Luận văn Phân tích thực trạng và tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến kinh tế của Thành phố Cần Thơ
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn có vai trò quan trọng trong
sự tăng trưởng kinh tế các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó và đã bắt đầu quá trình mở cửa hội nhập,
tiếp nhận dòng vốn FDI như một yếu tố bổ sung cho sự thiếu hụt vốn đầu tư trong
nước với một dấu mốc quan trọng là sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài
(1987). Hoạt động FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ thị
trường đầy tiềm năng của Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế,
trong đó có các nước đang thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình
là Hoa Kỳ. Kể từ đó, dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng lên đáng kể cả về chất và
lượng, có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài là
một trong những nguồn lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
các tỉnh, thành, đặc biệt là nguồn hỗ trợ rất lớn trong việc phát triển cộng đồng, y
tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho người dân, nhất là ở
địa bàn nông thôn.
Kể từ khi có những dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Cần Thơ đến nay,
cùng với sự nỗ lực tối đa của các cấp, chính quyền và nhân dân trong thành phố
và được sự ủng hộ, giúp đỡ của Chính phủ, bộ, ngành trung ương, Cần Thơ đã đạt
được những kết quả tích cực. Tính đến nay, Cần Thơ đã có khoảng 74 dự án FDI
với tổng vốn đăng ký trên 643 triệu đô la Mỹ. Sau khi Thành phố Cần Thơ và tỉnh
Hậu Giang được tách ra từ tỉnh Cần Thơ, Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung
ương đã được đầu tư khá lớn, trong đó có 18 dự án do Bộ làm chủ đầu tư gần
70.000 tỷ đồng và trên 90 dự án do Ủy Ban Nhân Dân (UBND) Thành phố Cần
Thơ quản lý, đã tạo nên cơ sở vật chất tương đối tốt và khang trang.
Thành phố Cần Thơ có vị trí địa lý thuận lợi, là trung tâm của Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL). Với 8 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích
khoảng 2.267 ha tạo nên giá trị sản lượng công nghiệp đứng đầu các tỉnh ĐBSCL.
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối phát triển, đáp ứng được các
điều kiện để phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, những năm gần đây, tình
hình thu hút đầu tư vào các KCN Thành phố Cần Thơ sụt giảm nghiêm trọng,
mặc dù địa phương có nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp hơn một số tỉnh
vùng ĐBSCL, đặc biệt giai đoạn 2010 - 2014 Chính phủ đầu tư rất lớn cho
1
ĐBSCL, các công trình tiêu biểu đã đầu tư cho Cần Thơ như: Cầu Cần Thơ, Cảng
Cái Cui, Sân bay Quốc tế Cần Thơ, Trung tâm nhiệt điện Ô Môn, cầu Vàm Cống,
mở rộng quốc lộ 1 đoạn từ Cảng Cần Thơ đi tỉnh An Giang, đoạn Cần Thơ đi Hậu
Giang và Sóc Trăng, và ngày 6/10/2014, Bộ Giao thông Vận tái khởi công dự án
kênh Quan Chánh Bố và đặc biệt là khởi công đoạn đường cao tốc từ ngã ba
Trung Lương đi Cần Thơ, sẽ tạo nhiều thuận lợi cho các tỉnh trong vùng. Những
khó khăn gây sụt giảm đầu tư đòi hỏi cần có những nghiên cứu sâu hơn cà về lý
thuyết và thực tiễn cho hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm tạo một
môi trường đầu tư năng động, hấp dẫn đồng thời cũng tăng cường tính cạnh tranh
của nền kinh tế Cần Thơ nói riêng và nước Việt Nam nói chung trong quá trình
hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu đề tài: “Phân tích thực
trạng và tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến kinh tế của
Thành phố Cần Thơ” là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
triển kinh tế bền vững của thành phố Cần Thơ trong tương lai.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào Thành phố Cần Thơ và
những tác động của vốn FDI đến sự tăng trưởng nền kinh tế địa phương, đồng
thời đưa ra các giải pháp thu hút nguồn vốn FDI một cách có hiệu quả.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư vào Thành phố Cần Thơ
Mục tiêu 2: Phân tích những tác động của nguồn vốn FDI đến kinh tế của
Thành phố Cần Thơ
Mục tiêu 3: Đề ra các giải pháp hiệu quả để thu hút nguồn vốn FDI vào
Thành phố Cần Thơ
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Không gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành phân tích trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Các số
liệu trong đề tài chủ yếu được cung cấp từ Cục Thống kê Thành phố Cần Thơ và
Sở kế hoạch và đầu tư Thành phố Cần Thơ.
