CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan chung về tài chính DN và phân tích tài chính DN
1.1.1. Khái niệm và vai trò của TCDN
1.1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp:[3,tr.11]
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao
gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn vào
doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể
hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài
chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể
phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh
nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp
cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử
dụng.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế,
doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường
hoàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh
nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động, v.v...
Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu
hàng hóa và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân
sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuấtkinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử
dụng vốn và quyền sở hữu vốn.
1.1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp:[3,tr.20]
Trong nền kinh tế hiện nay, có thể nói, quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí
trọng yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự
thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Bất kỳ ai liên kết hợp tác với
1
doanh nghiệp cũng sẽ hưởng lợi nếu như quản lý tài chính của doanh nghiệp có hiệu
quả, ngược lại, họ sẽ thua thiệt khi quản lý tài chính kém hiệu quả.
Sự hoạt động của quy luật cung cầu rất mạnh mẽ, cứ lĩnh vực nào có nhu cầu thì
ở đó sẽ có nguồn cung cấp. Vì vậy, khi các doanh nghiệp có nhu cầu vốn thì tất yếu
thị trường vốn sẽ được hình thành với những hình thức đa dạng của nó. Vấn đề là chỗ
người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu vốn, cân nhắc lựa chọn các hình thức,
phương pháp thích hợp để khai thác thu hút vốn, sử dụng các công cụ đòn bấy kinh tế
như lãi suất vay, cổ tức khi phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm khai thác huy động
vốn, lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn, đảm
bảo khả năng thanh toán chi trả...Đó chính là việc khai thác các chức năng phân phối
và giám đốc tài chính để nâng cao vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc tạo
lập, khai thác, huy động vốn phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả:
Việc khai thác, huy động vốn, việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả được
coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Đã đặt ra trước mọi doanh
nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt: sản xuất không thể với bất kỳ giá nào, phải
bán được những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần và chấp nhận được chứ không
phải bán những cái gì mà mình có. Trước sức ép nhiều mặt của thị trường đã buộc các
doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Điều lưu ý ở đây là cần có sự phân biệt giữa chỉ tiêu lợi nhuận với chỉ tiêu hiệu
quả kinh tế. Nói chung, sự gia tăng hiệu quả kinh tế sẽ bao hàm cả yếu tố tăng chỉ tiêu
lợi nhuận. Song ngược lại, có những trường hợp tăng chỉ tiêu lợi nhuận nhưng lại
không có hiệu quả. Vì thế, hiệu quả kinh tế chỉ có thể có được khi vốn được sử dụng
tiết kiệm mà vẫn đảm bảo mức gia tăng lợi nhuận.
Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh:
Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông việc tạo ra sức mua
hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp
lý khi phát hành cổ phiếu hàng hóa bán dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu
nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, tiền lương, thực hiện các hợp
đồng kinh tế…
Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình
tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà
quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc tồn tại để từ đó đưa ra quyết định điều
chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
2
Thang Long University Library
1.1.2. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính:
1.1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp:[3,tr.29]
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm,
phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông
tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả trong hoạt động của doanh
nghiệp đó.
Phân tích tài chính doanh nghiệp trước hết tập trung vào các số liệu được cung
cấp trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kết hợp với các thông tin bổ sung từ
các nguồn khác nhau, làm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, chỉ
ra những thay đổi chủ yếu, những chuyển biến theo xu hướng, tính toán nhân tố,
những nguyên nhân của sự thay đổi trong các hoạt động tài chính phát hiện những quy
luật của các hoạt động, làm cơ sở cho các quyết định hiện tại và dự báo cho tương lai.
1.1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân tích
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các số
liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục đích đánh
giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Do đó,
phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như nhà
quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các
nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm người này
có những nhu cầu thông tin khác nhau.
Đối với người quản lý doanh nghiệp:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải giải
quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất
kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải có
tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên phải
của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ
dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có thời hạn
trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài sản và nợ
của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với
cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất. Liệu doanh nghiệp có
3
nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp với cả các hình thức đi vay
và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh
nghiệp.
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến vấn
đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với
các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch pha của
các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở
để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp:
Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu, lợi tức cổ phần và giá trị
tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tời phân tích tài chính để nhận biết khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn
đầu tư cho doanh nghiệp hay không?
Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp:
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ
chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến
số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số
nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của
chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh
nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời
hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho
vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp
đi vay.
Đối với người lao động trong doanh nghiệp:
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người
được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính
của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có
tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra
trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ
4
Thang Long University Library
phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi
và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước
thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh
doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách,
chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá thành, tình hình
thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích
các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các
phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc
độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách
chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và
đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2. Phƣơng pháp phân tích tài chính
Để phân tích tài chính, người ta thường dùng các biện pháp cụ thể mang tính
chất nghiệp vụ kỹ thuật. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm riêng biệt của từng đơn
vị kinh tế mà phân tích hoạt động lựa chọn từng phương pháp cụ thể để áp dụng sao
cho có hiệu quả nhất.
