CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
“Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các
khái niệm phương pháp và công cụ để thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả
năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết
định tài chính.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo
tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp
công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau,
vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét chi tiết hoạt động tài
chính doanh nghiệp, để phân tích năng lực, vị thế tài chính của công ty trong hiện tại
và tương lai từ đó đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.”
[2, tr.66]
Phân tích tình hình tài chính là vấn đề hết sức quan trọng trong việc đánh giá tình
hình doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích tài chính cho phép đánh giá được khái
quát và toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp, thấy rõ những điểm mạnh,
những điểm yếu và những tiềm năng của doanh nghiệp.
Để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích
thường kết hợp sử dụng nhiều công cụ phương pháp mang tính nghiệp vụ - kỹ thuật
khác nhau như phân tích so sánh, phân tích tỷ lệ, phân tích Dupont, phân tích quy mô
và cơ cấu, phân tích các nhân tố thành phần, phân tích xu hướng… Mỗi một phương
pháp có những tác dụng khác nhau và được sử dụng trong từng nội dung phân tích
khác nhau. Phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp bao hàm nhiều nội
dung khác nhau tùy thuộc vào mục đích phân tích. Tuy nhiên khi phân tích tình hình
tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân tích về cơ bản luôn chú trọng những nội
dung chủ yếu, những nội dung mang tính khái quát, tổng hợp, phản ánh những nét
chung nhất thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp như là: đánh giá khái quát
tình hình tài chính, phân tích cơ cấu và sự biến động của vốn – nguồn vốn, phân tích
tình hình huy động vốn, mức độ độc lập tài chính và khả năng thanh toán, phân tích
tình hình lưu chuyển tiền tệ, phân tích hiệu quả sử dụng vốn, khả năng sinh lời, phân
tích rủi ro tài chính và dự báo nhu cầu sử dụng vốn. Đánh giá phân tích tình hình tài
chính được dựa trên các dữ liệu tài chính trong quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp,
các dữ liệu tài chính này chính là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm:
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền
1
Thang Long University Library
tệ, bản thuyết minh báo cáo tài chính để tính toán và xác định các chỉ tiêu tài chính
phản ánh thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. Từ đó giúp cho các nhà
quản lý nhìn nhận đúng đắn tình hình hiện tại của tài chính doanh nghiệp nhằm đưa ra
các quyết định tài chính hữu hiệu. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra khi đánh giá tình hình tài
chính là phải chính xác và toàn diện. Có đánh giá chính xác thực trạng tình hình tài
chính của doanh nghiệp trên tất cả các mặt mới giúp các nhà quản lý đưa ra các quyết
định hiệu quả, phù hợp với tình trạng hiện tại của doanh nghiệp và định hướng phát
triển trong tương lai. Việc đánh giá chính xác và toàn diện còn giúp các nhà quản lý có
các kế sách thích hợp để nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp chính là việc sử dụng một tập hợp
các khái niệm, phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích theo một hệ thống nhất
định để thu thập, xử lý các số liệu trên báo cáo tài chính, các chỉ tiêu và mối quan hệ
giữa các dữ liệu đó. Chúng ta thực hiện quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh số liệu tài chính hiện hành với quá khứ, thông qua đó người sử dụng thông tin
đánh giá đúng tình hình, kết quả của việc quản lý và điều hành tài chính của doanh
nghiệp, nắm vững tiềm năng, xác định chính xác hiệu quả kinh doanh cũng như những
rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Từ đó giúp người sử dụng thông
tin đưa ra các quyết định quản lý và tài chính phù hợp, đưa ra các dự báo và các kết
luận hữu ích trong phân tích hoạt động kinh doanh, phân tích những gì đã làm được,
những gì làm chưa được và dự đoán những gì sẽ xảy ra đồng thời tìm ra nguyên nhân,
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó
đề ra các biện pháp tận dụng những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu và nâng
cao chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn
tại và phát triển trên thị trường.
1.2. Vai trò và mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
“Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp không phải chỉ cung cấp những thông
tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp nhằm giúp họ đánh giá khách quan về sức mạnh
tài chính của doanh nghiệp, khả năng sinh lời và triển vọng phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, mà còn cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin ngoài
doanh nghiệp, như: các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các nhà cung cấp, các chủ nợ, các
cổ đông hiện tại và tương lai, các khách hàng, các nhà quản lý cấp trên, các nhà bảo
hiểm, người lao động và cả các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế... mỗi đối tượng
quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Đối với
chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là
khả năng phát triển, tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp do đó họ quan
2
tâm với mọi hoạt động. Đối với chủ Ngân hàng và các chủ nợ khác, mối quan tâm chủ
yếu của họ là đánh giá khả năng thanh toán, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của
doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác, họ quan tâm tới cá yếu tố rủi ro, lãi suất,
khả năng thanh toán… Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp đã niêm yết trên thị trường
chứng khoán thì việc cung cấp và phân tích những thông tin về tình hình tài chính một
cách chính xác và đầy đủ cho các nhà đầu tư là một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, giúp họ lựa chọn và ra các quyết định đầu tư có hiệu quả nhất.” [2, trg.66-67]
- Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp thì mối quan tâm
hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra còn có các mục
tiêu khác như nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo công ăn việc làm…Nhà quản trị tài
chính phải đánh giá tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Lấy đó làm cơ sở để đưa ra
các dự báo, định hướng các quyết định thích hợp không chỉ trong vấn đề tài chính mà
còn nhiều vấn đề khác, đưa ra các quyết định đúng đắn cho sự phát triển của doanh
nghiệp. Thêm vào đó phân tích tài chính nhằm kiểm soát các mặt hoạt động doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp quản lý thích ứng để thực hiện các mục
tiêu của doanh nghiệp.
