Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ “phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty cổ phần mai linh...

Tài liệu “phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty cổ phần mai linh

.DOCX
82
100
80

Mô tả:

Chuyên đề tốt nghiệp 1 Đại học Kinh Tế Quốc Dân LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay nền kinh tế nước ta đã từng bước ổn định, phát triển và ra nhập nền kinh tế thế giới và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang chuyển biến không ngừng đổi mới trong quản lý, để cạnh tranh, tồn tại và phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp đóng một vai trò quyết định vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, bởi mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế. Trong đều kiện nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết doanh nghiệp phải tự chủ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như tự hạch toán kinh doanh đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và đảm bảo đời sống không ngừng được cải thiện cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Do vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý là vấn đề quản trị tài chính doanh nghiệp, mà một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp là việc kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên, thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Và để làm tốt điều đó bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện phân tích đánh giá tình hình tài chính của mình một cách thật chi tiết, khoa học để từ đó doanh nghiệp có kế hoạch, định hướng và hoạt động có hiệu quả hơn. Vì chỉ trên cơ sở phân tích tài chính thì doanh nghiệp mới đánh giá được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ, thấy được những trọng điểm quản lý của công tác quản trị tài chính để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình. Hơn nữa, việc phân tích tài chính doanh nghiệp không những đáp ứng nhu cầu cần thiết về quản trị nội bộ mà đồng thời sẽ giúp cho các nhà đầu tư, các tín chủ có được những thông tin hữu ích về tài chính doanh nghiệp, để từ đó họ có những quyết định đúng đắn trong việc đầu tư cho vay. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 2 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Mặt khác, sự xuất hiện của thị trường chứng khoán ở Việt Nam tạo cho các nhà doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư. Khi đó việc phân tích tài chính ở các doanh nghiệp sẽ trở nên quan trọng hơn, nó giúp cho các nhà đầu tư thấy được tình hình tài chính của doanh nghiệp mà họ muốn đầu tư có được lành mạnh hay không từ đó họ mới có đủ tin cậy để đầu tư. Từ những vấn đề nêu trên cùng với những kiến thức đã học và qua thời gian tìm hiểu thực tế về tình hình phân tích tài chính của doanh nghiệp, rõ ràng phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh đang được Ban lãnh đạo công ty đặc biệt quan tâm. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty cổ phần Mai Linh “ để thấy được những thuận lợi, khó khăn về tài chính của công ty. Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trong năm kế tiếp. NỘI DUNG KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ: CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAI LINH THANH HÓA CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAI LINH THANH HÓA Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 3 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1 KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI DOANH NGHIỆP 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. 1.1.2 Phân loại doanh nghiệp Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh sau đây: - Kinh doanh cá thể (sole proprietorship) - Kinh doanh góp vốn(parnership) Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 4 Đại học Kinh Tế Quốc Dân - Công ty (corporation) Kinh doanh cá thể * Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. * Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. * Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. * Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của người chủ. * Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ. Kinh doanh góp vốn * Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có giấy phép kinh doanh. * Các thành viên chính thức (general partners) có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. * Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn. * Khả năng về vốn hạn chế. * Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Công ty Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 5 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn. * Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới. * Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông. * Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vốn vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, có thể coi tất cả các loại hình đó là doanh nghiệp. Về nguyên tắc, nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp là như nhau. 1.2 PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết phân tích tài chính doanh nghiệp a)Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế, đó là: Nhà nước, thị trường tài chính, các thị trường khác, và ngay cả trong nội bộ doanh nghiệp. Chính vì vậy mà tình Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 6 Đại học Kinh Tế Quốc Dân hình tài chính của doanh nghiệp được hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế quan tâm. Cho đến ngày nay, phân tích tài chính đã trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với các nhà quản trị trước nhu cầu quản lý doanh nghiệp sao cho hiệu quả ngày càng tăng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn và khả năng sử dụng công nghệ thông tin ngày càng rộng rãi. Có thể hiểu: Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính và tiềm lực của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. b) Sự cần thiết phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích kinh tế là tổng thể các phương pháp và công cụ cho phép ta thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm quản lý doanh nghiệp, đánh giá tình hình tài chính về khả năng và triển vọng của doanh nghiệp. Từ đó giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định quản lý phù hợp (kể cả các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như các nhà sử dụng thông tin khác). Sự ra đời của phân tích kinh tế cùng với vai trò quan trọng của tài chính doanh nghiệp đã thúc đẩy hình thành lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc phân tích các báo cáo tài chính, các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các phương pháp, các công cụ và kỹ thuật phân tích mà các đối tượng quan tâm có những thông tin thích hợp và cần thiết về tình hình tài chính doanh nghiệp để từ đó đưa ra các dự báo và các quyết định tài chính phù hợp. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 7 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Như vậy, việc phân tích tài chính là công cụ chủ yếu phục vụ đắc lực cho công tác đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhằm đưa ra các thông tin chính xác, đầy đủ và toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều vấn đề tài chính nảy sinh đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những quyết định tài chính kịp thời và đúng đắn. Và để đưa ra những quyết định được xem là đúng đắn đó thì các nhà quản lý doanh nghiệp phải biết được thông tin về “toàn cảnh bức tranh tài chính” của doanh nghiệp. Và để có được những thông tin đó nhất thiết phải thông qua hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Vì chỉ có hoạt động phân tích tài chính thì mới có thể cung cấp thông tin về “toàn cảnh bức tranh tài chính” của doanh nghiệp cho các chủ thể cần thông tin trong việc đưa ra các quyết định. Thông qua việc phân tích tài chính doanh nghiệp giúp các nhà quản lý có thể kiểm soát được tình hình tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh để từ đó có thể dự đoán và đưa ra các quyết định tài chính thích hợp. Hơn nữa, thông qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mà đề ra các biện pháp để khai thác tiềm năng cũng như khắc phục những hạn chế, vướng mắc tồn tại trong doanh nghiệp nhằm góp phần đưa doanh nghiệp vào quỹ đạo phát triển ổn định và lành mạnh. Ngoài ra, việc phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ là sự quan tâm của các nhà quản lý doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của nhiều đối tượng khác trong mối quan hệ kinh tế xã hội như: Nhà đầu tư; chủ nợ; khách hàng; cơ quan quản lý Nhà nước như Thuế, kiểm toán, cơ quan hữu quan khác…; kể cả người lao động. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 8 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Như vậy, xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp cho các chủ thể cần sử dụng thông tin về doanh nghiệp, mà việc phân tích tài chính ở mỗi doanh nghiệp là cần thiết và không thể thiếu được ở các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 1.2.2 Yêu cầu của việc phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc phản ánh các quan hệ mật thiết giữa các khoản mục và các nhóm khoản mục trong báo cáo tài chính, để xác định các thông tin cần thiết phục vụ cho các nhà quản lý trong doanh nghiệp và các đối tượng khác trong việc đưa ra quyết định phù hợp với các mục tiêu của đối tượng đó. Vì vậy, khi phân tích tài chính doanh nghiệp cần phải đạt được một số vấn đề sau: - Đối với doanh nghiệp nói chung: Việc phân tích tài chính doanh nghiệp phải cung cấp được đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin kinh tế cần thiết, bao gồm các thông tin về công nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời cũng như các nhân tố làm thay đổi nguồn vốn, khả năng thanh toán và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó giúp các nhà quản lý có thể dự đoán tình hình tài chính và đưa ra các quyết định đúng đắn, phù hợp cho doanh nghiệp. Mặt khác, việc phân tích tài chính còn phải cung cấp những thông tin về tình hình khai thác, sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qua đó mà các nhà quản lý doanh nghiệp lập kế hoạch khai thác, tạo lập vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp. - Đối với các đối tượng khác: Việc quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp không chỉ các nhà quản lý doanh nghiệp mà còn cả các nhà đầu tư, ngân hàng, cổ đông và cả cơ quan hữu quan Nhà nước… Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 9 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Vì vậy, khi phân tích tài chính doanh nghiệp phải cung cấp những thông tin tối thiểu mà họ yêu cầu như: Khả năng thanh toán, tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp (hiệu quả sử dụng vốn ?), những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các sự kiện, các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. 