1.3.2. Thời gian nghiên cứu
2
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 01 năm 2017 đến tháng 5 năm 2017.
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và tác động của vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) đến sự tăng trưởng kinh tế Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn
năm 2005 dến 2016.
1.4. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Đề tài: “Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” do TS.
Nguyễn Thị Tuệ Anh làm trưởng nhóm thực hiện. Đề tài tập trung vào phân tích
tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế thông qua hai kênh quan trọng nhất là
vốn đầu tư và các tác động tràn. Bằng phương pháp phân tích thống kê và tổng
hợp nhóm tác giả đã cho thấy rằng mức thu nhập cao phản ánh năng suất lao động
cao của khu vực có vốn FDI là một biểu hiện bình thường ở các nước đang phát
triển, đưa ra bằng chứng cho rằng FDI là nguồn vốn bổ sung cho vốn trong nước,
chứ không phải là vốn thay thế. Kết quả Điều tra 93 doanh nghiệp do Nhóm tác
giả tiến hành được phân tích theo bốn kênh có thể sinh ra tác động tràn (kênh di
chuyển lao động, kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất
và kênh cạnh tranh) cho thấy ít có biểu hiện về tác động tràn tích cực ở qui mô
doanh nghiệp trong các ngành điều tra.
Bài báo: “Các nhân tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào một địa phương của Việt Nam” do PGS. TS. Nguyễn Mạnh Toàn thực
hiện. Mục tiêu của bài báo là xác định những nhân tố chủ yếu giúp thu hút vốn
đầu tư của nước ngoài vào một địa phương của Việt Nam. Sau khi nghiên cứu
tổng quan các vấn đề lý luận và thực hiện phỏng vấn các nhà đầu tư nước ngoài,
tác giả đã xác định được tám nhân tố, phân thành bốn nhóm, phục vụ cho việc
nghiên cứu. 300 bản câu hỏi điều tra đã được gởi đến các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài tại ba thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh để
khảo sát. Kết quả điều tra cho thấy một số nhân tố được đánh giá là quan trọng
hơn các nhân tố khác. Trong đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, sự ưu đãi và hỗ trợ của
chính quyền địa phương, chi phí hoạt động thấp là những nhân tố quan trọng
nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định khi nhà đầu tư nước ngoài xem xét lựa
chọn địa điểm đầu tư tại Việt Nam.
Luận án: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh” do TS. Nguyễn Tấn Vinh thực hiện. Luận
3
án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của FDI đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành thông qua tăng trưởng kinh tế ngành của Thành phố Hồ
Chí Minh, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thu hút và sử dụng FDI
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng hiệu
quả và bền vững. Để đạt được mục đích trên, luận án đã thực hiện các nhiệm vụ:
thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề có liên quan đến FDI và cơ cấu kinh tế, làm rõ
khái niệm, lý thuyết về ảnh hưởng của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Thứ hai, phân tích thực trạng thu hút, sử dụng FDI và tác động của nó đến chuyển
dịch cơ câu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ ba, xác định mục tiêu, phương
hướng và đề xuất giải pháp chủ yếu về kinh tế, kỹ thuật và cơ chế, chính sách
nhằm thu hút và sử dụng FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh theo hướng hiệu quả và bền vững. Qua phương pháp phân tích, tổng
hợp, tác giả cho thấy khu vực FDI trở thành động lực quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với phương pháp thống kê mô tả giúp đánh giá được
vai trò, giá trị và những hạn chế của FDI trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã
hội ở Thành phố Hồ Chí Minh. Và luận án cũng đã đề ra một số giải pháp nhằm
thu hút FDI phục vụ cho quá trình chuyên dịch cơ cấu kinh tế.
4
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI)
FDI là viết tắt của Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài),
là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay tổ chức nước ngoài đó sẽ
nắm quyền quản lý cơ sơ sản xuất kinh doanh này
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc
tổ chức, cá nhân người nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì
tài sản nào đươc Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở
hợp đồng hóa hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
Theo tổ chức Thương mại Thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một
nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện
quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ
sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được định nghĩa là hiện tượng chuyển dịch
vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích đầu tư vào một lĩnh vực
hay một ngành sản xuất kinh doanh nào đó để thu hồi vốn và có lợi nhuận.