- Đối với Ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng, các đối tác kinh doanh và các tổ
chức khác mối quan tâm chủ yếu của họ là khả năng thanh toán công nợ, khả năng hợp
tác liên doanh của doanh nghiệp, cho nên cần phân tích và đánh giá tình trạng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các chủ nợ họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền
và các loại tài sản có tính thanh khoản cao để biết được khả năng thanh toán tức thời,
khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp nếu đó là khoản vay ngắn hạn, đối với
các khoản vay dài hạn họ phải đánh giá khả năng hoàn trả khi xem xét khả năng sinh
lời của doanh nghiệp. Và một điều quan trọng không thể thiếu đó là xem xét cơ cấu tài
chính biểu hiện mức độ mạo hiểm khi cho vay. Đối với nhà đầu tư, họ quan tâm đến
lợi nhuận bình quân vốn của Công ty, khả năng phát triển của doanh nghiệp, từ đó đưa
ra quyết định đầu tư vào Công ty. Các đối tác kinh doanh thì họ xem xét đến khả năng
hợp tác của doanh nghiệp thông qua tình hình chấp hành các chế độ khả năng, tiềm
năng kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
- Đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp họ quan tâm đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp bởi vì lợi ích của họ gắn liền với hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Cả người đang làm việc và người đi tìm việc họ đều có nguyện vọng
làm việc trong các Công ty có triển vọng với tương lai lâu dài để hy vọng có mức
lương xứng đáng với chỗ làm việc ổn định do đó họ quan tâm đến các thông tin và số
liệu tài chính để đánh giá, xem xét triển vọng của nó trong tương lai. Bên cạnh đó các
cơ quan thuế, nhà cung cấp, cảnh sát kinh tế, luật sư…dù họ công tác ở các lĩnh vực
3
Thang Long University Library
khác nhau nhưng họ đều rất quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp để thực
hiện tốt hơn công việc của mình.
1.3. Các phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp
nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và
chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, người ta thường dùng
các phương pháp chủ yếu như: phương pháp tỷ lệ, phương pháp so sánh, phương pháp
Du Pont.
1.3.1. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính vì nó dựa trên
ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự
biến đổi các tỷ lệ là sự biến đổi của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương
pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá
tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá
trị các tỷ lệ tham chiếu.
Phương pháp tỷ lệ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách có hệ thống hàng loại tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo
từng giai đoạn. Qua đó nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân
thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ
về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng
sinh lời.
Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán: ba hệ số thông dụng được sử dụng để xác
định khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm hệ số thanh toán hiện hành, hệ số
thanh toán nhanh, hệ số thanh toán tức thời; Nhóm tỷ lệ này được sử dụng để đánh giá
khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp; Nó có tầm quan
trọng to lớn trong việc đánh giá các rủi ro chứng khoán của doanh nghiệp; Các tỷ số
này giúp ta đánh giá sức mạnh tài chính của doanh nghiệp. Nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn
bao gồm: hệ số tự trả nợ, hệ số đòn bảy tài chính, hệ số tài sản cố định, tỷ số nợ trên tài
sản…; qua chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động kinh doanh: bao gồm vòng quay tổng tài sản, vòng
quay vốn lưu động, chu kỳ hàng tồn kho, kỳ thu tiền trung bình…; Đây là nhóm chỉ
tiêu đặc trưng cho việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp. Nhóm tỷ lệ về khả năng
4
sinh lời: Nhóm tỷ lệ này cho biết lợi nhuận đạt được từ doanh thu hoặc từ tài tài sản,
nó phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
Nhóm tỷ lệ này bao gồm tỷ suất lợi nhuận gộp, tỷ suất sinh lời (ROA), tỷ suất sinh lời
vốn chủ sở hữu (ROE).
Mỗi nhóm tỷ lệ bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt
động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tùy theo giác độ phân tích, người phân
tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình.
Chọn đúng các tỷ số và tiến hành phân tích chúng, chắc chắn ta sẽ phát hiện được tình
hình tài chính. Phân tích tỷ số cho phép phân tích đầy đủ khuynh hướng vì một số dấu
hiệu có thể được kết luận thông qua quan sát số lớn các hiện tượng nghiên cứu riêng
rẽ. [2, trg.69-70]
1.3.2. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính, nó sử
dụng con số về một chỉ tiêu so sánh giữa các thời kỳ với nhau để từ đó đánh giá kết
quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng
phương pháp so sánh cần phải đảm bảo đủ các điều kiện có thể so sánh được các chỉ
tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính
toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn
là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo
hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối
hoặc số bình quân; nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước và số kỳ gốc, hệ số
kỳ này với hệ số kỳ trước và hệ số kỳ gốc của doanh nghiệp, qua đó thấy rõ xu hướng
thay đổi về tình tình tài chính doah nghiệp. Đây là phương pháp khá chính xác trong
việc đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh
nghiệp rồi từ đó có những quyết định để doanh nghiệp có thể hoàn thành xuất sắc mọi
kế hoạch đề ra trong tương lai.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của
khu vực, của các doanh nghiệp khác để đánh giá thực trạng tình hình tài chính của
doanh nghiệp hoặc so sánh với doanh nghiệp tiên tiến trong ngành để rút ra những
nhận định về tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, xác định được vị
trí hiện tại của doanh nghiệp rồi từ đó đưa ra các quyết định tài chính phù hợp.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể rồi
so sánh các tỷ trọng đấy qua các năm để thấy được kết cấu, mối quan hệ, mức độ phổ
biến, xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế, từ đó đưa ra các nhận xét, đánh giá
5
Thang Long University Library
hoạt động tài chính của doanh nghiệp. So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy
được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các
niên độ kế toán liên tiếp. So sánh bằng số tuyệt đối các nhà phân tích sẽ thấy rõ được
sự biến động về quy mô nghiên cứu giữa kỳ phân tích với kỳ gốc; so sánh bằng số
tương đối thấy được tốc độ phát triển, mức độ thực hiện trong kỳ phân tích của doanh
nghiệp đạt bao nhiêu phần so với kỳ gốc. Từ đó giúp đánh giá khái quát tình hình biến
động hay tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu tài chính, đánh giá từ tổng quát đến chi
tiết để phân tích xác định được khả năng tiềm tàng, rủi ro và nguyên nhân của sự biến
động đấy.
Tóm lại phương pháp so sánh là phương pháp phổ biến và được sử dụng rộng rãi
trong phân tích kinh tế nói chung và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nói
riêng. Mục đích của so sánh là làm rõ sự khác biệt, những biến động hay những đặc
trương riêng biệt vốn có của đối tượng nghiên cứu. Từ đó, giúp cho các đối tượng
quan tâm có căn cứ để đưa ra quyết định lựa chọn. [2, trg.68-69]
1.3.3. Phương pháp phân tích tài chính Du Pont (phân tích mối quan hệ tương tác
giữa các hệ số tài chính)
Mức sinh lời của vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là kết quả của tổng hợp của
hàng loạt biện pháp và quyết định quản lý của doanh nghiệp. Để thấy được sự tác động
của mối quan hệ giữa việc tổ chức, sử dụng vốn và tổ chức tiêu thụ sản phẩm với mức
sinh lời của doanh nghiệp, người ta đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu để phân tích sự tác
động đó.
Những mối quan hệ chủ yếu được xem xét:
- Mối quan hệ tương tác giữa tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh với
hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn và tỷ suất lợi nhuận.
Mối quan hệ này đực xác lập như sau:
Lợi nhuận sau thuế
Tổng số vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thần
x
Doanh thu thần
Tổng số vốn kinh doanh
Như vậy, ta có:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên vốn kinh doanh
= Hệ số lãi ròng
x
Vòng quay toàn
bộ vốn
Xem xét mối quan hệ này, có thể thấy được tác động của yếu tố tỷ suất lợi nhuận
sau thuế trên doanh thu và hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn ảnh hưởng như thế nào đến
tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh. Trên cơ sở đó người quản lý doanh
nghiệp đề ra các biện pháp thích hợp để tăng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh
doanh.
6
- Các mối quan hệ tương tác với tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Có thể thiết lập các mối quan hệ sau:
Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận sau thuế
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng số vốn kinh
Tổng số vốn kinh doanh
x
Vốn chủ sở hữu
doanh
Trong công thức trên, tỷ số:
Tổng số vốn kinh doanh
Vốn chủ sở hữu
Được gọi là thừa số vốn chủ sở hữu và thể hiện mức độ sử dụng đòn bảy tài
chính của doanh nghiệp. Từ đó:
Tỷ suất lợi nhuận
vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên vốn kinh doanh
=
x
Mức độ sử dụng đòn
bảy tài chính
Từ các công thức trên ta có thể xác định tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu bằng
công thức sau:
Lợi nhuận sau
thuế
Vốn chủ sở
hữu
=
Lợi nhuận su
thuế
x
Doanh thu thần
Doanh thu
thuần
Tổng số vốn
kinh doanh
x
Tổng số vốn kinh
doanh
Vốn chủ sở hữu
Như vậy:
Tỷ suất lợi nhuận
vốn chủ sở hữu
=
Hệ số lãi
ròng
x
Vòng quay
toàn bộ vốn
x
Mức độ sử dụng
đòn bảy tài
chính
Qua công thức trên, cho thấy rõ các yếu tố chủ yếu tác động đến tỷ suất lợi nhuận
vốn chủ sở hữu trong kỳ, từ đó giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định và tìm
biện pháp khai thác các yếu tố tiềm năng để tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp. [3, trg.393-395]
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.4.1. Phân tích các báo cáo tài chính
1.4.1.1. Phân tích bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn
bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: Tài sản và nguồn vốn hình
thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán là bức ảnh tài chính của
doanh nghiệp tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán được lập theo nguyên tắc cân
đối:
7
Thang Long University Library
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Trong đó: Tổng tài sản = Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn
Tổng nguồn vốn = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
= Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Phân tích bảng cân đối kế toán là phân tích sự biến động của tài sản và nguồn
vốn. Bên cạnh đó phân tích các nhân tố tác động đến ảnh hưởng tài sản và nguồn vốn.
Từ đó đưa ra những biện pháp để cân đối tài sản và nguồn vốn, đảm bảo kinh doanh
hiệu quả.