1.2.3 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Xuất phát từ sự cần thiết và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp cũng như bản chất và nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm: a) Phân tích khái quát tình hình vốn và nguồn vốn, tình hình thu chi trong doanh nghiệp * Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét, đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên bảng cân đối kế toán (BCĐKT) về nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để tiến hành phân tích ta trình bày BCĐKT dưới dạng bảng cân đối báo cáo từ tài sản đến nguồn vốn sau đó so sánh số liệu cuối kỳ so với đầu kỳ theo từng chỉ tiêu để xác định tình hình tăng giảm vốn trong doanh nghiệp theo nguyên tắc: Sử dụng vốn: Tăng tài sản và giảm nguồn vốn. Nguồn vốn: Tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Thực chất của việc phân tích này là phân tích sự thay đổi của các khoản mục trong BCĐKT, cho ta thấy được nguồn vốn tăng giảm là bao nhiêu? Sử dụng vốn như thế nào? Sự thay đổi này có hợp lý hay không? Từ đó có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 10 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp * Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn ngắn hạn và nguồn dài hạn. Nguồn ngắn hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh có thời gian trên một năm, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết để đầu tư hình thành tài sản cố định, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành tài sản lưu động. Chênh lệch giữa nguồn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nguồn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn của tài sản phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu động thường xuyên. Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn _ Tài sản cố định _ Tài sản lưu động Nguồn vốn = ngắn hạn + Khi nguồn vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là nguồn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn. Tài sản lưu động không đủ đáp ứng, nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng. + Khi nguồn vốn lưu động thường xuyên = 0 nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ đủ cho tài sản cố định và tài sản lưu động., đủ cho doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 11 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp + Khi vốn lưu động thường xuyên > 0 nghĩa là nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định, phần dư thừa sẽ đầu tư vào tài sản lưu động. Tài sản lưu động lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Như vậy vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn dài hạn hay không? Nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên để phân tích. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các _ khoản phải thu Nợ ngắn hạn Trong thực tế xảy ra các trường hợp sau: + Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là các nguồn vốn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng nguồn ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhân thêm vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. + Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 nghĩa là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Trường hợp Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 12 Đại học Kinh Tế Quốc Dân này doanh nghiệp phải có biện pháp để giải phóng tồn kho và các khoản phải thu từ khách hàng. * Phân tích các dòng ngân quỹ của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan trọng. Ở một thời điểm nhất định tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình thái biểu hiện của tài sản lưu động. Nhưng trong quá trình kinh doanh, sự vận động của tiền được xem là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh, phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về luồng tiền của doanh nghiệp rất hữu dụng trong việc cung cấp cho người sử dụng một cơ sở để đánh giá khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng luồng tiền đó. Ngoài ra, còn giúp doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính ngắn hạn dự báo luồng tiền phát sinh để chủ động trong đầu tư hoặc huy động vốn tài trợ. Chính vì thế, hệ thống báo cáo tài chính phải có bảng báo cáo bắt buộc để công khai về sự vận động của tiền thể hiện được lượng tiền doanh nghiệp đã thực thu chi trong kỳ kế toán (thực tế ở Việt Nam năm 2004 báo cáo này mới thực sự là một báo cáo bắt buộc đối với các doanh nghiệp). b) Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp Trong phân tích tài chính doanh nghiệp các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu được phân thành 4 nhóm: Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu nguồn vốn và tài sản Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động Nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 13 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Tùy vào mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng đến nhóm chỉ tiêu, tỷ lệ này nhiều hơn nhóm chỉ tiêu và tỷ lệ khác. Các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính cung cấp cho các nhà phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng vấn đề cụ thể liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm chỉ tiêu và tỷ lệ từ đó đưa ra kết luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên điều gì mà nó cần được so sánh với các chỉ tiêu và tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp đó và chỉ tiêu, tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp trong cùng ngành. * Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn cần huy động các nguồn tín dụng để tài trợ cho nguồn vốn thiếu hụt của mình. Việc doanh nghiệp có huy động được vốn hay không phụ thuộc vào khả năng tài chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì ngân hàng hay chủ nợ sẽ yên tâm cho doanh nghiệp vay vốn. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo tồn được vốn mà còn giúp cho doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán. Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán bao gồm: + Hệ số khả năng thanh toán tổng quát Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 14 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng nợ phải trả. Hệ số này phản ánh một đồng nợ của doanh nghiệp được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản. Tổng tài sản của doanh nghiệp Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng nợ của doanh nghiệp Nếu hệ số này lớn nó phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt và ngược lại. Như vậy chỉ tiêu này cho biết nhìn chung doanh nghiệp có khả năng chi trả các khoản nợ phải thanh toán hay không? Trong tổng nợ cũng có những khoản chưa đến hạn trả, đã đến hạn trả hoặc quá hạn. Do đó chỉ tiêu này dùng để xem xét một cách chung nhất khả năng thanh toán làm cơ sở đánh giá doanh nghiệp mà thôi. + Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn Tài sản lưu động và ĐTNH Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải thanh toán trong kỳ. Do đó doanh nghiệp phải dùng tài sản thực có của mình để thanh toán bằng cách chuyển đổi một phần tài sản thành tiền. Trong tổng số tài sản mà doanh nghiệp quản lý sử dụng và sở hữu chỉ có tài sản lưu động trong kỳ là có khả năng chuyển đổi thành tiền. + Hệ số khả năng thanh toán nhanh Tiền và các khoản tương đương tiền Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 15 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Tiền và các khoản tương đương tiền là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền gồm: Tiền, chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao. + Hệ số thanh toán lãi vay Lợi nhuận trước lãi vay và thuế Hệ số thanh toán tiền lãi vay = Lãi vay Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định, nguồn để trả lãi vay là lợi nhuận gộp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác sau khi đã trừ đi chi phí quản lý. So sánh giữa nguồn để trả lãi với lãi vay phải trả sẽ cho ta biết doanh nghiệp đã sẵn sàng trả nguồn lãi vay tới mức độ nào. Hệ số này còn cho ta biết số vốn đi vay đã sử dụng tốt tới mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả không. + Hệ số thanh toán nợ dài hạn GTCL của TSCĐ hoạt động từ vay dài hạn Hệ số thanh toán nợ dài hạn = Nợ dài hạn Nợ dài hạn là những khoản nợ có thời gian trên một năm, doanh nghiệp đi vay để đầu tư hình thành tài sản cố định. Nguồn để trả nợ dài hạn chính là giá trị tài sản cố định được hình thành bằng vốn vay chưa được thu hồi. Vì vậy người ta thường so sánh giữa giá trị còn lại của tài sản cố định được hình thành bằng vốn vay với số dư nợ dài hạn để xác định khả năng thanh toán nợ dài hạn. * Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu nguồn vốn và tài sản + Hệ số nợ tổng tài sản Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 16 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp Nợ phải trả Hệ số nợ tổng tài sản = Tổng tài sản Hệ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ này là vừa phải vì tỷ lệ này thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ sở hữu thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nhưng nếu tỷ lệ nợ quá cao doanh nghiệp dễ rơi vào trạng thái mất khả năng thanh toán. + Hệ số vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số vốn chủ sở hữu = Tổng nguồn vốn Hệ số này phản ánh trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng thì vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng là bao nhiêu, thể hiện mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp hay là mức độ tự tài trợ của chủ doanh nghiệp đối với nguồn vốn kinh doanh của mình. Nếu hầu hết tài sản của doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng số vốn của chủ doanh nghiệp, các chủ nợ đều thích tỷ suất tài trợ đó cao vì họ nhìn vào chỉ số này để tin tưởng một sự đảm bảo cho những món nợ vay được hoàn trả đúng hạn. + Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu Tổng nợ phải trả Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu = Nguồn vốn chủ sở hữu Qua hệ số này ta thấy được sự tương quan giữa hai bộ phận tạo thành vốn của doanh nghiệp, trong điều kiện doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì hệ số này cao mang lại hiệu quả cho chủ sở hữu càng cao. Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 17 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp * Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động Việc phân tích nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động giúp nhà quản trị tài chính thấy được kết quả của việc sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Qua việc phân tích chỉ tiêu về khả năng hoạt động có tác dụng đo lường xem doanh nghiệp khai thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả như thế nào? + Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Số dư bình quân hàng tồn kho trong kỳ Chỉ số này phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn vật tư hàng hóa trong kỳ cho biết tính hiệu quả của hoạt động dự trữ của doanh nghiệp. + Vòng quay vốn lưu động Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Tài sản lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng nhằm đo lường hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Nghĩa là doanh nghiệp đầu tư một đồng vốn lưu động thì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. + Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong năm. + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính 18 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chuyên đề tốt nghiệp Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tổng tài sản Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản mang lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. + Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân ngày Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu, chỉ tiêu này còn cho biết cứ đầu tư một đồng vào vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Nếu kỳ thu tiền bình quân càng dài thì doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn, ứ đọng trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi nợ chậm. * Nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời Nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu = x100 % Doanh thu thuần Chỉ tiêu này được dùng để phản ánh một đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. + Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản = Sinh viên: Hồ Thanh Hải x 100 % Nguồn vốn chủ sở hữu Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 19 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chỉ tiêu này được dùng tính trên cơ sở so sánh tổng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp với tổng nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp. 1.3 CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.3.1 Quan điểm về chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là mục tiêu mà các nhà phân tích tài chính muốn hướng đến. Phân tích tài chính bao gồm rất nhiều đối tượng quan tâm từ vĩ mô cho đến vi mô, thông tin vô cùng đa dạng, nhiều phương pháp phân tích, nội dung phân tích đề cập đến nhiều vấn đề… Do vậy, để phân tích tài chính có chất lượng thì việc phân tích trước hết phải được quan tâm một cách đồng bộ ở tất cả các doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp cần được coi là một công việc nghiêm túc quyết định trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bên cạnh mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút đầu tư… Phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là việc khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, cùng với việc tính toán đơn thuần một vài chỉ tiêu mang tính dập khuôn, máy móc, theo mẫu quy định sẵn mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu những chỉ tiêu mới sau đó kết hợp các chỉ tiêu đặt trong mối quan hệ hữu cơ để so sánh. Các con số được tính toán mang tính định lượng, cần phải kết hợp với việc phân tích khoa học, logic để đưa ra những quyết định tài chính phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính đã đề cập đến ở phần trên, để phân tích tài chính doanh nghiệp có chất lượng, có thể kể đến một số yếu tố sau: a) Cung cấp đầy đủ thông tin Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp 20 Đại học Kinh Tế Quốc Dân Phân tích tài chính doanh nghiệp rất cần đến yếu tố thông tin, chất lượng phân tích có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào lượng thông tin được cung cấp ở mức độ nào. Các nguồn thông tin ở đây được hiểu không chỉ là nguồn thông tin bên trong và bên ngoài do doanh nghiệp thu thập được mà còn là những nguồn thông tin quan trọng được cung cấp đầy đủ bởi các nhà cung cấp thông tin liên quan đến phân tích tài chính doanh nghiệp như hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, các thông tin về chính sách Nhà nước… mà việc thiếu đi một trong vài thông tin liên quan đến vấn đề này có thể ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phân tích tài chính của doanh nghiệp. Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin nhưng là nguồn thông tin có chọn lọc và có chất lượng, bởi cũng là thông tin nhưng nó có đầy đủ và trung thực không mới là điều quan trọng, điều này bản thân doanh nghiệp không tự làm được mà tùy thuộc vào những nhà cung cấp thông tin. b) Độ chính xác của các chỉ tiêu và các nhân tố tác động Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các chỉ tiêu tính được như khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính, khả năng sinh lời… và các nhân tố tác động như quan điểm của lãnh đạo về phân tích tài chính doanh nghiệp, công tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính, người thực hiện phân tích tài chính… Nói như vậy có nghĩa là yếu tố chính xác được quan tâm hàng đầu, bởi vì phân tích tài chính dựa trên các con số tính toán được và chọn ra chỉ tiêu nào cần thiết phục vụ cho mục tiêu phát triển, dựa trên các con số này mà các nhà phân tích đưa ra những quyết định tài chính và những giải pháp do vậy chỉ cần một sự sai sót nhỏ có thể dẫn đến những sai phạm lớn cho những kết luận tài chính. Bên cạnh đó, chất lượng phân tích có tốt cũng do các nhân tố tác động được xác định chính xác như thế nào, ở từng nhân tố xem Sinh viên: Hồ Thanh Hải Khoa Ngân hàng – Tài chính
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan