TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
TÊN ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY
TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP
KIÊN LONG - CN SÀI GÒN
GVHD: Thầy Nguyễn Minh Kiều
SVTT: Hoàng Thị Thiên Thanh
Ngành: Tài chính- Ngân hàng
MSSV: 0854030786
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN LĨNH VỰC VÀ CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì lĩnh vực tài chính ngân hàng phát triển
mạnh mẽ. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có hơn 40 ngân hàng trong nước, 30
ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khoảng 10
công ty cho thuê tài chính cùng thực hiện các hoạt động của một tổ chức tín dụng. Do
đó sự cạnh tranh trong hoạt động tài chính ngân hàng là khá cao.
Trong các hoạt động của ngân hàng hoạt động cho vay đóng vai trò hết sức
quan trọng, tuy nhiên từ xưa đến nay, các ngân hàng chỉ quan tâm tới cho vay các nhà
sản xuất kinh doanh mà chưa quan tâm tới giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất
là tiêu dùng. Nếu chỉ cho vay sản xuất nhiều mà khách hàng không tiêu thụ được do
người dân không có nhu cầu về hàng hóa đó hoặc có nhu cầu nhưng lại không có khả
năng thanh toán thì tất yếu sẽ dẫn đến cung vượt quá cầu, hàng hóa bị tồn kho và ứ
động vốn. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Từ thực tế đó cho thấy khi xã hội ngày càng phát triển, không chỉ có các công
ty, doanh nghiệp là cần vốn để sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường mà hiện nay,
các cá nhân cũng là người cần vốn hơn bao giờ hết. Cuộc sống ngày càng hiện đại,
mức sống của người dân cũng được nâng cao, cuộc sống giờ đây không chỉ bó hẹp
trong ăn no, mặc ấm mà đã dần chuyển sang ăn ngon, mặc đẹp và cũng còn biết bao
nhu cầu khác cần phải được đáp ứng. Giờ đây, tâm lý người dân coi việc đi vay là
muốn sử dụng hàng hóa trước khi có khả năng thanh toán. Đáp ứng lòng mong mỏi
của người dân, các Ngân hàng đã phát triển một hoạt động cho vay mới, đó là cho vay
tiêu dùng, một mặt vừa tạo thêm thu nhập cho chính Ngân hàng, mặt khác giúp đỡ cho
các cá nhân có được nguồn vốn để cải thiện cuộc sống của mình.
Sau một thời gian tìm hiểu, em nhận thấy Ngân hàng TMCP Kiên Long
(Kienlong Bank) đã bắt đầu quan tâm đến hoạt động cho vay tiêu dùng nhưng hoạt
động này vẫn chưa thực sự trở thành hoạt động lớn của Ngân hàng. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và đề ra các giải pháp để phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng sẽ có ý
nghĩa về phương diện lý luận và thực tiễn đối với sự đa dạng hóa hoạt động của Ngân
hàng. Do đó, em đã lựa chọn đề tài “ Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng của ngân
hàng TMCP Kiên Long – Chi nhánh Sài Gòn” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, CÁC CÂU HỎI NGHIÊN
CỨU
Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Kiên Long – Chi
nhánh Sài Gòn.
Tìm ra các điểm mạnh, hạn chế của hoạt động này, đồng thời đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm này.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, cần trả lời được các câu hỏi:
-
Tình hình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Sài Gòn trong những năm gần đây
như thế nào?
Tình hình trên thể hiện xu hướng phát triển tốt hay xấu?
Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trang trên?
Các kiến nghị, giải pháp( nếu có) để cải thiện thực trạng trên?
1.3 PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG TRONG BÁO CÁO VÀ GIỚI
HẠN TRONG PHẠM VI BÁO CÁO
Nguồn số liệu từ kỷ yếu ngân hàng Kiên Long, báo cáo thường niên của ngân
hàng, các nghị định quy chế về cho vay, báo cáo thường niên của ngân hàng Kiên
Long, báo cáo của chi nhánh Sài Gòn, … ngoài ra số liệu từ nền kinh tế, đối thủ cạnh
tranh.
Sử dụng phương pháp thống kê số liệu từ năm 2010- 2011.
Sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tỷ lệ, phương pháp đồ thị để phân tích
đánh giá tình hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Kiên Long – chi nhánh Sài gòn.
Đề tài nghiên cứu về quy trình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP Kiên
Long, chi nhánh Sài Gòn. Nguồn số liêu dùng để phân tích được lấy từ 2010 – 2011.
Do các số liệu từ năm 2009 trở về trước không được thống kê, đưa lên website nên
việc thu thập khó khăn, độ chính xác không cao.
1.4 KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chương 1: Giới thiệu.
Chương 2: Tổng quan về lý thuyết cho vay tiêu dùng.
Chương 3: Phân tích về sản phẩm cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Kiên Long,
chi nhánh Sài Gòn.
Chương 4: Nhận xét và Kiến nghị.
Phần kết luận.
2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHO
VAY TIÊU DÙNG
2.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
2.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chính.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí
nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng
số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng
các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên (Nguyễn Đăng Dờn và các tác giả,
2008)
Các hoạt động của ngân hàng thương mại gồm có hoạt động huy động vốn, hoạt
động tín dụng, hoạt động thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động khác (Nguyễn
Đăng Dờn và các tác giả , 2008)
Hoạt động huy động vốn được coi là hoạt động cơ bản có tính chất sống còn đối
với một ngân hàng thương mại nào, vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của các
ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại được phép huy động vốn bằng
nhiều hình thức sau đây: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá và các hình thức huy
động khác như vay vốn ở ngân hàng thương mại khác, vay vốn tại ngân hàng nhà
nước…
Hoạt động tín dụng được coi là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa lớn đối với nền
kinh tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống ngân hàng thương mại cung
cấp một khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lương vốn này nền
kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn bền vững hơn. Hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại gồm có: cho vay, chiết khấu chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các hình thức khác như thấu chi, trả góp…
Ngân hàng còn cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, đây là hoạt động quan
trọng và có tính đặc thù của ngân hàng thương mại, nhờ hoạt động này mà các giao
dịch thanh toán thuận lợi, đồng thời, qua hoạt động này mà góp phần giảm lượng tiền
mặt lưu thông trong nền kinh tế. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm có:
Mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng là pháp nhân, hoặc thể nhân trong và ngoài
nước; cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng; thực hiện dịch vụ thanh
toán trong nước và quốc tế; thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ; thực hiện dịch vụ thanh
3
toán khác; thực hiện dịch vụ ngân quỹ; tham gia hệ thống thanh toán bù trừ trong
nước, và hệ thống thanh toán quốc tế khi được phép.
Ngoài 3 hoạt động nói trên, các ngân hàng thương mại còn được thực hiện các
hoạt động khác, phù hợp với chức năng nghiệp vụ của mình đồng thời không bị pháp
luật nghiêm cấm, các hoạt động này gồm: góp vốn, mua cổ phần; thực hiện mua bán
chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ; kinh doanh ngoại hối và vàng; kinh doanh và
dịch vụ bảo hiểm; thực hiện các nghiệp vụ ủy thác và đại lý; cung ứng các dịch vụ bảo
quản, cầm đồ, cho thuê tủ két sắt; cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ… và các
dịch vụ khác có liên quan.
2.1.2. Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại
Trong các hoạt động vừa nêu trên có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động
đem lại nhiều lợi nhuận cũng như rủi ro cao với hoạt đông ngân hàng.
Tín dụng được định nghĩa là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
(dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ chủ thể sở hữu sang chủ thể sử dụng để sau
một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Thông qua khái niệm trên chúng ta cần nắm rõ 3 đặc điểm cơ bản của hoạt động
tín dụng, nếu thiếu một trong ba đặc điểm sau thì sẽ không còn là phạm trù tín dụng
nữa. Thứ nhất hoạt động tín dung phải sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị
từ người này sang người khác. Thứ hai, sự chuyển giao này chỉ mang tính chất tạm
thời. Thứ ba, khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo
một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Để có cái nhìn rõ hơn về hoạt động tín dụng chúng ta xem xét đến các loại tín
dụng mà ngân hàng thương mại cung cấp, tuy nhiên với mỗi cách nhìn thì ta lại có
những hình thức tín dụng khác nhau tùy tiêu thức phân loại được sử dụng. Các tiêu
thức thường được sử dụng là thời hạn tín dụng, đối tượng tín dụng, mục đích sử dụng
vốn, chủ thể trong quan hệ tín dụng. (Nguyễn Đăng Dờn và các tác giả , 2008)
Nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng của ngân hàng thương mại gồm có tín
dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
• Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được
sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và
cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
• Tín dụng trung hạn là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này
được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và
xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
4
• Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, tín dụng dài hạn được
sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, đầu tư
xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng
sản xuất có quy mô lớn.
Nếu căn cứ vào đối tượng tín dụng thì ta có tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn
cố định.
• Tín dụng vốn lưu động là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu động của
các tổ chức kinh tế như cho dự trữ hàng hóa đối với các doanh nghiệp thương nghiệp;
cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các hộ sản xuất nông nghiệp.
Tín dụng lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp mức vốn lưu động
thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra làm các loại sau: cho vay dự
trữ hàng hóa, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu thương
phiếu.
• Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được dùng hình thành tài sản cố định.
Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới, thời hạn cho vay
đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn ta có tín dụng sản xuất lưu thông hàng hóa và
tín dụng tiêu dùng.
• Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa là loại tín dụng dành cho các doanh
nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hóa và lưu thông
hàng hóa.
• Tín dụng tiêu dùng là hình thức tín dụng dành cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ,…Tín dụng tiêu dùng được thể hiện bằng hình thức
tiền hoặc bán chịu hàng hóa, việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các Ngân hàng,
quỹ tiết kiệm, Hợp tác xã tín dụng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Bên cạnh
hình thức tín dụng bằng tiền còn có hình thức tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
bán hàng trả góp do các công ty, cửa hàng thực hiện.
Khi chọn dựa vào chủ thể trong quan hệ tín dụng ta có tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng và tín dụng nhà nước.
• Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp, được biểu
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại là do sự cách biệt giữa sản
xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy có
hiện tượng một số nhà doanh nghiệp muốn bán sản phẩm trong lúc đó có một số nhà
5
doanh nghiệp muốn mua nhưng không có tiền. Trong trường hợp này nhà doanh
nghiệp với tư cách là người muốn bán thực hiện được sản phẩm họ có thể bán chịu
hàng hóa cho người mua.
Mua bán chịu hàng hóa là hình thức tín dụng vì người bán chuyển giao cho
người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn đã
được thỏa thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và lợi
tức.
• Tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tín dụng
khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, vì
vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng vừa là
người đi vay đồng thời là người cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua Ngân hàng
và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng
ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang
trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư
xây dựng cơ bản như xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu
vốn tín dụng tiêu dùng của cá nhân.
• Tín dụng nhà nước.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước biểu hiện là người đi
vay.
¾ Vai trò của hoạt động tín dụng.
Có thể nói hoạt động tín dụng góp phần đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá
trình sản xuất liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm
thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp
phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được
liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích
thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu
động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng hóa đi vào sản
xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Riêng
trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát
và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng góp phần sắp
xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt
động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình
tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
6
Hoạt động tín dụng còn giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động của các
trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nhằm phân
tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân,
trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngoài ra, hoạt động tín dụng còn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém
phát triển và ngành mũi nhọn.
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho
xã hội đang trong quá trình Công nghiệp hóa và là ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất
trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước phải tập trung
đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng
thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập
trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này
sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu,
khai thác dầu khí. Hoạt động tín dụng cũng góp phần tác động đến việc tăng cường
chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức.
Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả. Khi
sử dụng vốn vay ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức là phải
hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín
dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện
nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Tín dụng từ ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho việc phát triển các mối
quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong điều kiện ngày nay, phát triển
kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế “đóng” đã nhường
bước cho kinh tế “mở”, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện
nối liền nền kinh tế các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng
vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín
dụng bên ngoài để công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
¾ Bảo đảm tín dụng
Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Tuy nhiên rủi ro mà hoạt động này ẩn chứa cũng khá lớn mặc dù trước khi quyết
định cho vay ngân hàng đã trải qua khác khâu xét duyệt kỹ lưỡng nhưng không thể
loại bỏ hoàn toàn rủi ro. Chính vì vậy đảm bảo tín dụng là biện pháp giúp ngân hàng
gia tăng khả năng thu hồi nợ cũng như giảm thiểu rủi ro cho hoạt động ngân hàng.
7
“Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp
dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” (Nguyễn Minh Kiều, 2011, trang 188).
Bất kỳ tài sản nào cũng có thể dùng để đảm bảo tiền vay, tuy nhiên phải thỏa
mãn các điều kiện: giá trị đảm bảo phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo; Tài sản dùng
đảm bảo phải có giá trị và có thị trường tiêu thụ; phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để cho
người cho vay có quyền xử lý tài sản dùng đảm bảo nợ vay.
Để đảm bảo tín dụng, người ta thường sử dụng 4 hình thứ chính: bảo đảm tín
dụng bằng tài sản thế chấp, bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố, bảo đảm bằng tài
sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh (Nguyễn Minh
Kiều, 2011).
Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp là việc bên vay vốn thế chấp tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay.
(Nguyễn Minh Kiều, 2011). Tài sản đem thế chấp thường là bất đông sản hoặc giá tri
quyền sử dụng đất. Khi thế chấp, hai bên phải thỏa thuận định giá tài sản và ký kết hợp
đồng thế chấp có chứng nhận của phòng công chứng.
Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố là việc bên đi vay giao tài sản là các
động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả
nợ. Động sản dùng cầm cố có thể là loại cần đăng ký quyền sở hữu hoặc không. Với
loại động sản không đăng ký quyền sở hữu phải giao cho bên cho vay, loại đăng ký
quyền sở hữu hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm cố hoặc bên thứ ba giữ.
Bảo đảm tín dụng bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng dùng
tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay được áp dụng khi Chính phủ hoặc Thủ tướng chính
phủ quyết định giao cho ngân hàng cho vay đối với khách hàng và đối tượng vay; ngân
hàng cho vay trung, dài hạn với các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch
vụ đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các
điều kiện khách hàng vay có tín nhiệm, có khả năng tài chính để tài trợ, có dự án đầu
tư khả thi, có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay tối
thiểu bằng 50% vốn đầu tư.
Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh chính là việc bên thứ ba cam kết với
bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay nếu khi đến hạn mà người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bảo lãnh có
thể bằng tài sản bên thứ ba hoặc bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
2.2 TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu và mua sắm
tiện nghi sinh hoạt gia đình nhằm nâng cao đời sống dân cư. Khách hàng vay là những
8
người có thu nhập không cao nhưng ổn định, chủ yếu là công nhân viên chức hưởng
lương và có việc làm ổn định và số lượng khách hàng thì rất đông. (Nguyễn Minh
Kiều, 2011)
2.2.1. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của hộ
gia đình và cá nhân. Khác với cho vay kinh doanh, ở đây người vay sử dụng tiền vay
vào các hoạt động không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với việc sử dụng tiền vay. (
Nguyễn Thị Mùi , 2008). Do đó có thể nói nguồn trả nợ của khách hàng trích nguồn
thu nhập từ lương, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của mình chứ không phải là từ
kết quả sử dụng những khoản vay đó.