“Dựa vào các chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản, có thể đánh giá khái quát quy
mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất với trình độ sử dụng vốn của
doanh nghiệp.” [1, trg.162]
Bảng 1.1. Bảng phân tích cơ cấu và biến động của tài sản
Đầu năm
Chỉ tiêu
Lượng
(1)
Tỷ
trọng
(%)
Cuối năm
Lượng
(2)
Tỷ
trọng
(%)
Chênh
Chênh lệch
lệch
tương đối
Tuyệt đối
(%)
(3)=(2)-(1) (4)=(3)/(1)
A. Tài sản ngắn hạn
I. Tiền và các khoản tương
đương tiền
II. Đầu tư tài chính ngắn hạn
III. Các khoản phải thu ngắn
hạn
IV. Hàng tồn kho
V. Tài sản ngắn hạn khác
B. Tài sản dài hạn
I. Các khoản phải thu dài hạn
II. Tài sản cố định
III. Bất động sản đầu tư
IV. Các khoản đầu tư tài
chính dài hạn
V. Tài sản dài hạn khác
(Nguồn: Tài chính doanh nghiệp [2, trg.75])
Đánh giá sự thay đổi các mục tài sản (về giá trị, tỷ trọng cơ cấu tài sản) qua các
năm; so sánh cơ cấu tài sản ngắn hạn, dài hạn của doanh nghiệp với cơ cấu tài sản
8
ngắn hạn, dài hạn chung của toàn ngành. Từ đó tìm hiểu sự thay đổi bất thường của
một số mục tài sản hoặc sự thay đổi chủ yếu của tài sản ở những mục nào, sự thay đổi
đó có hợp lý không. Việc làm này giúp cho người phân tích đánh giá được rủi ro,
những thay đổi không hợp lý. Chú ý khi đánh giá, nhận xét cần chú trọng đến đặc
điểm kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình thực tế trên thị trường và giai đoạn phát
triển của nền kinh tế.
“Dựa vào chỉ tiêu phản ánh trong phần nguồn vốn doanh nghiệp có thể cho biết
được cơ cấu của từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có. Đồng thời quan hệ
kết cấu này cũng giúp đánh giá tính tự chủ cũng như khả năng tự tài trợ về mặt tài
chính của doanh nghiệp.” [1, trg.162]
Bảng 1.2. Bảng phân tích cơ cấu và biến động của nguồn vốn
Đầu năm
Chỉ tiêu
Lượng
(1)
Tỷ
trọng
(%)
Cuối năm
Lượng
(2)
Tỷ
trọng
(%)
Chênh lệch
tuyệt đối
(3)=(2)-(1)
Chênh lệch
tương đối
(%)
(4)=(3)/(1)
A. Nợ phải trả
I. Nợ ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
I. Vốn chủ sở hữu
II. Nguồn kinh phí, quỹ
khác
Tổng nguồn vốn
(Nguồn: Tài chính doanh nghiệp [2, trg.75])
Tương tự như phân tích đánh giá sự thay đổi của tài sản, phân tích biến động của
các khoản mục nguồn vốn sẽ giúp ta thấy được sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của từng
khoản mục nguồn vốn qua các năm có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính,
tính tự chủ tài chính, khả năng vận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt
động sản xuất kinh doanh hay không và có phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất
kinh doanh của công ty mình hay không. Khi phân tích, nhận xét đánh giá tình hình
nguồn vốn cũng cần chú ý đến đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình thực
tế trên thị trường và giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Trong phân tích chung, trước hết phải quan sát các chỉ tiêu tổng hợp của bảng
cân đối kế toán thông qua sự thay đổi số đầu kỳ và cuối kỳ của tài sản và nguồn vốn
sau đó đánh giá sự thay đổi đó là tích cực hay tiêu cực để có định hướng đưa ra phân
9
Thang Long University Library
tích chi tiết và hoạch định những giải pháp trong quản lý và điều hành. Trước hết phải
so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa đầu kỳ và cuối kỳ. Sự thay đổi này
cho thấy quy mô tài sản tăng hay giảm, nguồn vốn tài trợ cho các tài sản đó được huy
động như thế nào. Tuy nhiên, việc tăng hay giảm số tổng cộng chưa thể biểu thị cho sự
hoạt động tích cực hay tiêu cực của doanh nghiệp một cách đầy đủ. Chính vì vậy,
ngoài việc so sánh sự thay đổi của các số tổng cộng, ta cần tiến hành tìm hiểu mối
quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán để nắm được một
cách đầy đủ thực trạng tài chính và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Thêm
vào đó, cần phải phân tích đánh giá mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn.
Mối quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn
doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng. Nếu TSNH > NNH thì đây là điều hợp
lý vì việc này thể hiện doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa TSNH và NNH.
Ngược lại, nếu TSNH < NNH điều này chứng tỏ doanh nghiệp không giữ vững quan
hệ cân đối giữa TSNH và NNH vì đây là dấu hiệu doanh nghiệp đã sử dụng một phần
nguồn vốn ngắn hạn vào TSDH. Nếu TSDH lớn hơn NDH và phần thiếu hụt được bù
đắp từ VCSH thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích
NDH và VCSH, nhưng nếu phần thiếu thiếu hụt được bù đắp bằng một phần NNH thì
lại là điều không hợp lý vì lúc này TSNH không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán NNH,
cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Nếu TSDH nhỏ hơn NDH điều
này chứng tỏ một phần NDH được sử dụng để tài trợ cho TSNH, việc làm này vừa dẫn
đến sự lãng phí chi phí lãi vay vừa thể hiện việc sử dụng sai mục đích của NDH, nó có
thể làm cho lợi nhuận kinh doanh giảm và làm rối loạn tài chính doanh nghiệp.
1.4.1.2. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh là phân tích các nhân tố như: doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, giá
vốn hàng bán, doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động
tài chính, lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần, lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế
qua các năm.
“Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể đánh giá khái quát lợi
nhuận của doanh nghiệp dựa trên các chỉ tiêu doanh thu, giá vốn hàng bán, lợi nhuận
gộp, lợi nhuận trước và sau thuế. Việc so sánh lợi nhuận của các kỳ kế toán liên tiếp
theo số tuyệt đối và số tương đối sẽ cho thấy xu hướng biến động của chỉ tiêu này.
Hơn nữa cũng có thể đánh giá sự biến đổi của cơ cấu lợi nhuận bằng cách so sánh tỷ
trọng lợi nhuận của từng hoạt động trong tổng số lợi nhuận qua các năm để xem xét
nguồn lợi nhuận chính của doanh nghiệp là do hoạt động nào mang lại.” [4, trg.221]
10
Bảng 1.3. Bảng phân tích kết quả kinh doanh
Đầu năm
Chỉ tiêu
Lượng
(1)
Cuối năm
Tỷ
trọng
(%)
Lượng
(2)
Tỷ
trọng
(%)
Chênh lệch
tuyệt đối
(3)=(2)-(1)
Chênh lệch
tương đối
(%)
(4)=(3)/(1)
1. Doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ
2. Các khoản giảm trừ
3. Doanh thu thuần
4. Giá vốn hàng bán
5. Lợi nhuận gộp về bán
hàng và cung cấp dịch vụ
6. Chi phí bán hàng
7. Chi phí quản lý
8. Lợi nhuận bán hàng và
cung cấp dịch vụ
9. Doanh thu hoạt động
tài chính
10. Chi phí tài chính
11. Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính
12. Thu nhập khác
13. Chi phí khác
14. Lợi nhuận khác
15. Tổng lợi nhuận trước
thuế
16. Thuế thu nhập doanh
nghiệp
17. Lợi nhuận sau thuế
(Nguồn: Tài chính doanh nghiệp [2, trg.76])
Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá sự
thay đổi, kết quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu kinh tế mà còn đi sâu nghiên cứu
các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu
đó. Phân tích nhân tố ảnh hưởng ở đây là nhân tố nào. Ví dụ như là do chính sách kinh
tế đất nước, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của đội ngũ công nhân
11
Thang Long University Library
viên… hay do những nhân tố chủ quan như: trình độ sử dụng lao động, vốn đầu tư, đất
đai…Từ đó đưa ra những nhận xét chung đồng thời tìm ra phương pháp hoạt động
hiệu quả.
1.4.1.3. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ phản ánh đầy đủ các dòng thu và chi tiền và tương đương tiền của
doanh nghiệp trong một niên độ kế toán. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp
là một kênh thông tin hết sức quan trọng cung cấp cho các nhà đầu tư bức tranh toàn
cảnh về hoạt động của các doanh nghiệp và chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp đó.
Các thông tin chính mà báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho nhà đầu tư bao gồm
các thông tin sau: Thông tin về các khoản tiền mặt mà doanh nghiệp đã nhận được và
đã chi ra trong năm tài chính, thông tin cụ thể về các hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính của doanh nghiệp, ngoài ra báo cáo lưu
chuyển tiền tệ của doanh nghiệp còn cho thấy tác động của các hoạt động của doanh
nghiệp lên tiềm lực tài chính của nó. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin
để các nhà đầu tư có thể đánh giá được khả năng thanh khoản, khả năng thanh toán và
mức độ linh hoạt tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm trả lời những câu hỏi: Doanh nghiệp
có tạo ra đủ tiền mặt để tài trợ cho hoạt động thường kì của nó không? Lượng tiền mặt
mà doanh nghiệp tạo ra có đủ để trả các khoản nợ khi chúng đến hạn hay không?
Doanh nghiệp hiện tại có cần thêm nguồn tài trợ nào không? Doanh nghiệp có đủ tiềm
lực tài chính để theo đuổi các cơ hội kinh doanh đến với nó hay không?
Trong phân tích tài chính thì việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là không
thể bỏ qua và bước phân tích này sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ được giá trị doanh
nghiệp. Nếu bỏ qua bước phân tích này các nhà đầu tư sẽ dễ dàng bị qua mặt bởi các
báo cáo lợi nhuận tốt đẹp mà không hiểu được tính bền vững của các lợi nhuận này.
1.4.2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính
1.4.2.1. Chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh
mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản
phải thanh toán trong kỳ. Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi
chúng đến hạn thanh toán, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau: hệ số khả
năng tanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời.
12
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời hay khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành
tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn. Vì thế, hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm
bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Hệ số này được tính bằng
cách lấy tổng TSNH chia cho số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp:
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =
Tổng tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Tổng TSNH bao hàm cả khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Số nợ ngắn hạn là
những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng bao gồm: Các khoản
vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải trả người lao động, nợ
dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác có thời hạn dưới 12 tháng.
Để đánh giá hệ số này cần dựa vào hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong
cùng ngành. Cần thấy rằng, hệ số này ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau có sự
khác nhau. Một căn cứ quan trọng để đánh giá là so sánh với hệ số thanh toán ở các
thời kỳ trước đó của doanh nghiệp.