1.2.1. Phương pháp so sánh [2,tr.3]
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân
tích tài chính doanh nghiệp nhằm đánh giá sự khác biệt hay xu hướng biến đổi của
từng chỉ tiêu phân tích, từ đó giúp các đối tượng quan tâm thấy rõ mức biến động của
các đối tượng để đưa ra các quyết định đúng đắn. Kết quả so sánh chỉ có ý nghĩa khi
các chỉ tiêu đem đi so sánh phải được đảm bảo tính đồng nhất, phản ánh cùng một nội
dung kinh tế, đơn vị tính, phương pháp tính, thời gian và điều kiện môi trường của các
chỉ tiêu.
Kỹ thuật so sánh thường được sử dụng trong phân tích là so sánh bằng số tuyệt
đối, so sánh bằng số tương đối và so sánh với số bình quân.
So sánh bằng số tuyệt đối là so sánh bằng phép trừ giữa trị số của chỉ tiêu kỳ
phân tích so với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh biểu hiện khối lượng, quy
mô biến động của các hiện tượng kinh tế.
5
So sánh bằng số tương đối là so sánh bằng phép chia giữa trị số của kỳ phân tích
so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế hoặc giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc
đã được điều chỉnh theo tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của chỉ tiêu có liên quan theo
hướng quyết định quy mô chung của chỉ tiêu.
So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt đối biểu
hiện tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng nhằm phản ảnh đặc điểm chung của
một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có chung tính chất
1.2.2. Phương pháp phân tích tỷ số [2,tr.10]
Phân tích tỷ số là kỹ thuật phân tích căn bản và quan trọng nhất của phân tích tài
chính. Phân tích các tỷ số tài chính liên quan đến việc xác định và sử dụng các tỷ số
tài chính để đo lường và đánh giá tình hình và hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Phương pháp này thường được thực hiện theo các bước như sau:
Bước 1: Dựa trên cơ sở các chỉ tiêu phân tích TCDN đã có sẵn hoặc nhà phân
tích tự xây dựng chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích phân tích của mình, nhà
phân tích chọn lọc các số liệu trong BCTC để tính toán.
Bước 2: Trên cơ sở các kết quả đã thu được từ việc tính toán các tỷ số, nhà phân
tích nêu ra mối quan hệ giữa tử số và mẫu số.
Bước 3: Nhận định mức độ cao thấp của các con số này, tìm hiểu tác động của
các kết quả đó đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua đó tìm
hiểu các nguyên nhân tăng giảm của các con số.
Bước 4: Rút ra kết luận, đánh giá về tình hình TCDN, từ đó đưa ra các giải pháp
phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, tạo tiền đề phát triển cho doanh nghiệp trong
tương lai.
Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số
tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ
số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn
được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích khác.
1.2.3. Phương pháp thay thế
Đây là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần
lượt và liên tục các yếu tố giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ
tiêu thay đổi. Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng kinh tế
nghiên cứu. Nó tiến hành đánh giá so sánh và phân tích từng nhân tố ảnh hưởng trong
khi đó giả thiết là các nhân tố khác cố định. Do đó để áp dụng nó phân tích hoạt động
kinh tế cần áp dụng một trình tự thi hành sau:
6
Thang Long University Library
- Căn cứ vào mối liên hệ của từng nhân tố đến đối tượng cần phân tích mà từ đó
xây dựng nên biểu thức giữa các nhân tố
- Tiến hành lần lượt để xác định ảnh hưởng của từng nhân tố trong điều kiện giả
định các nhân tố khác không thay đổi.
- Ban đầu lấy kỳ gốc làm cơ sở, sau đó lần lượt thay thế các kỳ phân tích cho các
số cùng kỳ gốc của từng nhân tố.
- Sau mỗi lần thay thế tiến hành tính lại các chỉ tiêu phân tích. Số chênh lệch
giữa kết quả tính được với kết quả tính trước đó là mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
được thay đổi số liệu đến đối tượng phân tích. Tổng ảnh hưởng của các nhân tố tương
đối tương đương với bản thân đối tượng cần phân tích.
1.2.4. Phương pháp phân tích Dupont [2,tr.12]
Bên cạnh các phương pháp trên, nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân
tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà phân tích sẽ nhận biết được các
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất
của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh khả năng sinh lời của doanh
nghiệp như khả năng sinh lời của tài sản ROA, khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu
ROE thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau tức là từ hệ
số sơ cấp ROE, nhà phân tích chia nó làm các hệ số thứ cấp và nếu muốn, các nhà
phân tích lại có thể biến các hệ số thứ cấp này quay trở lại là hệ số sơ cấp ban đầu.
Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
Lợi nhuận ròng
ROA =
Lợi nhuận ròng
=
Tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
ROE =
Doanh thu thuần
Lợi nhuận ròng
=
Vốn cổ phần
Doanh thu thuần
X
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
x
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
x
Tổng tài sản
Vốn cổ phần
Lúc này ta có thể phân tích tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần theo hiệu suất sử
dụng vốn cổ phần và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Muốn tăng tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần ta cần tăng hiệu suất sử dụng tổng
tài sản, tức sử dụng tối đa công suất tài sản, hoặc tăng tổng số tài sản trên vốn cổ phần
tức cần sử dụng công cụ nợ, hoặc tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tức là tối thiểu
hóa chi phí.
Trên cơ sở nhận biết ba tỷ số thứ cấp cấu thành nên tỷ số sơ cấp là ROE, doanh
nghiệp có thể áp dụng một số biện pháp làm tăng ROE như sau:
7
- Tác động tới cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thông qua điều chỉnh tỷ lệ nợ
vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho phù hợp với năng lực hoạt động.
- Tăng hiệu suất sử dụng tài sản. Nâng cao số vòng quay của tài sản, thông qua
việc vừa tăng quy mô về doanh thu thuần, vừa sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu
của tổng tài sản.
- Tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng của sản phẩm. Từ đó tăng
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tóm lại, phân tích báo cáo tài chính bằng mô hình Dupont có ý nghĩa lớn đối với
quản trị doanh nghiệp thể hiện ở chỗ có thể đánh giá đầy đủ và khách quan các nhân
tố tác động đến hiêu quả sản xuất kinh doanh từ đó tiến hành công tác cải tiến tổ chức
quản lý của doanh nghiệp. Song phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi mà chỉ
áp dụng cho các công ty lớn, có đội ngũ cán bộ phân tích chuyên trách, có trình độ cao
bởi phương pháp này không chỉ đòi hỏi đánh giá sự tác động của chỉ tiêu thành phần
đối với chỉ tiêu tổng hợp mà còn sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh giá mức độ
tác động giữa các chỉ tiêu thành phần.
1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính [2,tr.14]
1.3.1. Thông tin kế toán
Muốn phân tích được tài chính doanh nghiệp, người phân tích phải đọc hiểu
được báo cáo tài chính. Đây là một trong những tài chính quan trọng giúp cho người
phân tích hiểu được tình hình tài chính của doanh nghiệp đang muốn phân tích.
Các báo cáo tài chính gồm có:
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính cung cấp thông tin về tình hình tài sản,
tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo.
Quy mô tài sản và cơ cấu tài sản của doanh nghiệp thể hiện quy mô vốn và sự
phân bổ vốn của doanh nghiệp vào các hoạt động, và các khâu của quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn thể
hiện quy mô huy động vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như các
chính sách huy động vốn, chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Mối quan
hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện mức độ tài trợ vốn cho các nhu cầu hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với bảng
8
Thang Long University Library
cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của vốn
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính khả năng
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi
bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi
hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin tổng
hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình
độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh
nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của tài sản và nguồn gốc
của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát
sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền
tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp,
tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các
khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ
hoạt động bất thường.
1.3.2. Các thông tin khác
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh
tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố
đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết
quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên khi những biến động của tình hình
kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy để có được sự đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động
của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét cả thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan.
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
[3,tr38]
1.4.1. Phân tích tình hình tài sản – nguồn vốn
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp
luôn biến động tăng hoặc giảm thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Khi phân tích cơ
9
cấu và những biến động của tài sản và nguồn vốn, chúng ta có thể đánh giá được một
cách tổng quát về tình hình đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.4.1.1. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động tài sản:
Tổng tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định, ta
cũng biết tài sản nhiều hay ít, tăng hay giảm nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Sự biến chuyển của tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn ảnh hưởng tới khả năng
ứng phó với khoản nợ ngắn hạn.
- Sự biến động của hàng tồn kho chịu ảnh hưởng bởi hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
- Sự biến động của các khoản phải thu chi chịu ảnh hưởng bởi công việc thanh
toán và chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng lớn tới việc quản lý
và sử dụng vốn.
- Sự biến động của TSDH cho thấy quy mô và năng lực sản xuất của
doanh nghiệp.
1.4.1.2. Phân tích cơ cấu và tình hình biến động nguồn vốn:
So sánh tổng nguồn vốn và từng loại nguồn vốn giữa số liệu cuối kỳ với đầu kỳ
về cả số tuyệt đối và số tương đối. Bên cạnh đó là sự so sánh tỷ trọng từng loại nguồn
vốn trong tổng tài sản để xác định khoản mục nào chiếm tỷ trọng cao nhất. Doanh
nghiệp tài trợ cho hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay hay VCSH? Nếu VCSH
chiếm tỷ trọng trong tổng nguồn vốn cao và có xu hướng tăng cho thấy khả năng tự
đảm bảo tài chính của doanh nghiệp và ngược lại.
1.4.2. Phân tích tình hình tạo vốn và sử dụng vốn
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài
sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm mục đích kiếm lời. Chính vì vậy, huy động vốn và sử dụng nguồn vốn là vô
cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Trong phân tích tình hình tạo vốn và sử
dụng vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử
dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng
cân đối kế toán. Sử dụng vốn và tạo lập vốn có tác động qua lại với nhau, sử dụng vốn
có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tạo lập vồn của doanh nghiệp, tạo lập vốn là cơ
sở để có các quyết định sử dụng vốn. Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng khả
năng tạo thêm vốn thông qua hoạt động của chính bản thản thân doanh nghiệp. Tùy
theo đặc điểm doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các
10
Thang Long University Library
phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nguồn vốn có thể được huy động từ tín dụng
ngân hàng, tín dụng thương mại hoặc vay thông qua phát hành trái phiếu hoặc từ
chính nguồn vốn chủ sở hữu và lợi nhuận chưa phân phối.
Việc xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng nguồn vốn
của doanh nghiệp trong một thời kỳ giữa các bảng cân đối kế toán được thể hiện thông
qua bảng tài trợ báo cáo nguồn tiền và sử dụng tiền. Bảng tài trợ giúp nhà quản lý xác
định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Để lập được biểu
này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu
kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn
theo nguyên tắc:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các mục bên nguồn vốn giảm thì điều
đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng
thì điều đó thể hiện việc tạo vốn.
Doanh nghiệp tạo nguồn tiền theo hai cách giảm các khoản tài sản như dự trữ
tiền, các khoản phải thu khách hàng, giảm hàng tồn kho để tăng nguồn vốn cho doanh
nghiệp hoặc tăng nguồn vốn từ việc tăng nợ phải trả nhằm tận dụng nguồn vốn từ nhà
cung cấp, tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu, tăng nguồn lợi nhuận không chia. Mặt
khác, doanh nghiệp lại dùng vốn tạo lập được để tăng lượng tiền mặt dự trữ, đầu tư
vào hàng tồn kho, cấp tín dụng cho khách hàng, nộp thếu cho nhà nước, chia lợi nhuận
cho cổ đông,….
1.4.3. Phân tích cân đối tài sản – nguồn vốn
Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị
tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối
quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa
nguồn vốn doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự
trữ, sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không.
1.4.3.1. Cân đối tài sản – nguồn vốn theo ngắn hạn
Nhu cầu vốn lưu động ròng có liên quan đến một dãy các hoạt động có tính tuần
hoàn ở đơn vị như: quá trình cung ứng, sản xuất, và tiêu thụ trong các doanh nghiệp
sản xuất, hay quá trình thu mua, dự trữ và bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại.
Trong dãy hoạt động có tính tuần hoàn đó, nhu cầu tài trợ ngắn hạn còn tính đến các
khoản phải thu khác trong quá trình kinh doanh (tạm ứng, trả trước nhà cung cấp,
khoản phải thu nội bộ...) và các nguồn vốn tạm thời khác thay đổi cùng với qui mô
11
hoạt động của doanh nghiệp (nợ lương, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã hội, nợ phải trả nội
bộ...). Chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng một cách tổng quát được tính như sau:
Nhu cầu vốn lƣu động ròng = Hàng tồn kho + Các khoản phải thu (ngắn
hạn) – Các khoản phải trả (ngắn hạn, không vay).
1.4.3.2. Cân đối tài sản – nguồn vốn theo dài hạn
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ TSNH tại thời điểm lập bảng
cân đối kế toán. Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động và đầu tư
ngắn hạn với nguồn vốn tạm thời. Vốn lưu động ròng là chỉ tiêu phản ánh số vốn tối
thiểu mà doanh nghiệp được sử dụng để duy trì những hoạt động diễn ra thường xuyên
tại doanh nghiệp. Với số vốn lưu động ròng này, doanh nghiệp có khả năng đảm bảo
chi trả các khoản chi tiêu mang tính chất thường xuyên cho các hoạt động diễn ra mà
không cần vay mượn hay chiếm dụng bất kỳ một khoản nào khác.