Trường hợp tổ chức cá nhân nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp
Việt Nam hoặc người Việt Nam định cư nước ngoài đầu tư về nước theo Luật
khuyến khích đầu tư trong nước không được xem là đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam.
2.1.2. Đặc điểm của FDI
Đây là hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tự quyết
định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về vấn đề lãi,
5
lỗ, những khó khăn, ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho
nước nhận đầu tư.
Nhà ĐTNN sẽ trực tiếp tham gia điều hành hoặc điều hành toàn bộ hoạt
động đầu tư mặc dù có sự bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa với nước nhận đầu tư.
Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ.
Nước nhận đầu tư sẽ tiếp nhận được công nghệ kỹ thuật tiến tiến, học hỏi
kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài thông qua các chương trình đào tạo,
hoặc qua việc trực tiếp tham gia quản lý.
Nhà ĐTNN sau một thời gian đầu tư, họ sẽ mở rộng đầu tư bằng nguồn lợi
nhuận thu được từ các dự án đầu tư.
Đi kèm với các dự án ngoài chuyển giao công nghệ còn có hoạt động
thương mại (xuất nhập khẩu), sự di cư lao động quốc tế, chính sự di cư này đã
góp phần vào chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp FDI.
FDI là sự gặp nhau giữa cung cầu của nhà ĐTNN và nước nhận đầu tư.
2.1.3. Vai trò của FDI
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư: Khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế nước ta. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào
tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa
qua. Các nghiên cứu gần đây đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu
vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều
ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm
cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công
nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh
nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự
án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ
của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn
tích cực hữu hiệu.
Về mặt kinh tế, FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai
6
nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình
thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua
vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. FDI là nguồn vốn bổ sung
quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là
với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển vốn là những nước còn
nghèo, tích luỹ nội bộ thấp, để có tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này không
chỉ dựa vào tích luỹ trong nước mà phải dựa vào nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài,
trong đó có FDI. Với các quốc gia này, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối
với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu
tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo
luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước
nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu
là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra
tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng.
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây:
FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về chính
trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư
nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do
vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro
cho nước tiếp nhận đầu tư.
Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997 đã cho
thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước
nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài nên FDI mang tính ổn định hơn so
với những khoản đầu tư khác.
Tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Phần lớn vốn FDI đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó
có những ngành chủ chốt như xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác chế biến dầu khí,
hóa chất và sản xuất thiết bị và hàng tiêu dùng. FDI góp phần làm tăng tỉ trọng
của những ngành này trong nền kinh tế đồng thời tạo điều kiện để hiện đại hóa
nền sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Khu vực có vốn FDI
còn giúp hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại như điện tử, tin
học, viễn thông, lắp ráp ô tô và xe máy, giúp chuyển giao công nghệ và kĩ năng
quản lí tiên tiến nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đầu tư trực
7
tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước tiếp nhận theo nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
vùng lãnh thổ, cơ cấu theo nguồn vốn, cơ cấu vốn đầu tư…
FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù
hợp với các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các
dây chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này sẽ
cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý
hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận được các công nghệ hiện đại của các nước
phát triển lại tuỳ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện
môi trường đầu tư hay không.
FDI giúp giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của dân cư. Vai trò này
của FDI không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả với các nước phát
triển, đặc biệt là khi nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng hoảng theo chu kỳ.
FDI có tác động làm năng động hoá nền kinh tế, tạo sức sống mới cho các doanh
nghiệp thông qua trao đổi công nghệ. Với các nước đang phát triển thì FDI giúp
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phá vỡ cơ cấu sản xuất khép kín theo kiểu
tự cấp tự túc.
FDI cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng quản
lý dây chuyền sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ
chuyên môn cũng như ý thức lao động công nghiệp của đội ngũ công nhân trong
nước.
2.1.4. Các hình thức chủ yếu của FDI
a) Theo hình thức xâm nhập
Đầu tư mới (Greenfield investment) là các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở
nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư
truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư ở các nước phát
triển đầu tư vào các nước đang phát triển.