Thông thường, khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp là
yếu và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà doanh
nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả
năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh
năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Do vậy, để đánh giá đúng hơn cần xem
xét thêm tình hình của doanh nghiệp. [3, trg.379]
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp,
được xác định bằng TSNH trừ đi hàng tồn kho và chia cho số nợ ngắn hạn. Ở đây,
hàng tồn kho bị loại trừ ra bởi lẽ trong tài sản ngắn hạn hàng tồn kho được coi là loại
tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Hệ số này được xác định bằng công thức sau:
Hệ số thanh toán nhanh =
Tổng tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
[3, trg.380]
- Hệ số thanh toán tức thời
Ngoài hai hệ số trên, để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp
người ta sử dụng chỉ tiêu hệ số thanh toán tức thời, được xác định bằng công thức sau:
13
Thang Long University Library
Hệ số thanh toán tức thời =
Tiền + Các khoản tƣơng đƣơng tiền
Nợ ngắn hạn
Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương
tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có
thể chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro. Hệ số này cho
biết khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền mặt hiện có của
doanh nghiệp. [3, trg.381]
1.4.2.2. Chỉ tiêu về đòn bảy tài chính
Đòn bẩy tài chính đề cập đến việc doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình bằng các khoản vay thay cho vốn cổ phần. Các phép đo đòn bẩy tài chính là
công cụ để xác định xác suất doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các hợp đồng nợ.
Trong thời kỳ khó khăn, các doanh nghiệp càng nợ nhiều thì càng có nguy cơ cao mất
khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Bên cạnh đó nợ lại là một dạng tài trợ tài chính
quan trọng và tạo lợi thế lá chắn thuế cho doanh nghiệp do lãi vay được tính như một
khoản chi phí hợp lệ và miễn thuế. Khi doanh nghiệp muốn vay nợ, các chủ nợ sẽ đánh
giá xem doanh nghiệp có vay quá nhiều hay không? Họ cũng xét xem doanh nghiệp có
duy trì nợ vay của mình trong hạn mức cho phép không?
- Tỷ số nợ trên tổng tài sản
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua tỷ số nợ cho thấy sự độc lập về
tài chính, mức độ sử dụng đòn bảy tài chính và rủi ro tài chính có thể gặp phải để từ đó
có sự điều chỉnh về chính sách tài chính phù hợp. Còn nhà đầu tư trên cơ sở đó cân
nhắc đến việc đầu tư.
Đối với các chủ nợ qua xem xét hệ số nợ của doanh nghiệp thấy được sự an toàn
của khoản cho vay để đưa ra các quyết định cho vay và thu hồi nợ.
Tỷ số nợ trên tổng tài sản đo lường mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp để tài
trợ cho tổng tài sản và được xác định bằng cách lấy tổng nợ chia cho tổng tài sản.
Tỷ số nợ
=
Tổng số nợ
Tổng tài sản
Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Tỷ
số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp là từ đi vay. Qua đây
biết được khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Tỷ số này mà quá nhỏ, chứng tỏ
doanh nghiệp vay ít. Điều này có thể hàm ý doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính
cao. Song nó cũng có thể hàm ý là doanh nghiệp chưa biết khai thác đòn bẩy tài chính,
tức là chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay. Ngược lại, tỷ số này mà cao
14
quá hàm ý doanh nghiệp không có thực lực tài chính mà chủ yếu đi vay để có vốn kinh
doanh. Điều này cũng hàm ý là mức độ rủi ro của doanh nghiệp cao hơn.
Khi dùng tỷ số này để đánh giá cần so sánh với tỷ số của một doanh nghiệp cá
biệt khác trong cùng ngành hoặc với tỷ số bình quân của toàn ngành. [3, trg.383]
- Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
Tỷ số này đo lường mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp trong mối quan hệ
tương quan với mức độ sử dụng vốn chủ sở hữu. Được xác định bằng cách lấy tổng nợ
chia cho vốn chủ sở hữu.
Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
=
Tổng nợ
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp ít phụ thuộc vào hình thức huy động vốn
bằng vay nợ, doanh nghiệp chịu độ rủi ro thấp. Tuy nhiên nó cũng có thể chứng tỏ
doanh nghiệp chưa biết cách vay nợ để kinh doanh và khai thác lợi ích của hiệu quả
tiết kiệm thuế. Vì khi doanh nghiệp đi vay thì phải trả lãi vay, thuế đánh vào lợi nhuận
doanh nghiệp sẽ có thể có khấu trừ khoản lợi nhuận dùng để trả lãi đó. [3, trg.383]
- Tỷ số khả năng trả lãi
Sử dụng nợ nói chung tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp
chỉ thực sự có lợi khi lợi nhuận tạo ra lớn hơn lãi phải trả cho việc sử dụng nợ. Nếu
không, doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả lãi và gánh nặng lãi gây thiệt hại cho
doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng trả lãi vay của doanh nghiệp chúng ta sử dụng tỷ
số khả năng trả lãi. Tỷ số này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế và lãi
(EBIT) chia cho chi phí lãi vay.
Tỷ số khả năng trả lãi
=
EBIT
Chi phí lãi vay
Nếu tỷ số này lớn hơn 1 thì doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng trả lãi vay. Nếu
nhỏ hơn 1 thì có thể chứng tỏ doanh nghiệp đã vay quá nhiều so với khả năng của
mình hoặc doanh nghiệp kinh doanh kém đến mức lợi nhuận doanh nghiệp không đủ
trả lãi vay. [3, trg.382]
- Tỷ số khả năng trả nợ
Tỷ số khả năng trả lãi chưa thật sự phản ánh hết trách nhiệm nợ của doanh
nghiệp, vì ngoài lãi ra doanh nghiệp còn phải trả nợ gốc và các khoản khác. Do đó,
chúng ta không chỉ quan tâm đến khả năng trả lãi mà còn quan tâm đến khả năng thanh
toán nợ nói chung. Để đo lường khả năng trả nợ ta sử dụng tỷ số khả năng trả nợ được
15
Thang Long University Library
xác định bằng cách lấy giá vốn hàng bán cộng khấu hao và lợi nhuận trước thuế và lãi
chia cho giá trị nợ gốc và lãi phải thanh toán.
