như vậy, chỉ tiêu này cho biết tổng quát doanh nghiệp có khả năng trả
nợ không? Nhưng trên thực tế có những tài sản của công ty không thể chuyển
ngay thành tiền được để thanh toán mà phải mất một thời gian nhất định. Hơn
nữa trong tổng số nợ của doanh nghiệp cũng có những khoản nợ đến hạn
nhưng cũng có những khoản nợ nợ chưa đến hạn phải trả. Do đó chỉ tiêu này
dùng để xem xét một cách chung nhất về khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
* Hệ số về khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay còn gọi khả năng
thanh toán hiện thời(HNNH)
HNNH =
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh năng lực thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp,
thể hiện mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn với các khoản nợ ngắn hạn, phản
ánh mức độ đảm bảo của tài sản lưu động đối với nợ ngắn hạn.
Nợ ngắn hạn là khoản nợ có thời hạn trả nợ dưới một năm, do đó doanh
nghiệp phải sử dụng tài sản thực có của mình để thanh toán, bằng cách
chuyển một phần tài sản (tài sản lưu động) thành tiền. Hệ số này lớn hơn 1 là
tốt, nhưng không phải hệ số này càng lơn càng tốt. Vì khi đó có một lượng tài
sản lưu động tồn trữ không hoạt động và không sinh lời. Tính hợp lý của hệ
số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề nào có tỷ trọng tài
sản lưu động lớn hơn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và ngược lại. Nếu hệ
số này nhỏ hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài
trợ cho nhu cầu vốn dài hạn, sự không ăn khớp về thời gian rất dễ gây nên
tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà đặc biệt là nguy
hiểm nếu doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
16
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
*Hệ số khả năng thanh toán nhanh (HTTN):
HTTN =
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn – Hàng tồn kho
Tổng số nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ ngay bằng tài sản lưu động mà không
phải dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng hoá. Ngoài ra để phản ánh
mức độ đáp ứng các khoản thanh toán ngay lập tức tại một thời điểm nhất
định người ta còn sử dụng hệ số khả năng thanh toán tức thời (HTTTT)
HTTTT =
Tiền và các khoan tương đương tiền
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh 1 đồng nợ ngắn hạn sẽ được đảm bảo bằng mấy
đồng tiền và tương đương tiền - các khoản có thể chuyển đổi nhanh, bất kỳ
lúc nào thành một lượng tiền biết trước (các loại chứng khoán ngắn hạn,
thương phiếu… có khả năng thanh khoản cao). Nhìn chung hệ số này cao là
tốt nhưng nếu cao quá thì cần phải xem xét, vì khi hệ số này quá cao thì có
nghĩa là tiền bị ứ đọng như vậy mất một khoản chi phí bảo quản tiền và đặc
biệt trong nền kinh tế có lạm phát thì nguy hiểm, chi phí cơ hội cho việc giữ
tiền và chịu ảnh hưởng bởi rủi ro tỷ giá…Thông thường chỉ tiêu này / 0,5
được coi là hợp lý.
* Hệ số khả năng thanh toán lãi vay(HKNTTLV):
Để tiến hành hoạt động SXKD ngoài phần vốn tự tài trợ doanh nghiệp
còn phải huy động từ bên ngoài có thể đó là khoản vốn của các cổ đông, có
thể doanh nghiệp phải đi vay… Việc huy động vốn từ các cổ đông, hay bất cứ
dưới hình thức nào doanh nghiệp cũng phải trả một khoản tiền nhất định - đó
là khoản chi phí của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn. Trong đó lãi vay
phải trả là khoản chi phí cố định- phản ánh số tiền doanh nghiệp chi trả cho
việc sử dụng khoản tiền vay. Nguồn trả lãi tiền vay này đó là lợi nhuận trước
lãi vay và thuế. Hệ số này phản ánh doanh nghiệp sẵn sàng trả nợ vay ở mức
nào.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
17
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
HKNTTLV =
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Lãi vay phải trả trong kỳ
Chỉ tiêu cho biết một đồng lãi vay được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng
lợi nhuận trước lãi vay và thuế. Hệ số này cho biết số vốn đi vay được sử
dụng tốt ở mức nào, và đem lại lợi nhuận là bao nhiêu có đủ bù đắp được lãi
tiền vay phải trả hay không.