Có hai phương pháp tính vốn lưu động ròng của doanh nghiệp:
Vốn lƣu động ròng là phần chênh lệch giữa nguồn vốn thƣờng xuyên và giá
trị TSDH
Vốn lƣu động ròng = Nguồn vốn thƣờng xuyên – Tài sản cố định ròng
Chỉ tiêu này cho biết nguồn hình thành của vốn lưu động ròng thể hiện cân bằng
giữa nguồn vốn ổn định với những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ
kinh doanh hoặc trên một năm. Chỉ tiêu này thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay
còn gọi là phân tích bên ngoài về vốn lưu động. Ở một khía cạnh khác, vốn lưu động
ròng thể hiện phương thức tài trợ TSCĐ, tác động của kỳ đầu tư lên cân bằng tài chính
tổng thể.
Vốn lƣu động ròng đƣợc tính là phần chênh lệch giữa TSLĐ với nợ ngắn
hạn
Vốn lưu động ròng = TSLĐ – Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này thể hiện một phần tình hình sử dụng vốn lưu động ròng: vốn lưu
động được phân bổ vào các khoản phải thu, hàng tồn kho, hay các khoản có tính thanh
khoản cao. Nó nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ở doanh
nghiệp. Chính vì vậy, phân tích cân bằng tài chính qua chỉ tiêu và cách tính này nhấn
mạnh đến phân tích bên trong.
Phân tích cân bằng tài chính có ba trường hợp:
Trƣờng hợp 1: Vốn lƣu động ròng > 0
12
Thang Long University Library
Tài sản ngắn hạn
Nguồn vốn tạm thời
Vốn lưu động ròng > 0
Tài sản dài hạn
Nguồn vốn thường xuyên
Toàn bộ tài sản dài hạn trong doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn
thường xuyên, hay nói cách khác nguồn vốn thường xuyên không chỉ tài trợ cho
TSDH mà một phần còn tài trợ cho TSNH. Đây là trạng thái cân bằng tốt nhất, doanh
nghiệp đạt trạng thái cân bằng ổn định lâu dài, bền vững. Nhưng nhược điểm là khi
doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn thường xuyên để tài trợ cho TSNH dẫn đến chi phí
sử dụng vốn cao.
Trƣờng hợp 2: Vốn lƣu động ròng = 0
Tài sản dài hạn
Nguồn vốn thường xuyên
Tài sản ngắn hạn
Nguồn vốn tạm thời
Trong trường hợp này, toàn bộ các khoản TSDH được tài trợ vừa đủ từ nguồn
vốn thường xuyên, doanh nghiệp đạt trạng thái cân bằng tài chính nhưng chưa mang
tính bền vững. Nếu vốn lưu động ròng có tính ổn định: thể hiện các hoạt động của
doanh nghiệp đang trong trạng thái ổn định. Khi phân tích thực trạng tài chính trong
trường hợp này cần nghiên cứu các nguồn tài trợ của doanh nghiệp.
Trƣờng hợp 3: Vốn lƣu động ròng < 0
Tài sản ngắn hạn
Nguồn vốn tạm thời
Vốn lưu động ròng < 0
Tài sản dài hạn
Nguồn vốn thường xuyên
Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không đủ để tài trợ cho TSDH,
phần thiếu hụt được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời hay các khoản nợ ngắn
hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này là không tốt vì doanh nghiệp luôn chịu
13
những áp lực về thanh toán nợ vay ngắn hạn. Doanh nghiệp cần phải có những điều
chỉnh dài hạn để tạo ra một cân bằng mới theo hướng bền vững.
cân bằng tài chính trong ngắn hạn. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và bất
lợi đối với doanh nghiệp.
Ngân quỹ ròng
Ngân quỹ ròng = Vốn lƣu động ròng – Nhu cầu vốn lƣu động ròng
Nếu ngân quỹ ròng > 0 tương đương với vốn lưu động ròng > nhu cầu vốn lưu
động ròng. Doanh nghiệp đạt trạng thái cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn,
trong trường hợp này doanh nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu
vốn lưu động ròng, số tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào chứng khoán để sinh lời.
Nếu ngân quỹ ròng = 0 đây là dấu hiệu mất cân bằng tài chính, toàn bộ các
khoản vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn được tài trợ bằng nguồn vay ngắn hạn, điều
này có nghĩa vốn lưu động ròng vừa đủ để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ròng.
Nếu ngân quỹ ròng < 0 điều này chứng tỏ vốn lưu động ròng không đủ tài trợ
cho nhu cầu vốn lưu động ròng, hay ngân quỹ ròng là một số âm, doanh nghiệp mất
cân bằng tài chính trong ngắn hạn. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và bất
lợi đối với doanh nghiệp.
1.4.4. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh dựa vào BCKQKD, bảng báo cáo này
phản ánh tổng hợp tình hình doanh thu và chi phí, cũng như kết quả hoạt động kinh
doanh theo từng loại trong một thời kỳ kế toán và tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước. Báo cáo cung cấp đầy đủ những thông tin về doanh thu, chi phí và kết quả
các hoạt động cơ bản trong doanh nghiệp như hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động tài chính và các hoạt động khác. Thông qua đó thấy được cơ cấu về doanh thu,
chi phí hay kết quả của từng hoạt động có phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ kinh doanh
hay không, từ đó, giúp nhà quản trị đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh
nghiệp, biết được trong kỳ kinh doanh doanh ngiệp lãi hay lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu và vốn là bao nhiêu, tính toán được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ
trước và dự đoán tốc độ tăng trong tương lai...
1.4.5. Phân tích lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm 3 phần chính:
- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Phần này cho các
nhà đầu tư biết dòng tiền chảy ra và chảy vào doanh nghiệp qua hoạt động sản xuất
kinh doanh chính của doanh nghiệp. (Nếu chỉ số này >0 cho thấy hoạt động sản xuất
14
Thang Long University Library
kinh doanh của công ty đang mang lại mức tăng của tiền. Ngược lại, chỉ số này <0 cho
thấy hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra mức giảm của tiền).
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Phần này cung cấp cho nhà đầu tư các
thông tin về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong năm tài chính. Nó sẽ chỉ ra rằng
doanh nghiệp có đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hay không và mức
đầu tư có phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp hay không. (Nếu chỉ số này >0 cho
thấy hoạt động đầu tư đang mang lại mức tăng của tiền, điều này thể hiện công ty
đang tập trung đầu tư ngắn hạn, thu được lợi nhuận ngay trong một kì kế toán. Ngược
lại, chỉ số này <0 cho thấy hoạt động đầu tư tạo ra mức giảm của tiền, thể hiện công ty
đang đầu tư dài hạn cho cơ sở hạ tầng, TSCĐ...).
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: Phần này cung cấp cho nhà đầu tư
những thông tin về các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Những hoạt động này
bao gồm các hoạt động ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Ví dụ như các
hoạt động vay vốn, huy động vốn.(Nếu chỉ số này >0 cho thấy hoạt động tài chính
đang mang lại mức tăng của tiền. Ngược lại, chỉ số này <0 cho thấy hoạt động tài
chính tạo ra mức giảm của tiền. Chỉ tiêu này âm hay dương không hoàn toàn phụ
thuộc vào quy mô của các hoạt động vay vốn và huy động vốn, mà còn phụ thuộc vào
thời hạn của các hoạt động cho vay, và huy động vốn, trong một kì kế toán hay sang
một kì khác ).
Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ (còn gọi là phân tích ngân lưu) là công việc
quan trọng, ngày càng chiếm nhiều công sức và thời gian của các nhà quản trị, các
giám đốc tài chính. Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là cung cấp các thông tin
thích hợp về các dòng tiền chi ra (outflows) và dòng tiền thu vào (inflows) trong các
hoạt động của một doanh nghiệp trong một kỳ kế toán. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
đóng một vai trò quan trọng đối với cả những người sử dụng thông tin kế toán bên
trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Phương trình cân đối của dòng tiền trong
doanh nghiệp:
Tiền tồn đầu kỳ + Tiền thu trong kỳ = Tiền chi trong kỳ + Tiền tồn cuối kỳ
Trong hoạt động đầu tư khi phân tích và đánh giá một doanh nghiệp. các nhà đầu
tư thường quan tâm chú trọng đến các chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp và thường
bỏ qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lại là một kênh thông tin
hết sức quan trọng cung cấp cho các nhà đầu tư bức tranh toàn cảnh về hoạt động của
các doanh nghiệp và chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp đó.
Các thông tin chính mà báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho nhà đầu tư bao
gồm các thông tin sau:
15
- Thông tin về các khoản tiền mặt mà doanh nghiệp đã nhận và đã chi ra trong
năm tài chính.
- Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều nghiệp vụ phát sinh về thanh toán, từ
đó thể hiện được khả năng thanh toán của doanh nghiệp: thanh toán đúng hạn, khả
năng thanh toán được gia tăng hay bị giảm đi, hệ số thanh toán cao hay thấp, đánh giá
khả năng thanh toán nợ gốc và lãi, khả năng trả lãi tiền.
- Đánh giá khả năng đầu tư bằng tiền nhàn rỗi qua việc doanh nghiệp mua cổ
phiếu, trái phiếu, cho vay … trong kỳ kế toán.
- Ngoài ra báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cho các nhà đầu tư tìm ra
các hướng giải quyết để tránh tình trạng thiếu tiền và do đó củng cố hoạt động tín
dụng.
Trong phân tích tài chính thì việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là không
thể bỏ qua và bước phân tích này sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ được giá trị doanh
nghiệp. Nếu bỏ qua bước phân tích này các nhà đầu tư sẽ dễ dàng bị qua mặt bởi các
báo cáo lợi nhuận tốt đẹp mà không hiểu được tính bền vững của các lợi nhuận này.
1.4.6. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính
1.4.6.1. Phân tích chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số thanh toán
nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được dùng để đánh giá khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn trả. Hệ số này cho biết, bình quân một đồng nợ
ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là những
khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh
doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản
phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho, tài sản ngắn hạn khác. Nếu trị số của chỉ tiêu này xấp
xỉ, lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, nếu chỉ số này <
1, doanh nghiệp không bảo đảm đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn. Trị số của chỉ
tiêu này càng nhỏ hơn 1, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng
thấp.
Theo thời gian, hệ số này có thể thay đổi. Nếu hệ số này tăng, thì đây là biểu
hiện tốt của tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao chứng tỏ mức sử
dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thấp. Điều này sẽ khiến mức tiết kiệm từ lá chắn
16
Thang Long University Library
thuế doanh nghiệp có được không cao. Đồng thời, lợi nhuận của doanh nghiệp không
được khuếch đại mạnh mẽ do doanh nghiệp không tận dụng được lợi thế của đòn bẩy
tài chính.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh
toán nhanh
Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp được đo lường bằng mức độ thanh
khoản của các loại tài sản; tính thanh khoản của một loại tài sản là khả năng nhanh
chóng chuyển đổi thành tiền mà không làm giảm đáng kể giá trị của tài sản đó. Vì
hàng tồn kho của doanh nghiệp ít nhất phải qua quá trình tiêu thụ mới có thể chuyển
thành tiền, chưa nói là không tiêu thụ được, hàng ứ đọng kém phẩm chất, vì vậy tính
thanh khoản của nó thấp. Để đánh giá khắt khe hơn về khả năng thanh toán của doanh
nghiệp ta sử dụng tỷ số thanh khoản nhanh; tỷ số này cho biết bình quân một đồng nợ
ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn nhưng không bao gồm
hàng tồn kho. Hệ số này ≥ 1 thì được đánh giá là an toàn vì công ty có thể trang trải
các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải bán hàng tồn kho. Hệ số này càng cao thì
càng được đánh giá tốt. Tuy nhiên giống như hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của
hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán các món nợ
trong kỳ.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số thanh toán
tức thời
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết, với lượng tiền và tương đương tiền hiện có, doanh nghiệp có
đủ khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn, đặc biệt là nợ ngắn hạn đến hạn không.
Do tính chất tiền và tương đương tiền nên khi xác định khả năng thanh toán tức thời,
ta phải so sánh với các khoản nợ có thời hạn thanh toán trong vòng 3 tháng.
Tỷ lệ này thường dao động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, để kết luận giá trị của hệ số
thanh toán tức thời là tốt hay xấu, có ảnh hưởng gì đến hoạt động của doanh nghiệp
hay không thì cần xem xét đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
1.4.6.2. Phân tích chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (ROS)
17
Lợi nhuận sau thuế
ROS
=
Doanh thu thuần
Tỷ số này cho biết bình quân 100 đồng doanh thu thuần thì tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ số này cao hay thấp là phụ thuộc vào tình hình tiêu thụ
sản phẩm, giá cả của sản phẩm, chiến lược tiêu thụ của doanh nghiệp; khả năng quản
lý các loại chi phí của doanh nghiệp như chi phí sản xuất, chi phí quản lý doanh
nghiệp, chi phí bán hàng. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy công tác quản lý chi phí càng
tốt, điều này giúp nhà quản trị đưa ra các mục tiêu để mở rộng thị trường, tăng doanh
thu, xem xét các yếu tố chi phí ở bộ phận để tiết kiệm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA)
Lợi nhuận sau thuế
ROA
=
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp bỏ ra 100 đồng tài sản
đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao, cho thấy
doanh nghiệp sử dụng tài sản tốt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn
Tỷ suất sinh lời trên
tài sản ngắn hạn
Lợi nhuận sau thuế
=
Tài sản ngắn hạn
Tỷ suất sinh lời trên tài sản dài hạn
Tỷ suất sinh lời trên
tài sản dài hạn
Lợi nhuận sau thuế
=
Tài sản dài hạn
Hai chỉ tiêu trên cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng tài sản
ngắn hạn (dài hạn) thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Lợi nhuận sau thuế
ROE
=
Vốn CSH
Đối với chủ sở hữu thì tỷ số quan trọng nhất đối với họ là doanh lợi vốn chủ sở
hữu. Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu; tỷ số này cho biết
bình quân một trăm đồng vốn chủ sở hữu thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
18
Thang Long University Library
thuế. Mong muốn của các chủ sở hữu là làm cho tỷ số này càng cao càng tốt, khả năng
sinh lời của vốn chủ sở hữu cao hay thấp phụ thuộc vào tính hiệu quả của việc sử dụng
vốn và mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp việc sử
dụng vốn của doanh nghiệp là hiệu quả, đồng thời mức độ tài trợ bằng nợ cao thì lúc
đó doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ rất cao. Ngược lại, nếu việc sử dụng vốn không hiệu
quả đến mức lợi nhuận không đủ chi trả lãi vay thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính
trong trường hợp này là gây tổn thất cho chủ sở hữu, thậm chí là mất khả năng chi trả.