Tỷ số khả năng
trả nợ
=
Giá vốn hàng bán + Khấu hao + Lợi nhuận trƣớc thuế và lãi
Nợ gốc + Chi phí lãi vay
[3, trg.384]
1.4.2.3. Chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả hoạt động
Các hệ số hoạt động kinh doanh có tác dụng đo lường năng lực quản lý và sử
dụng vốn hiện có của doanh nghiệp. Thông thường, các hệ số hoạt động sau đây được
sử dụng trong việc đánh giá mức độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Số vòng quay hàng tồn kho
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hiệu suất sử dụng của doanh
nghiệp và được xác định bằng công thức sau:
Số vòng quay
hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Số hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Số hàng tồn kho bình quân có thể tính bằng cách lấy số dư đầu kỳ cộng với số dư
cuối kỳ và chia đôi. Số vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào đặc
điểm của ngành kinh doanh.
Thông thường, số vòng quay HTK cao hơn so với doanh nghiệp trong ngành chỉ
ra rằng: Việc tổ chức và quản lý dự trữ của doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp có thể
rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn bỏ vào HTK. Nếu số vòng
quay HTK thấp, thường gọi lên doanh nghiệp có thể dự trữ vật tư quá mức dẫn đến
tình trạng bị ứ đọng hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm. Từ đó, có thể dẫn đến dòng tiền
vào của doanh nghiệp bị giảm đi và có thể đặt doanh nghiệp vào tình thế khó khăn về
tài chính trong tương lai. Tuy nhiên, để đánh giá thỏa đáng cần xem xét cụ thể và sâu
hơn tình thế của doanh nghiệp. [4, trg.226]
- Kỳ luân chuyển hàng tồn kho
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho là số ngày cần thiết để HTK quay được một vòng
hay nói cách khác, để HTK quay được một vòng thì cần một khoảng thời gian bình
quân là bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho
Số ngày trong kỳ
=
Số vòng quay hàng tồn kho
Nếu số ngày luân chuyển càng lớn thì việc quay vòng hàng tồn kho chậm, điều
này cũng đồng nghĩa với việc dự trữ nguyên vật liệu quá mức hoặc hàng hóa trong
doanh nghiệp tồn kho quá nhiều và ngược lại. [4, trg.227]
16
- Kỳ thu tiền trung bình
Là một hệ số hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó phản ánh độ dài thời
gian thu tiền bán hàng của doanh nghiệp kể từ lúc xuất giao hàng cho đến khi thu được
tiền bán hàng. Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chính
sách bán chịu và việc tổ chức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khi xem xét kỳ
thu tiền trung bình cần xem xét trong mối liên hệ với sự tăng trưởng doanh thu của
doanh nghiệp. Khi kỳ thu tiền trung bình quá dài so với các doanh nghiệp trong ngành
thì dễ dẫn đến tình trạng nợ khó đòi. Kỳ thu tiền trung bình có thể xác định theo công
thức sau:
Kỳ thu tiền trung bình
(ngày)
=
Số dƣ bình quân các khoản phải thu
Doanh thu bình quân 1 ngày trong kỳ
[3, trg.386]
- Số vòng quay vốn lưu động hay số vòng quay tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động hay số vòng quay của
vốn lưu động thực hiện được trong một kỳ nhất định (thường là một năm). Nó được
xác định theo công thức sau:
Doanh thu thuần
Số vòng quay vốn lƣu động
=
Vốn lƣu động bình quân
Chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động thể hiện tốc độ luân chuyển vốn lưu động
của doanh nghiệp và cho biết mỗi đồng vốn lưu động (hay tài sản ngắn hạn) đem lại
cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. Độ lớn của chỉ tiêu này cao thể hiện tốc
độ luân chuyển vốn nhanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh
hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao hay thấp. [1,
trg.82]
- Kỳ luân chuyển vốn lưu động
Bên cạnh chỉ tiêu này, tốc độ luân chuyển của vốn lưu động còn được thể hiện
dưới dạng thời gian của một vòng quay. Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần
thiết để vốn lưu động thực hiện được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một
vòng quay của vốn lưu động ở trong kỳ. Ta có công thức tính như sau:
Kỳ luân chuyển vốn lƣu động
=
Số ngày trong kỳ
Số vòng quay vốn lƣu động
Kỳ luân chuyển vốn lưu động tỷ lệ nghịch với số lần luân chuyển của vốn lưu
động. Nếu doanh nghiệp phấn đấu rút ngắn kỳ luân chuyển thì sẽ tăng số vòng quay
vốn lưu động. Từ công thức tính kỳ luân chuyển vốn lưu động cho thấy thời gian luân
17
Thang Long University Library
chuyển vốn lưu động phụ thuộc vào số vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ và
tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ. Vì vậy, việc tiết kiệm số vốn lưu động
hợp lý và nâng cao tổng mức luân chuyển vốn lưu động có ý nghĩa quan trọng đối với
việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn lưu
động. [1, trg.82]
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Vì thế chỉ tiêu cho phép
đánh giá mức độ sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp trong kỳ hay đánh giá tình
hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân
Ý nghĩa của công thức là 1 đồng vốn cố định trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu. [3, trg.386]
- Vòng quay tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tổng quát hiệu suất sử sụng tài sản hay toàn bộ vốn hiện có
của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau:
Vòng quay tổng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Hệ số này chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm ngành kinh doanh, chiến lược kinh
doanh và trình độ quản lý sử dụng tài sản vốn của doanh nghiệp. [3, trg.387]
1.4.2.4. Chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Là thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là kết
quả tổng hợp hàng loạt biện pháp quyết định quản lý của doanh nghiệp. Hệ số sinh lời
bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu hay hệ số lãi ròng
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần
trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện một đồng doanh thu trong kỳ,
doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu (hệ số lãi ròng)
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
=
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này đánh giá số lợi nhuận thực tế để lại cho doanh nghiệp chiếm bao
nhiêu phần trong doanh thu thuần. Do vậy chỉ tiêu này càng cao thì phản ánh khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp càng lớn. [3, trg.388]
18
- Tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời
kinh tế của tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản hay vốn kinh doanh không
tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập và nguồn gốc của vốn kinh doanh
Tỷ suất sinh lời
kinh tế của tài sản
Lợi nhuận trƣớc lãi vay và thuế
=
Tổng tài sản hay vốn kinh doanh bình quân
[3, trg.388]
- Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng sinh lời ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay. Công thức tính như sau:
Lợi nhuận trƣớc thuế trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận trƣớc thuế
trên vốn kinh doanh
=
Vốn kinh doanh (Tổng tài sản) bình quân sử
dụng trong kỳ
[3, trg.389]
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời ròng của tài
sản (ROA)
Phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
=
trên vốn kinh doanh
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh (Tổng tài sản) bình quân trong kỳ
[3, trg.389]
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Hệ số này đo lường mức lợi
nhuận thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ.
Tỷ suất lợi nuận vốn chủ sở
hữu
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ
[3, trg.390]
- Thu nhập một cổ phần (EPS)
Đây là chỉ tiêu rất quan trọng, nó phản ánh mỗi cổ phần thường (hay cổ phần phổ
thông) trong năm thu được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế.
Thu nhập một cổ
phần
=
Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ đông ƣu đãi
Tổng số cổ phần thƣờng đang lƣu hành
Hệ số EPS cao hơn so với các doanh nghiệp cạnh tranh khác hoặc bình quân
ngành là một trong những mục tiêu mà các nhà quản lý doanh nghiệp luôn hướng tới.
[3, trg.390]
19
Thang Long University Library
1.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
1.5.1. Nhân tố chủ quan
- Đội ngũ quản lý, đội ngũ cán bộ lao động sản xuất
Trình độ của các nhà quản trị trong doanh nghiệp là một yếu tố bên trong doanh
nghiệp có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, bất kỳ một doanh
nghiệp, tổ cức kinh doanh nào đều phải lựa chọn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh
doanh của mình một cơ cấu tổ chức quản lý riêng. Thực tế cho thấy nhiều doanh ngiệp
tổ chức làm ăn thua lỗ, phá sản, phát triển chậm đều do cơ cấu tổ chức quản lý chưa
hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy đặt ra cho các doanh nghiệp, tổ chức là làm
sao tìm cho mình một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý. Vì khi có một cơ cấu tổ chức
quản lý hợp lý thì mới cho phép sử dụng tốt các nguồn lực, giúp cho việc ra các quyết
định đúng đắn và tổ cức thực hiện hiệu quả các quyết định đó, điều hòa phối hợp các
hoạt động nhằm đạt được mục đích chung đề ra.
Doanh nghiệp có quy mô càng lớn, càng phức tạp thì hoạt động của doanh
nghiệp cũng phức tạp theo. Do đó các nhà quản lý cần đưa ra một mô hình cơ cấu quản
lý hợp lý sao cho đảm bảo quản lý được toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp đồng thời
phải làm sao để bộ máy quản lý không cồng kềnh và phức tạp về mặt cơ cấu. Còn đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bộ máy quản lý phải tinh tế, gọn nhẹ để dễ thay
đổi phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng như tăng cường năng lực tài chính cho doanh nghiệp.
Để làm được điều đó, các nhà lãnh đạo phải nhìn nhận được khả năng của từng
nhân viên và bố trí họ vào các công việc phù hợp, tạo điều kiện để họ phát huy lực bản
thân. Qua kinh nghiệm công việc, nhân viên sẽ vững vàng hơn và dần gánh vác bớt
trách nhiệm cho lãnh đạo, đảm bảo cho hoạt động nhịp nhàng của bộ máy doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần lập hệ thống kiểm soát kế hoạch một cách hiệu
quả, khuyến khích từng phòng ban tự kiểm soát, đồng thời xây dựng bản mô tả công
việc rõ ràng để mỗi nhân viên tự chấn chỉnh mình. Doanh nghiệp cũng phải thúc đẩy
sự chia sẻ thông tin giữa các cá nhân và các bộ phận trong doanh nghiệp, phải lấy sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban làm một trong những cơ sở để điều chỉn sơ
đồ tổ chức.
Người lãnh đạo trong tổ chức sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Sự điều hành
quản lý phải kết hợp được tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết,
đồng thời nắm bắt được cơ hội kinh doanh, đem lại sự phát triển cho doanh nghiệp.
Trình độ tay nghề của người lao động: nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề
cao phù hợp với trình độ dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc sẽ tốt hơn,
20
- Xem thêm -