Cho vay tiêu dùng thường có tài sản đảm bảo. Do người vay không sử dụng tiền
vào các hoạt động kinh doanh, nên việc trả nợ của khách hàng phụ thuộc vào nguồn
thu nhập khác của khách hàng. Sự kiểm soát các nguồn thu này của ngân hàng nhiều
khi khó khăn hơn. ( Nguyễn Thị Mùi , 2008). Có thể nói các khoản cho vay tiêu dùng
có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như môi trường
kinh tế, văn hóa, xã hội nó còn phải chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất
phát từ bản thân khách hàng. Trong cuộc sống, chúng ta không thể lường trước được
hết hậu quả do những rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thiên tai…
Đặc biệt, hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, nhất là khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Khi đó, người tiêu dùng sẽ không thấy tin tưởng
vào tương lai và cùng với những lo lắng về nguy cơ thất nghiệp, họ sẽ hạn chế việc
vay mượn từ ngân hàng. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan
như tình trạng sức khoẻ, khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên
rủi ro lớn cho ngân hàng, hơn nữa thông tin tài chính của đối tượng này rất khó đầy đủ
và chính xác hoàn toàn. Mặt khác yếu tố đạo đức của cá nhân người tiêu dùng cũng là
nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân hàng, hay số lượng các khoản vay
tiêu dùng là rất lớn trong khi đó số lượng cán bộ tín dụng ngân hàng lại có hạn cũng sẽ
tạo nên rủi ro cho ngân hàng. Để giảm bớt rủi ro cho mình ngân hàng thường thu thập
đủ thông tin về khách hàng vay trước khi quyết định cho vay. Tuy nhiên thông tin về
nhân thân, lai lịch và tình hình tài chính của khách hàng thường không đầy đủ và khó
thu thập, ngân hàng phải bỏ nhiều chi phí cho công tác thẩm định và xét duyệt cho
vay. Hơn nữa phần lớn các khoản vay với số lượng lớn và giá trị nhỏ nên ngân hàng
phải chịu một khoản chi phí đáng kể để quản lý hồ sơ khách hàng. Chính vì thế, cho
vay tiêu dùng trở thành khoản mục có chi phí lớn nhất trong các khoản mục tín dụng
ngân hàng. Rủi ro cao và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của cho vay tiêu dùng lớn
nên ngân hàng thường đặt lãi suất rất cao đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Thực tế
cho thấy số lượng các khoản cho vay tiêu dùng là khá nhiều do đối tượng của loại hình
9
cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội từ những người có thu nhập cao đến những
người có thu nhập trung bình và thấp với nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng. Điều
này khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu dùng là rất lớn, cùng với tiền lãi thu được từ
mỗi khoản vay làm cho tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng là
đáng kể.
Bên cạnh đó để hạn chế bớt các rủi ro, trong hầu hết các khoản vay tiêu dùng,
ngân hàng đều yêu cầu khách hàng phải có bảo đảm tài sản.
2.2.2. Các hình thức cho vay tiêu dùng
Tùy theo tiêu thức chúng ta lựa chọn mà ta có các hình thức cho vay tiêu dùng
khác nhau. Nếu căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay và cách thức cho vay ta có cho
vay tiêu dùng theo hình thức cầm cố, cho vay tiêu dùng được đảm bảo bằng lương hay
thu nhập và cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ tiền vay. ( Nguyễn Thị Mùi
, 2008).
Trước hết nói về cho vay cầm cố, cho vay cầm cố là hình thức ngân hàng cho
khách hàng vay tiền và giữ tài sản của khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ
của khách hàng trong hợp đồng cầm đồ.
Tài sản trong hình thức cho vay tiêu dùng bằng hình thức cầm cố phải thuộc danh
mục và điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể trên cơ sở quy
định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng cho vay. Nhìn chung, tài sản
cầm cố là động sản, có giá trị mua bán trao đổi và phải thuộc sở hữu hợp pháp của
người vay hoặc nếu không phải có giấy ủy quyền hợp pháp của những người sở hữu
cho khách hàng mang đi cầm cố, ủy quyền cho ngân hàng xử lý tài sản khi khách hàng
vi phạm hợp đồng cầm cố.
Thời hạn và mức cho vay với các loại tài sản cầm cố khác nhau cũng khác nhau.
Đối với các loại giấy tờ có giá, thời hạn cầm cố ngắn hơn thời hạn lưu hành còn lại của
giấy tờ có giá một thời gian nhất định và tối đa không quá 12 tháng, mức cho vay tối
đa của ngân hàng thường được tính trên giá trị đáo hạn cụ thể. Công thức mức cho vay
tối đa (Nguyễn Thị Mùi (2008),
Mcv = Gdh * (1- Tlh * Lcv)
Trong đó:
Mcv : Mức cho vay tối đa
Gđh : Giá trị đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá
Tlh : Thời gian lưu hành còn lại của giấy tờ có giá
Lcv : Lãi suất cho vay
10
Với các loại tài sản khác, thời hạn cầm cố được quy định căn cứ theo loại, tính chất,
điều kiện bảo quản của tài sản và thường tương đối ngắn (một vài ngân hàng quy định
tối đa là 3 tháng). Mức cho vay xác định căn cứ vào giá trị, khả năng tiêu thụ trên thị
trường, khả năng bảo quản của tài sản cầm cố, nhưng tối đa không quá 80% giá trị thị
trường của tài sản tại thời điểm cầm cố
Trong hình thức này, việc cho vay dựa trên tài sản cầm cố, nên các thủ tục chủ yếu
xoay quanh tài sản cầm cố. Những thủ tục cho vay về cơ bản bao gồm kiểm tra tài sản
cầm cố, thẩm định tài sản cầm cố, phê duyệt và ký hợp đồng cầm cố, giải ngân, bảo
quản tài sản cầm cố, thu nợ và thanh lý hợp đồng, xử lý tài sản cầm cố.
Khi kiểm tra hồ sơ tài sản cầm cố cần kiểm tra giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc
nguồn gốc tài sản (hóa đơn hoặc hợp đồng mua bán); giấy ủy quyền của những người
sở hữu; giấy phép lưu hành (đối với phương tiện vận tải); sổ kiểm định an toàn giao
thông cơ giới; giấy chứng nhận bảo hiểm; các tài liệu khác nếu có.
Để thẩm định tài sản cầm cố cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định tài sản cầm cố sau
khi đã thẩm định đầy đủ hồ sơ pháp lý của khách hàng. Đối với tài sản là giấy tờ có giá
cán bộ tín dụng phải lập giấy xác nhận chứng từ có giá và đề nghị người phát hành xác
nhận nội dung (khách hàng có thể đi xác nhận hoặc gửi chứng minh nhân dân và các
chứng từ cần xác nhận cho cán bộ tín dụng ).
Sau quá trình kiểm tra, thẩm định, nếu thấy đủ điều kiện cho vay, cán bộ tín dụng lập
tờ trình đề nghị xét duyệt cho vay ghi rõ kiến nghị của mình (mức cho vay, thời hạn,
lãi suất...) và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt cùng với toàn bộ hồ sơ cuả khách
hàng. Sau khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt cho vay, cán bộ tín dụng lập hợp
đồng cầm cố với khách hàng (có thể kiêm khế ước nhận nợ), có ghi rõ cách xử lý tài
sản với đủ chữ ký với những người có thẩm quyền.
Theo hợp đồng đã được ký, cán bộ tín dụng chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán để làm
thủ tục phát tiền vay; niêm phong và làm thủ tục nhập kho tài sản cầm cố. Trong quá
trình cho vay theo hình thức cầm cố, tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá, vàng bạc, đá
quý được bảo quản như tiền. Với các loại tài sản khác bảo quản trong kho của ngân
hàng hoặc kho thuê (khách hàng phải trả tiền thuê kho)
Khi đến hạn trả nợ khách hàng xuất trình hợp đồng cầm cố, khế ước nhận nợ, các giấy
tờ khác (nếu có). Cán bộ tín dụng sẽ lập bản kê tính lãi, thu nợ chuyển sang bộ phận kế
toán, quỹ để thu tiền. Lập biên bản thanh lý hợp đồng cầm cố, lệnh xuất kho, trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt làm, để làm thủ tục giao lại tài sản và các giấy tờ liên quan
cho khách hàng.
Trong quá trình cho vay theo hình thức cầm cố có thể phát sinh những trường hợp
khác nhau: Chưa hết thời hạn trong hợp đồng, nhưng khách hàng không có khả năng
11
thanh toán nợ và đề nghị bằng văn bản xử lý tài sản thu nợ; Quá trình trả nợ (kể cả sau
khi gia hạn nợ) một thời gian nhất định theo quy định của ngân hàng mà vẫn không trả
được nợ; Khách hàng bị chết, mất tích mà không có người thừa kế (hoặc người được
ủy quyền) tiếp tục thực hiện hợp đồng theo quy định của pháp luật. Trong những
trường hợp đó tùy theo điều kiện mà cán bộ tín dung có thể đưa ra hình thức xử lý
khác nhau. Nếu hết hạn trả nợ, cán bộ tín dụng gửi thông báo theo yêu cầu khách hàng
thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Sau thời hạn theo quy định của ngân hàng, cán bộ tín dụng
thông báo cho khách hàng biết về việc phát mãi tài sản. Tài sản cầm cố được xử lý
theo thỏa thuận trong hợp đồng cầm cố hoặc được bán đấu giá công khai. Số tiền thu
được từ bán tài sản cầm cố được dùng để chi trả theo thứ tự: bù đắp các chi phí bán tài
sản, trả tiền vay theo hợp đồng, còn lại trả khách hàng hoặc xử lý theo quy định của
pháp luật nếu không có người nhận. Nếu thiếu, khách hàng phải trả tiếp hoặc ngân
hàng khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Phương thức cho vay tiêu dùng thứ hai là cho vay đảm bảo bằng lương hay thu
nhập. Theo đó ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trên cơ
sở thế chấp bằng lương. Nó chủ yếu được áp dụng cho các khách hàng có việc làm ổn
định, thu nhập ngoài việc đủ trang trải các chi tiêu thường xuyên còn có đủ tích lũy để
trả nợ vay ( như công chức, viên chức...)
Trong việc xét duyệt cho vay, ngân hàng cần có bảng kê khai các khoản thu nhập
về lương và thu nhập khác có xác nhận của đơn vị trả lương cũng như chi tiêu thường
xuyên của người vay. Số tiền vay được quyết định dựa trên nhu cầu vay có mục đích
rõ ràng, thu nhập ròng thường xuyên của khách hàng, mức cho vay tối đa của ngân
hàng. Khi nhận tiền vay khách hàng phải cam kết nếu không trả được nợ khi đến hạn
(thường là quá 3 kỳ trả nợ) ngân hàng có quyền nhận lương của khách hàng để thu nợ.
Hình thức cho vay tiêu dùng thứ ba cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ tiền vay hay còn gọi là cho vay thế chấp tài sản. Thế chấp là việc người đi vay
đem tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình thế chấp cho ngân hàng cho vay để
vay một số tiền nhất định và dùng tài sản đó đảm bảo số nợ vay. Nếu khi đến hạn mà
người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả không hết nợ cho ngân hàng cho
vay thì ngân hàng được quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ . (Nguyễn Đăng
Dờn và các tác giả , 2008).
Hình thức này áp dụng chủ yếu với tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dùng dài như
cho vay sửa chữa, mua nhà; mua quyền sử dụng đất; cho vay mua sắm phương tiện đi
lại. Các tài sản thế chấp này phải có đủ ba điều kiện; thứ nhất, tài sản thế chấp phải là
sở hữu hợp pháp của bên thế chấp; thứ hai, tài sản này phải được phép giao dịch; thứ
ba, phải được bảo hiểm đối với những tài sản mà nhà nước bắt buộc phải mua bảo
hiểm. (Nguyễn Đăng Dờn và các tác giả , 2008). Với ba điều kiện cơ bản nói trên, thì
12
các tài sản không được nhận thế chấp gồm các tài sản thuộc loại cấm kinh doanh, mua
bán theo quy định của Nhà nước, Tài sản không thuộc sở hữu hợp pháp của bên đi vay,
tài sản đang bị niêm phong, tạm giữ, phong tỏa bởi cơ quan có thẩm quyền, tài sản
không có giá trị, hoặc có giá trị ít hoặc có giá trị nhưng không có giá trị sử dụng, các
tài sản khó kiểm định giá, khó mua bán, chuyển nhượng.
Mức cho vay của ngân hàng trong hình thức này phụ thuốc vào tình hình tài chính,
khả năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm, mức tối đa thường từ 50%
đến 60% giá trị tài sản mua sắm.
Hình thức này về quy trình cũng giống như việc cho vay dựa trên tài sản cầm cố.
Những thủ tục cho vay về cơ bản bao gồm kiểm tra tài sản thế chấp, thẩm định tài sản
thế chấp, phê duyệt và ký hợp đồng thế chấp, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng,
xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên cũng có một số thủ tục khác biệt cần lưu ý.
Sau khi được phê duyệt cho vay, ngân hàng mở tài khoản giữ hộ và chờ thanh toán cho
khách hàng. Ngân hàng và khách hàng chỉ ký hợp đồng và khế ước nhận nợ (với thời
điểm nhận nợ là thời điểm ngân hàng chuyển tiền thanh toán cho người bán) khi khách
hàng đã nộp tiền vào tài khoản của mình mở tại ngân hàng.
Ngân hàng phải cam kết thanh toán cho người bán 100% giá trị tài sản và đề nghị giao
hàng cho khách hàng. Trên cơ sở đó, người bán xuất hàng cho khách hàng và chịu
trách nhiệm đăng ký tài sản, lưu hành, mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm, người thụ
hưởng bảo hiểm là ngân hàng và chuyển toàn bộ giấy tờ cho ngân hàng.
Ngân hàng ký hợp đồng thế chấp với khách hàng và gửi bản sao giấy đăng ký cho
khách hàng và thực hiện đăng ký hợp đồng thế chấp tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
2.2.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng
¾ Đối với Ngân hàng thương mại.
Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi (huy động
vốn) và sử dụng khoản tiền (sử dụng vốn) đó trong kinh doanh nhằm thu lợi nhuận,
ngân hàng nhận tiền gửi từ nhiều nguồn khác nhau (cá nhân, tổ chức...vv), theo nhiều
hình thức khác nhau. Việc sử dụng cũng theo nhiều hình thức khác nhau: tín dụng,
kinh doanh ngoại tệ, thanh toán, mua trái phiếu...vv. Tuy vậy, trên tổng thể thì hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại là hoạt động chiếm thị phần cao nhất, mang
lại cho ngân hàng nhiều lợi nhuận nhất. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, lĩnh vực
tài trợ của ngân hàng thương mại cũng có nhiều thay đổi, nhằm giúp cho các ngân
hàng có thể thích ứng được trước những biến động của thực tế.
13
Lúc đầu, các ngân hàng thương mại cũng không mấy quan tâm đến thị trường
cho vay tiêu dùng bởi đây là thị trường mà các khoản tài trợ có quy mô nhỏ, chi phí tài
trợ là lớn, rủi ro cũng cao. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh để giành thị phần thị
trường trở lên khốc liệt, các ngân hàng thương mại không chỉ phải cạnh tranh với
chính các ngân hàng trong hệ thống, mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính
phi ngân hàng đã khiến thị phần trên một số thị trường của các ngân hàng bị thu hẹp,
trong khi thị trường cho vay tiêu dùng đang có xu thế lên cao. Do vậy, các ngân hàng
đã phải hướng mục tiêu của mình vào lĩnh vực này, và cho vay tiêu dùng đã dần trở
thành một loại hình sản phẩm phổ biến trong các ngân hàng thương mại, một loại sản
phẩm mang lại thu nhập tương đối cao trong tổng doanh thu của các ngân hàng.
Mặc dù các khoản tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng là nhỏ, nhưng với số
lượng các khoản này lại rất lớn (đối tượng có nhu cầu vay tiêu dùng bao gồm tất cả các
thành phần trong xã hội), vì thế tổng quy mô tài trợ là rất lớn. Bên cạnh đó, lãi suất của
các khoản tài trợ theo hình thức này là rất cao (bởi người nhận tài trợ họ chỉ quan tâm
đến thoả mãn nhu cầu trước mắt mà họ được hưởng, họ không mấy quan tâm đến lãi
suất phải trả) nên đã mang lại cho ngân hàng một tỷ suất lợi nhuận tương đối lớn trong
tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đặc biệt, với ngân hàng có quy mô nhỏ, uy tín chưa
cao...vv, khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng có quy mô lớn, uy tín cao trong
việc giành những khách hàng lớn (thường là các tổ chức mà nhu cầu vay vốn đáp ứng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh), hoặc có những khi nhờ những mối quan hệ tốt có
thể giành được khách hàng, nhưng ngân hàng lại không thể đáp ứng được quy mô
khoản vay của họ thì thị trường cho vay tiêu dùng là vô cùng quan trọng đối với các
ngân hàng này.