Trong các khoản nợ của doanh nghiệp có cả nợ ngắn hạn lẫn nợ dài
hạn. Vì thế ta không chỉ quan tâm đến nợ ngắn hạn mà cũng cần phải quan
tâm tới nợ dài hạn. Qua đó việc phân tích đánh giá tình hình tài chính của
doanh nghiệp sẽ xác thực hơn. Khi nói đến nợ dài hạn thì ta không chỉ quan
tâm tới tổng số nợ dài hạn doanh nghiệp đang nợ, mà còn phải quan tâm tới
khả năng chi trả các khoản nợ dài hạn đó như thế nào… Nguồn để trả nợ dài
hạn chính là giá trị tài sản cố định được hình thành từ vốn vay chưa được thu
hồi (giá trị còn lại của TSCĐ được hình thành từ vốn vay).
b- Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu đầu tư:
Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn nhằm đạt được
kết cấu vốn tối ưu nhất, để làm sao với kết cấu vốn như vậy thì hiệu quả sử
dụng vốn cao nhất cũng như việc chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Nhưng kết
cấu này luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy các nhà quản trị tài chính
cần nghiên cứu cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tỷ suất tự tài trợ … để có
một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp phục vụ cho
công tác hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp thành công.
1. Cơ cấu tài chính:
* Hệ số nợ (HN): Là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong trong một
đồng vốn hiện có mà doanh nghiệp huy động vào hoạt động kinh doanh thì có
bao nhiêu đồng nợ.
HN =
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
Tổng nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
18
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng
thấp thì các khoản nợ của họ càng được đảm bảo. Trong khi đó các chủ doanh
nghiệp lại thích có tỷ lệ này cao một chút, vì doanh nghiệp được quản lý một
lượng tài sản lớn mà chỉ cần đầu tư một lượng vốn nhỏ và các nhà tài chính sử
dụng hệ số này như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận (đòn bảy
tài chính). Đặc biệt là khi doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận trên các khoản nợ lớn
hơn lãi phải trả thì lợi nhuận của chủ sở hữu sẽ tăng rất nhanh.
Trong quá trình phân tích thấy hệ số này cao hay thấp ta chưa thể kết
luận được cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp lúc đó là hợp lý hay chưa hợp
lý. Vì hệ số này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: tính chất ngành nghề kinh
doanh; doanh lợi vốn và lãi suất huy động vốn; cơ cấu tài sản; thái độ của
người cho vay cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của chủ doanh nghiệp… tuy
nhiên, hệ số này quá cao mà doanh nghiệp sử dụng vốn không hiệu quả, hoạt
động kinh doanh thua lỗ thì dưới tác động của đòn bảy tài chính âm doanh
nghiệp rất dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn- dẫn đến tình trạng phá sản.
* Hệ số vốn chủ sở hữu (HVCSH):
Chỉ tiêu này dùng để đo lường sự góp vốn chủ sở hữu trong tổng số
vốn hiện có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao hay thấp chưa khẳng định là
tốt hay xấu vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố (như hệ số nợ). Nhưng cũng
cần khẳng định HVCSH càng cao thể hiện tình trạng tài chính của doanh nghiệp
lành mạnh, thể hiện ở tỷ suất đảm bảo nợ cao, tính độc lập cao với các chủ nợ,
ít bị sức ép bởi các khoản nợ- Vì lúc này hầu hết tài sản trong doanh nghiệp
được tài trợ bằng nguồn vốn chủ.
Nguồn vốn chủ sở
HVCSH =
hữu
hay: HVCSH = 1 - HN
Tổng nguồn vốn
Hai chỉ tiêu trên cho biết mức độ độc lập tự chủ hay phụ thuộc của DN.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
19
Lớp: QTK6B
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Hệ số đảm bảo nợ =
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng nợ phải trả
Hệ số đảm bảo nợ cao thể hiện tính độc lập cao đối với các chủ nợ, doanh
nghiệp ít bị sức ép bởi các khoản nợ. Thông thường các chủ nợ thường thích
tỷ suất tự tài trợ này cao vì họ tin tưởng có sự đảm bảo cho các các khoản nợ.
2-
Cơ cấu đầu tư:
Đây là một dạng tỷ suất phản ánh khi doanh nghiệp sử dụng bình quân
một đồng vốn kinh doanh thì doanh nghiệp dành mấy đồng cho cho tài sản
lưu động và đầu tư ngắn hạn cũng như dành mấy đồng cho tài sản cố định và
đầu tư dài hạn. Cơ cấu tài sản thể hiện thông qua các chỉ tiêu:
Tỷ suất đầu tư
ngắn hạn
=
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Tổng tài sản
Chỉ tiêu cho biết trong một đồng vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào hoạt
động kinh doanh thì dành bao nhiêu vào đầu tư tài sản lưu động và đầu tư
ngắn hạn. Tỷ suất này cao hay thấp tuỳ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh
doanh.
Tỷ suất đầu tư
dài hạn
=
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tổng tài sản
Chỉ tiêu cho biết trong một đồng vốn đầu tư thì doanh nghiệp dùng bao
nhiêu cho việc đầu tư tài sản cố định. Chỉ tiêu này còn phản ánh tình hình
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực và xu hướng phát triển lâu dài cũng
như khả năng của Doanh nghiệp trên thị trường. Tính hợp lý của tỷ suất này
tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, khả năng huy động vốn dài hạn và mức
độ áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
SV: Nguyễn Thị Bích Hiên
20
Lớp: QTK6B
- Xem thêm -