Mua lại và sáp nhập (Mergers & Acquisitions) là các chủ đầu tư tiến hành
đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước
ngoài. Chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, các nước công nghiệp hóa.
b) Theo mục đích sử dụng
Đầu tư theo chiều ngang (Horizontal integration) là chủ đầu tư có lợi thế
cạnh tranh (công nghệ, kỹ năng quản lý,…) với hình thức này họ có thể kiếm lợi
8
nhuận cao khi chuyển sản xuất sản phẩm ra nước ngoài. Hình thức này giúp các
nhà đầu tư mở rộng và thôn tính thị trường ở nước ngoài cùng với sản phẩm có
lợi thế cạnh tranh ở nước ngoài.
Đầu tư theo chiều dọc (Vertical integration) là hình thức đầu tư ra nước
ngoài với mục đích khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố sản xuất
đầu vào rẻ (lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…). Các chủ đầu tư chú ý
đến khai thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất
ra một loại sản phẩm. Các sản phẩm thường được lấp gáp hoàn thiện ở nước nhận
đầu tư. Sau đó, sản phẩm này sẽ được nhập khẩu lại nước đầu tư hoặc xuất khẩu
sang nước khác.
c) Theo tính chất sở hữu
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản
lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hình thức này có đặc trưng là
dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước
chủ nhà; sở hữu hoàn toàn của nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà
trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên nước chủ nhà và bên nước ngoài để
đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Hình thức này có đặc trưng là dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà; mỗi
bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong
phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều
bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho mỗi bên (nước ngoài và nước sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở
nước chủ nhà mà không thành lập pháp nhân. Hình thức này có đặc trưng là các
bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi và
nghĩa vụ rõ ràng; không thành lập pháp nhân mới; mỗi bên làm nhiệm vụ tài
chính đối với nước chủ nhà theo qui định riêng.
Một số hình thức BOT (xây dựng – kinh doanh – chuyển giao), BTO, BT.
Hình thức BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có
thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, khai thác công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý), sau đó
chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Đặc trưng
9
quan trọng của hình thức này là: cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu tư của nước
ngoài, hoạt động dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn
nước ngoài, chuyển giao không hoàn bồi cho Việt Nam, đối tượng hợp đồng là
các công trình cơ sở hạ tầng. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
(BTO) là hình thức mà sau khi xây dựng xong công trình thì nhà đầu tư nước
ngoài giao lại cho nước chủ nhà, Chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư
nước ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu
hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) là
hình thức sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài bàn giao lại công trình
cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí
liên quan tới công trình và một tỷ lệ thu nhập hợp lý.
2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến FDI
2.1.5.1. Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị là vấn đề được quan tâm đầu tiên của các nhà đầu tư nước
ngoài khi có ý định đầu tư vào một nước mà đối với họ còn nhiều khác biệt. Khi
đó, một đất nước với sự ổn định và nhất quán về chính trị cũng như an ninh và
trật tự xã hội được đảm bảo sẽ bước đầu gây chọ được tâm lý yên tâm tìm kiếm
cơ hội làm ăn cũng như có thể định cư lâu dài. Môi trường chính trị ổn định là
điều kiện tiên quyết để kéo theo sự ổn định của các nhân tố khác như kinh tế, xã
hội. Đó cũng chính là lý do tại sao các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào một
nước lại coi trọng yếu tố chính trị đến vậy.
2.1.5.2. Yếu tố kinh tế
Đối với yếu tố kinh tế, bất cứ quốc gia nào dù giàu hay nghèo, phát triển
hoặc đang phát triển đều cần nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế trong
nước tùy theo các mức độ khác nhau. Những nước có nền kinh tế năng động, tốc
độ tăng trưởng cao, cán cân thương mại và thanh toán ổn định, chỉ số lạm phát
thấp, cơ cấu kinh tế phù hợp thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ cao.
Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư thì một quốc gia có lợi thế về vị trí địa lý,
thuận lợi cho lưu thông thương mại, sẽ tạo ra được sự hấp dẫn lớn hơn, nó sẽ làm
giảm chi phí vận chuyển cũng như khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, rộng
hơn. Còn tài nguyên thiên nhiên, đối với những nước đang phát triển thì đây là
một trong những lợi thế so sánh của họ. Bởi nó còn chứa đựng nhiều tiềm năng
do việc khan hiếm vốn và công nghệ nên việc khai thác và sử dụng còn hạn chế,
10
đặc biệt là những tài nguyên như dầu mỏ, khí đốt … là những nguồn sinh lời hấp
dẫn thu hút nhiều mối qua tâm của các tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới.
2.1.5.3. Yếu tố văn hóa - xã hội
Môi trường văn hóa – xã hội ở nước nhận đầu tư cũng là một vấn đề được
các nhà đầu tư rất chú ý và coi trọng. Hiểu được phong tục tập quán, thói quen, sở
thích tiêu dùng của người dân nước nhận đầu tư sẽ giúp cho nhà đầu tư thuận lợi
trong việc triển khai và thực hiện một dự án đầu tư. Thông thường mục đích đầu
tư là nhằm có chỗ đứng hoặc chiếm lĩnh thị trường của nước sở tại với kỳ vọng
vào sức tiêu thụ tiềm năng của nó. Chính vì vậy, mà trong cùng một quốc gia,
vùng hay miền nào có sức tiêu dùng lớn, thu nhập bình quân đầu người cùng thị
hiếu tiêu dùng tăng thì sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn.
Ngoài ra để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiện thực hóa và đi vào
hoạt động đòi hỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo một cơ sở hạ tầng đủ để
đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đầu tư kể từ lúc bắt đầu triển khai, xây dựng dự án
cho đến giai đoạn sản xuất kinh doanh khi dự án đi vào hoạt động. Đó là cơ sở hạ
tầng công cộng như giao thông, thông tin liên lạc… các dịch vụ đảm bảo cho sinh
hoạt và sản xuất như điện, nước cũng như cácdịch vụ phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh như ngân hàng - tài chính. Bên cạnh đó nước sở tại cũng cần
quan tâm đến việc trang bị một cơ sở hạ tầng xã hội tốt, đào tạo đội ngũ chuyên
môn có tay nghề, nâng cao trình độ nhận thức cũng như trình độ dân trí của người
dân, luôn ổn định tình hình trật tự an ninh - xã hội, có như vậy mới tạo nên sức
hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2.1.5.4. Yếu tố pháp lý
Pháp luật và bộ máy hành pháp có liên quan đến việc chi phối hoạt động
của nhà đầu tư ngay từ khi bắt đầu tìm kiếm cơ hội đầu tư cho đến khi dự án kết
thúc hoạt động. Đây là yếu tố có tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến hoạt
động đầu tư, nếu môi trường pháp lý và bộ máy vận hành nó tạo nên sự thông
thoáng, cởi mở và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như sức hấp dẫn và đảm
bảo lợi ích lâu dài cho các nhà đầu tư thì cùng với các yếu tố khác, tất cả sẽ tạo
nên một môi trường đầu tư có sức thu hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước
ngoài.
2.1.5.5. Các yếu tố Khoa học - Công nghệ
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật một trong các yếu tố khá quan trọng để
thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Sự hiện đại của công nghệ thông tin,
11
công nghệ truyền thông, internet đã góp phần làm cho tin tức lan truyền một cách
nhanh chóng có thể vượt đại dương đến các nước, châu lục khác nhau. Khoa học
kỹ thuật, máy móc hiện đại cũng góp phần thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư nước ngoài.
2.1.5.6. Các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng
Điều kiện tự nhiên về vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên đất, nước, rừng.
Điều kiện xã hội như dân cư, nguồn lao động, hạ tầng giao thông, bưu chính viễn
thông, hệ thống điện nước, tài chính ngân hàng. Là những thế mạnh riêng biệt của
mỗi vùng tạo ra lợi thế cạnh tranh với những vùng, khu vực khác.
2.1.5.7. Yếu tố hội nhập
Quá trình toàn cầu hóa đang là xu thế chính trên thế giới, xu thế này sẽ tạo
ra cơ hội và thách thức để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước
cùng hội nhập, phát triển. Đối tác sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, sức ép cạnh tranh
ngày càng lớn. “Hòa nhập nhưng không hòa tan” chính là sự phát triển nhanh
chóng vượt bậc nhưng vẫn giữ được những nét riêng biệt của vùng, của dân tộc,
của đất nước.
2.1.6. Tác động của FDI đến kinh tế
2.1.6.1. Tác động đến nguồn vốn đầu tư
Vốn đầu tư của toàn xã hội không chỉ là máy móc, thiết bị dùng cho sản
xuất, mà còn bao gồm cả lượng vốn đầu tư để phát triển lợi ích chung của toàn xã
hội. Đó là lượng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của quốc gia, mà phần lớn là
do chính phủ đầu tư. Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cũng đóng vai trò
quan trọng không kém. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự
thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển.
Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào tình trạng thu nhập thấp dẫn
đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập thấp. Tình
trạng “luẩn quẩn" này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải vượt qua
để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ
của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì
hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó
vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn
12
quẩn” đó. Đặc biệt là FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà
không gây nợ cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ
nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ: Thời hạn trả nợ
vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời
hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Stront có hai cản trở
chính cho sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia đó là: Tiết kiệm không đủ đáp
ứng cho nhu cầu đầu tư được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”.Và thu nhập của hoạt
động xuất khẩu không đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được
gọi là “lỗ hổng thương mại”.
Hầu hết các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI góp
phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước
nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ
các hoạt động dịch vụ cho FDI.
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước
tiếp nhận: Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng
huy động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư , có thể
gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu tỷ
trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ
có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững
chắc. Thực tế đã cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước
ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng,
hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý, gây ra thiệt hại to lớn cho nền kinh tế của
nước tiếp nhận đầu tư. Các nguồn vốn này thường dành cho đầu tư các dự án
thuộc loại “gia công”, tỷ lệ giá trị gia tăng chưa cao.
FDI đã tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, lành mạnh đối với các doanh
nghiệp địa phương cùng sản xuất một mặt hàng. Có trường hợp, Thành phố đã
phải chuyển nhượng luôn phần vốn góp của đối tác trong nước cho đối tác nước
ngoài trong liên doanh như Nhà máy Bia Sông Hàn đã phải bán cho Công ty Bia
Fosters’ của Australia do sản phẩm bia của địa phương không cạnh tranh được
trên thị trường. Có thể nói, trong thời gian qua, tác động tiêu cực của FDI đối với
doanh nghiệp trong nước thông qua việc cạnh tranh chưa nhiều, nhưng đang có
xu hướng tăng trong thời gian tới.
13
Với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có
các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu những tác
động tiêu cực này và sử lý hài hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước ngoài với lợi
ích quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.
Để đánh giá tác động của FDI đến nguồn vốn phát triển, có thể đo lường
sự gia tăng hoặc sụt giảm của nguồn vốn ngoại tệ, chất lượng máy móc, cơ sở hạ
tầng, v.v…
2.1.6.2. Tác động đến chuyển giao công nghệ
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại,
trình độ chuyên môn, quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu
tư không chỉ vào nước đó bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc
thiết bị, nhiên vật liệu, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường. Do vậy về
lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể
thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công
nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch
chuyển cơ cấu kinh tế của các nước nhận đầu tư.
FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật
cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và
quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất
phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc
đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý
có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình
độ kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn Quốc
còn kém về lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật, và các
nước khác mà năm 1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 thế
giới.
Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia
khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ
cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể
tiếp thu được các công nghệ thuận lợi nhất. Tiến bộ công nghệ có tác dụng thúc
đẩy tăng trưởng vì nó góp phần làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu suất
sử dụng vốn, tiết kiệm lao động và vốn trên sản phẩm nên cùng lượng chi phí
nhưng sản phẩm tạo ra nhiều hơn và mở ra các ngành nghề và sản phẩm mới.
14
Ở chiều ngược lại, khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh
đầu tư trực tiếp nước ngoài một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận nhiều
kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những
công nghệ, kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải
thích: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên
máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển
giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ,
đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng của sản phẩm của chính nước họ. Hai là,
vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sử
dụng lao động. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng,
kết quả là giá thành phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những
công nghệ có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao
công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như:
- Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó
nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ vốn góp trong các doanh
nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc phân chia lợi nhuận.
- Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng
chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công
nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi
trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu
hiệu.
- Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao, do đó sản phẩm của các nước
nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công
nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn. Ví dụ, theo báo
cáo của ngân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiết bị của các nước Mỹ La-tinh nhập
khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu. Cũng tương tự, các
trường hợp chuyển giao công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm tra
nên đã bị nhiều thiệt thòi.
Để đánh giá tác động của FDI đến chuyển giao công nghệ, có thể xem xét
đến các yếu tố về cơ sở vật chất, năng suất lao động, chất lượng thành phẩm,
v.v… sau một thời gian được chuyển giao công nghệ mới so với trước khi được
đầu tư từ nước đầu tư.
2.1.6.3 Tác động đến tăng trưởng kinh tế
15
a) Định nghĩa tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập đạt được trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm) của một quốc gia (hoặc địa phương).
Hay như định nghĩa do Douglass C. North và Robert Paul Thomas (1973) đưa ra:
“Tăng trưởng kinh tế xảy ra nếu sản lượng tăng nhanh hơn dân số”. Sự gia tăng
này được biểu hiện ở quy mô và tốc độ. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng
số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Quy mô
tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử
dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa
các thời kỳ
b) Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế
FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khu vực FDI là một thành phần kinh tế,
đóng góp vào quá trình tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Một mặt, FDI bổ
sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế về phía
cầu (cầu lao động, yếu tố nhập lượng, v.v…). Mặt khác, thông qua các hình thức
đầu tư, FDI đã hình thành một hệ thống doanh nghiệp FDI, làm tăng khả năng sản
xuất của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế về phía cung (sản phẩm, dịch
vụ, v.v…).
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn
thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh kinh tế. Đây cũng là điểm
nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi các “vòng luẩn quẩn” của sự đói
nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực
hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng
của các nhân tố bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó
tạo được tốc độ tăng trưởng cao.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc
đẩy kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác
những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
Thực tế trong những năm qua cũng như dự báo cho giai đoạn tới đã khẳng
định tầm quan trọng của FDI với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Đánh giá
đúng vị trí, vài trò của đầu tư nước ngoài, Đại hội lần thứ IX của Đảng ta đã coi
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế, là một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát
triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu
16
hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện
nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước
ngoài đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Tuy nhiên, FDI chỉ tập trung ở một số vùng đô thị còn những vùng kinh tế
chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng kém phát triển hầu như ít thu
hút được FDI, tạo ra sự chênh lệch kinh tế giữa các vùng, miền càng rõ rệt. Hơn
nữa, FDI tập trung quá nhiều tại các thành phố lớn sẽ càng gia tăng sức ép cho
các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.
Các chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá tác động đến tăng trưởng kinh
tế là sự tăng giảm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người,
tổng sản lượng quốc gia (GNP), hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
2.1.6.4. Tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa đời sống
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngoại. Các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân
công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới,
đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự
phân công lao dộng quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của quốc gia phù hợp
với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư
nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước
nhận đầu tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển nhanh
chóng của trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy
tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ trọng của nó trong nền
kinh tế. Ba là, một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
Tuy nhiên nhiều nhà đầu tư nước ngoài chỉ tập trung đầu tư vào các ngành
có thể thu lợi nhuận cao trong thời gian ngắn, điều này dẫn đến tình trạng một số
ngành mở rộng quy mô quá mức so với nhu cầu của cơ cấu kinh tế, làm cho việc
17
sử dụng các nguồn lực phát triển trở nên kém hiệu quả, gây ra tình trạng cạnh
tranh thiếu lành mạnh, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp
cho các nước kém và đang phát triển, thậm chí đôi khi còn là những hàng hóa có
hại cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích
dùng thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy
thay thế xà phòng v.v...
Để đánh giá tác động của FDI đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự tăng
giảm tỷ trọng theo khu vực sẽ được xem xét. Trong đó: khu vực I bao gồm các
ngành nông-lâm-ngư nghiệp, khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây
dựng, khu vực III gồm các ngành dịch vụ.
2.1.7. Hệ số ICOR
Theo Đỗ Văn Huân (2006), hiện nay hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sản xuất kinh doanh đang được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên
bình diện quốc gia nó còn là những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc
gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế (lao động,
vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay thì yếu tố vốn được coi là nhân tố quan trọng nhất. Một trong những chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đó là hệ số ICOR (Incremental Capital Output
Ratio - Tỷ số vốn /sản lượng tăng thêm).
*Phương pháp tính hệ số ICOR
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư (mô hình
Harrod - Domar). Tính hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:
- Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy
động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
- Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện
theo một hệ số cố định.
Hệ số ICOR là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác
định theo công thức:
ICOR = Vt /(Gt – Gt-1)
Trong đó:
18
Vt: Tổng vốn đầu tư của năm nghiên cứu tính theo giá thực tế;
Gt: GDP năm nghiên cứu tính theo giá thực tế;
Gt-1: GDP năm trước nghiên cứu tính theo giá thực tế;
Các chỉ tiêu về vốn đầu tư và tổng sản phẩm trong nước để tính hệ số ICOR
phải được tính theo cùng một loại giá: Giá thực tế hoặc giá so sánh. Khi tính theo
giá thực tế phải tính theo giá thực tế của cùng một năm, cụ thể phải chuyển GDP
của năm trước năm nghiên cứu (Gt-1) về giá thực tế của năm nghiên cứu (giá thực
tế dùng để tính Gt).
Ý nghĩa của ICOR là để tạo thêm được một đơn vị GDP thì cần tăng thêm
bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho một
đơn vị GDP càng cao; ICOR càng cao thì càng là dấu hiệu xấu, chứng tỏ vốn đầu
tư trở thành yếu tố quá quan trọng trong khi các nhân tố tăng trưởng khác lại
không phát huy.
2.1.8. Chính sách thu hút FDI của Chính phủ Việt Nam
Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Sau
gần 30 năm thực hiện chính sách mở cửa thu hút ĐTNN, đến nay khu vực kinh tế
có vốn ĐTNN đã trở thành bộ phận của nền kinh tế, là khu vực phát triển năng
động nhất và ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam. Để thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, trong những
năm qua Việt Nam đã thực hiện chính sách “trải thảm đỏ” kêu gọi thu hút đầu tư
nước ngoài bằng nhiều chính sách, khuyến khích, ưu đãi đầu tư, trong đó có chính
sách ưu đãi về thuế. Cụ thể: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được ban
hành năm 2008 và Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi một số điều của Luật Thuế
TNDN được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2013 (có hiệu lực từ 01/01/2014)
được đánh giá là có sự đổi mới mạnh mẽ với nhiều chính sách ưu đãi, khuyến
khích DN đầu tư
Đề phù hợp với tình hình mới, Chính phủ đã có Nghị quyết 103/NQQ-CP
ngày 29/8/2013 về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Theo đó, thu hút đầu tư có chọn lọc, đi
vào chiều sâu và có tính lan toả cao với trọng tâm là thu hút các dự án sử dụng
công nghệ cao, công nghệ sạch, có giá trị gia tăng cao và có khả năng tạo ra các
sản phẩm có sức cạnh tranh; các dự án sản xuất hàng xuất khẩu; các dự án phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Loại dự án tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường,
19
những dự án có quy mô vốn thấp nhưng sử dụng diện tích đất lớn, những dự án
khai thác, sử dụng nhiều tài nguyên môi trường và công nghệ lạc hậu, những dự
án tiêu tốn nhiều năng lượng… sẽ được xem xét một cách cẩn trọng. Việt Nam sẽ
tiếp tục tập trung vào đối tác có tiềm năng tài chính, công nghệ nguồn, công
nghiệp hỗ trợ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hoa Kỳ, Châu Âu…. Các giải
pháp cụ thể là:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư
theo hướng nhất quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo, tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực; tăng cường
khung pháp lý bảo hộ nhà đầu tư phù hợp với thông lệ quốc tế; hoàn thiện cơ
chế, chính sách khuyến khích thu hút các dự án công nghệ cao và phù hợp vào
Việt Nam, đồng thời đảm bảo kiểm soát công nghệ nhập khẩu.
Thứ hai, đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT): hoạt động XTĐT cần
gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; tăng cường
XTĐT đối với các tập đoàn lớn, đa quốc gia; đồng thời chú trọng XTĐT đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; đối với
các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào Việt Nam; đặc biệt việc
XTĐT cũng tập trụng chú trọng vào các dự án FDI có chất lượng, đạt mục tiêu
phát triển nền kinh tế bền vững; nói không với những dự án tiềm ẩn nguy cơ ô
nhiệm môi trường và công nghệ lạc hậu.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện tốt công tác cải thiện cơ sở hạ tầng, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao: Đây là những điều kiện tiền đề rất quan trọng cho
việc thu hút cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các dự án ĐTNN trong
thời gian tới. Về cơ sở hạ tầng thì cần huy động mọi nguồn lực để thực hiện
“Chương trình kết cấu hạ tầng đồng bộ đến 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt. Hướng các dự án này đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT và PPP. Về
nguồn nhân lực: khẩn trương triển khai các chương trình hành động để phát triển
nguồn nhân lực; triển khai việc đào tạo lao động theo nhu cầu doanh nghiệp.
Thứ tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: Tiếp tục triển khai đối
thoại chính sách với các nhà đầu tư, doanh nghiệp thông qua Diễn đàn doanh
nghiệp Việt Nam. Triển khai tốt Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản và các mô
hình hỗ trợ nhà đầu tư như đối thoại chính sách Keidanren, Japan Desk, Korea
Desk, Ichi Desk,…
20
- Xem thêm -