¾ Đối với người tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt với những người có thu nhập thấp và
trung bình. Thông qua nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, họ sẽ được hưởng các dịch vụ,
tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài chính như mua sắm các hàng hoá thiết yếu có
giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay trong trường hợp chi tiêu cấp bách như nhu cầu
về y tế.
Có thể nói rằng bất cứ một người nào đều mong muốn được thoả mãn những
nhu cầu của riêng mình, từ những hàng hoá tất yếu đến những hàng hoá xa xỉ hơn. Tuy
nhiên thực tế là một người trẻ lại chưa có đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu của
mình do đó họ cần thời gian tích luỹ tiền, người tiêu dùng sẽ khéo léo phối hợp giữa
thoả mãn ở hiện tại với khẳ năng thanh toán ở hiện tại và tương lai. Có thể nói người
tiêu dùng là người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất lợi ích mà hình thức cho vay
này mang lại trong điều kiện họ không lạm dụng chi tiêu vào những việc không chính
đáng vì khi đó sẽ làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tương lai.
14
¾ Đối với nền kinh tế -xã hội.
Sự sung túc của một nền kinh tế được thể hiện rõ qua mức cầu về hàng hoá tiêu
dùng của dân cư. Mức cầu đó chính là số lượng và mức độ của các nhu cầu có khả
năng thanh toán. Việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng
thương mại sẽ làm tăng đáng kể những nhu cầu có khả năng thanh toán đó hay nói
cách khác đây chính là một giải pháp hữu hiệu để kích cầu và qua đó làm cho nền kinh
tế trở nên năng động hơn.
Khi sức mua của người tiêu dùng tăng lên thị trường hàng hoá tiêu dùng cũng
theo đó mà trở nên sôi động hơn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hoá trong nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng sẽ đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội khác như giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, tăng thu nhập, giảm bớt các tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
2.2.4. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại:
¾ Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã phát ra cho
vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món cho vay đó đã thu hồi về hay
chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quí, năm.
¾ Doanh số thu nợ
Là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng thu về từ các khoản cho vay của ngân
hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
¾ Dư nợ cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn cho
vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản mà ngân hàng cần phải thu về.
¾ Nợ quá hạn
Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng không trả được
cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài
khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu
phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
15
¾ Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động và tổng nguồn vốn:
Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động là chỉ tiêu dùng đánh giá khả năng sử dụng vốn
huy động vào việc cho vay vốn. Thông thường khi nguồn vốn huy động ở ngân hàng
chiếm tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn sử dụng thì dư nợ thường gấp nhiều lần so với
vốn huy động. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì
không hiệu quả bằng việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Do vậy, tỷ lệ này càng
gần 1 thì càng tốt cho hoạt động ngân hàng, khi đó ngân hàng sử dụng một cách có
hiệu quả đồng vốn huy động được.
Ta có công thức:
Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động = Dư nợ / Vốn huy động x 100%
Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn là chỉ tiêu cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay
của Ngân hàng so với tổng nguồn vốn, hay là dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần
trăm trong tổng nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng.
Ta có công thức sau:
Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn = Dư nợ / Tổng nguồn vốn x 100%
¾ Hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ được dùng để thể hiện mối quan hệ giữa doanh số cho vay và
doanh số thu nợ. Hệ số này càng cao càng tốt, nó thể hiện khả năng quản lý nợ của
ngân hàng.
Ta có công thức sau:
Hệ số thu nợ (lần) = Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay
¾ Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Thông
thường chỉ số này dưới mức 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng bình thường.
Nếu tại một thời điểm nhất định nào đó tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ trọng trên tổng dư
nợ lớn thì nó phản ánh chất lượng nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng kém, rủi ro tín
dụng cao và ngược lại.
Ta có công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ x 100%
16
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP
KIÊN LONG – CN SÀI GÒN
3.1 GIỚI THIỆU NGÂN HÀNG TMCP KIÊN LONG
3.1.1. Giới thiệu ngân hàng TMCP Kiên Long
3.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Kiên Long (tiền thân là ngân hàng TMCP Nông thôn Kiên
Long) chính thức đi vào hoạt động ngày 25/10/1995, được thành lập theo:
-
Giấy phép hoạt động số 0056/NN – GP ngày 18/09/1995 do NHNN Việt Nam
cấp với thời hạn hoạt động là 50 năm.
-
Giấy phép thành lập số 1115/GP ngày 12/10/1995 do UBND tỉnh Kiên Giang
cấp.
-
Quyết định số 2434/QĐ – NHNN ngày 25/12/2006 của thống đốc NHNN Việt
Nam.
-
Hội sở chính: 44 Phạm Hồng Thái, Tp. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
-
Điện thoại: (077) 386.99.50 – 387.75.41
-
Fax: (077) 387.75.38 – 387.75.39
-
Email:
[email protected]
-
Website: www.KienLongbank.com.vn
Ngân hàng TMCP Kiên Long (KienLong bank) được thành lập và đi vào hoạt
động vào tháng 10/1995 tại tỉnh Kiên Giang. Qua hơn 15 năm hoạt động, Kienlong
bank trở thành một ngân hàng TMCP phát triển mạnh, bền vững và tạo được niềm tin
của khách hàng. Từ một ngân hàng hoạt động tín dụng tại các vùng nông thôn đồng
bằng sông Cửu Long. Đến nay, vốn điều lệ của Ngân hàng TMCP Kiên Long đã tăng
lên trên 3.000 tỷ đồng. Theo lộ trình đề ra, đến cuối năm 2011, Ngân hàng TMCP
Kiên Long đã có số vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng theo qui định của Ngân Hàng Nhà
17
Nước. Hiện tại, Ngân hàng TMCP Kiên Long có mạng lưới hoạt động tại các vùng
trọng điểm trong cả nước với 95 chi nhánh và phòng giao dịch, theo mục tiêu đề ra,
phấn đấu đến cuối năm 2012 sẽ có 125 chi nhánh và phòng giao dịch trong cả nước.
Đi đôi với việc phát triển hệ thống chi nhánh, KienLong Bank luôn chú trọng đến
việc phát triển sản phẩm và dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại,
phù hợp với nhu cầu của khách hàng trong giai đoạn hội nhập.
Bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin cũng như sản phẩm đa
dạng và phong phú thì KienLong Bank cũng không ngừng đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực ngày càng vững mạnh, thể hiện cụ thể qua nhiều hoạt động như:
• KienLong Bank tập trung đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng quy trình tuyển
dụng chặt chẽ để tuyển dụng nhân viên có năng lực và tâm huyết với công việc.
• Hiện nay, trong toàn hệ thống KienLong Bank đã có hơn 2000 nhân sự, trong
đó cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nhân
viên của KienLong Bank.
• Liên kết với viện nghiên cứu Kinh tế phát triển – trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh để đào tạo các lớp giám đốc điều hành (CEO) và đào tạo nguồn
nhân lực, liên kết với trường cao đẳng văn hóa – nghệ thuật để mở các lớp văn hóa
doanh nghiệp, …
3.1.1.2 Tình hình hoạt động Ngân hàng Kiên Long
Bảng 3.1 Tình hình hoạt động của ngân hàng TMCP Kiên Long (2009 – 2011)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2009
2010
2011
Tổng vốn huy động
6,286.00
9,219.00
14,050.00
Tổng dư nợ cho vay
4,874.00
7,008.00
8,404.00
120.09
258.51
522.10
Tổng lợi nhuận trước thuế
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Ngân hàng Kiên Long )
Trong năm 2010 lượng vốn huy động tăng lên 2,933 tỷ tương đương 46.7% so
với năm 2009. Qua năm 2011 lượng vốn huy động tiếp tục tăng 4,831 tỷ đồng tương
đương 52.4% so với năm 2010. Ngân hàng Kiên Long không ngừng cung cấp các sản
phẩm huy động vốn mới để đa dạng hóa các sản phẩm, mở rộng sản phẩm của mình
tới các tầng lớp dân cư, ngoài ra khâu chăm sóc khách hàng cũng được đẩy mạnh như
18
các chương trình gởi tiết kiệm nhận quà… nên lương vốn huy động có sự tăng lên
đáng kể.
Theo Báo cáo hàng năm của Ngân hàng Kiên Long trong năm 2009 tổng dư nợ
cho vay là 4,874 tỷ đồng. Sang năm 2010 con số đạt được là 7.008 tỷ đồng, tăng 2,134
tỷ đồng tương đương tăng 43.8 % so với năm 2009.
Biểu đồ 3.1 Tình hình hoạt động của ngân hàng TMCP Kiên Long (2009 – 2011)
Đơn vị: Tỷ đồng
16,000
14,050
14,000
12,000
10,000
9,219
8,000
7,008
6,286
6,000
8,404
Tổng vốn huy động
Tổng dư nợ cho vay
Tổng lợi nhuận trước thuế
4,874
4,000
2,000
259
120
2009
2010
522
2011
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Ngân hàng Kiên Long)
Qua năm 2011 tổng dư nợ cho vay là 8,404 tỷ đồng, tăng 1,396 tỷ đồng tương đương
tăng 19.9 % so với năm 2010, trong đó cho vay sản xuất chiếm 86,84%, cho vay phi
sản xuất 15,53% . Năm 2011 là một năm đầy khó khăn của nền kinh tế, cộng với chính
sách của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng nên trong
năm 2011 dư nợ cho vay tăng không đáng kể như trong năm 2010. Trong năm 2012
nền kinh tế được dự báo sẽ tiếp tục gặp phải nhiều khó khăn nên hoạt động tín dụng
của ngân hàng cần có các chính sách phát triển phù hợp.
Trong năm 2009 lợi nhuân trước thuế đạt 120.09 tỷ đồng. qua năm 2010 con số
này là 258.51 tỷ đồng, tăng 138.42 tỷ đồng tương đương với tăng 115.3%.Lợi nhuận
trước thuế năm 2011 của Kienlong Bank đạt 522 tỷ đồng, tăng 102% so năm trước.
qua số liệu ba năm 2009 – 2011 ta thấy kết quả kinh doanh của ngân hàng khá khả
quan, hoạt động kinh doanh liên tục có lãi, lãi năm sau tăng gấp đôi năm trước. Thu
19