1.4.6.3. Phân tích chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý tài sản của công ty
Tính hiệu quả của một hoạt động được xác định bằng kết quả đầu ra trên kết quả
đầu vào của nó, như vậy ta không thể căn cứ vào kết quả đạt được mà đánh giá hoạt
động đó là có hiệu quả. Nếu kết quả đầu ra trên một lượng đầu vào xác định càng lớn
thì càng hiệu quả. Do đó, một doanh nghiệp đầu tư vào tài sản của mình (nguồn lực
đầu vào) để tạo ra doanh thu và lợi nhuận (kết quả đầu ra), doanh nghiệp nào càng tạo
ra nhiều doanh thu và lợi nhuận từ một khoản đầu tư vào tài sản thì doanh nghiệp đó
hoạt động càng có hiệu quả. Thông qua việc phân tích các tỷ số thể hiện khả năng hoạt
động ta sẽ thấy được mức độ khai thác các nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp, từ đó
chúng ta sẽ đánh giá được việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý,
tiết kiệm và hiệu quả hay không.
Phân tích tốc độ luân chuyển khoản phải thu
Trong chu trình luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp, bắt đầu từ Tiền
=> Hàng tồn kho => Khoản phải thu => Tiền. Như vậy ta thấy rằng, nếu doanh nghiệp
sử dụng hiệu quả hàng tồn kho trong khi hiệu quả sử dụng vốn lưu động thấp là
chuyện bình thường. Điều này muốn nói lên rằng, nếu như doanh nghiệp đầu tư quá
nhiều vào khoản phải thu, có nhiều khoản phải thu đã quá hạn, trong khi mức độ hoạt
động của doanh nghiệp lớn, lớn hơn tốc độ thu tiền về thì bắt buộc doanh nghiệp phải
huy động nguồn vốn khác để đầu tư vào hàng tồn kho chứ không phải tiền trong chu
trình. Trong trường hợp này thì rõ ràng là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
thấp, biểu hiện tình hình tài chính không lành mạnh, khả năng thanh toán chắc chắn sẽ
khó khăn. Như vậy, hiệu quả sử dụng các khoản phải thu là góp phần cho hiệu quả sử
dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng các khoản phải
thu thì ta sử dụng các tỷ số như vòng quay các khoản phải thu và kỳ thu tiền bình
quân.
Vòng quay các khoản phải thu
19
Số vòng quay khoản
=
phải thu
Doanh thu thuần
Khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu thể hiện trong kỳ doanh nghiệp đã thu tiền được
mấy lần từ doanh thu bán chịu của mình. Như vậy, thông qua số vòng quay các khoản
phải thu thì ta sẽ thấy được tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp, số vòng quay các
khoản phải thu càng lớn thì chứng tỏ tộc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp càng cao,
giảm bớt vốn bị chiếm dụng, đảm bảo khả năng thanh toán bằng tiền, tái đầu tư vào
hoạt động SXKD, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, nếu số vòng
quay khoản phải thu nhỏ thì cho thấy khả năng thu hồi nợ của doanh nghiệp thấp hoặc
tốc độ thu hồi nợ nhỏ hơn so với tốc độ tăng doanh thu bán chịu, điều này làm cho khả
năng thanh toán bằng tiền thấp, có nguy cơ không thu hồi được nợ và hiệu quả sử
dụng vốn thấp.
Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền
bình quân
=
360
Số vòng quay các khoản phải thu
Tương tự như số vòng quay các khoản phải thu, kỳ thu tiền bình quân cũng
được dùng để đánh giá tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp; kỳ thu tiền bình quân phản
ánh rằng bình quân bao nhiêu ngày thì doanh nghiệp thu được tiền một lần. Như vậy,
nếu số ngày thu tiền bình quân càng nhỏ thì chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ của doanh
nghiệp cao và ngược lai.
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản
Hiệu suất sử dụng
tổng tài sản
Doanh thu thuần
=
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu phản ánh một cách toàn diện về hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp, nó cho ta thấy tính hợp lý trong việc phân bổ tài sản, trình độ quản lý
tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số này cho thấy, bình quân một đồng tài sản tạo ra được
bao nhiêu đồng doanh thu, nếu tỷ số này càng lớn thì hiệu quả sử dụng tài sản càng
cao, góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu tỷ số này quá cao thì chứng
tỏ rằng doanh nghiệp đang sử dụng hết công suất các nguồn lực đầu vào của mình, vì
vậy khó mà tăng thêm nếu không đầu tư thêm tài sản.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -