PHÂN TÍCH CÁC THÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC TRÊN LĨNH VỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1
PHÂN TÍCH CÁC THÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC
TRÊN LĨNH VỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
--------------------Nội dung bài thu hoạch gồm 3 phần:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ
LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC
II. NHỮNG THÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC TRÊN
LĨNH VỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Phần III: Kết luận
------------------------------------------------------------------------Phần I: Mở đầu
Công tác tư tưởng của Đảng ta là hoạt động có định hướng nhằm xác
lập, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng và
định hướng giá trị đúng đắn, góp phàn xây dựng thế giới quan khoa học, tư
tưởng, nhân cách, lối sống, tri thức để đảm bảo cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân có hành động tích cực, chủ động, sáng tạo thực hiện thắng lợi mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi mới ra đời và trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn xác định công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng, là bộ phận
cấu thành trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tư tưởng đã
bám sát cuộc sống, góp phần xác lập và phát triển quan điểm đổi mới, khơi
dậy và nhân lên sức sáng tạo, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khơi
dậy sức mạnh tổng hợp mới của toàn dân tộc, đưa đất nước vượt qua khó khăn,
thử thách, tạo tiền đề cho thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, hiện nay công tác tư tưởng đang
đứng trước những thách thức vô cùng to lớn đó là: Niềm tin vào những giá trị
tư tưởng và lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vào chủ nghĩa xã hội của một
số người có chiều hướng giảm sút; mức độ và khả năng giải quyết những vấn
đề lý luận, những nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội; tình trạng quan liêu, tham nhũng, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” trên
lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của các thế lực thù địch; sự bức xúc của nhân dân
2
về các vấn đề xã hội: phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội; phân hóa giai cấp;
đạo đức xuống cấp; sử dụng đất đai, giải phóng mặt bằng…
Phân tích làm rõ những thách thức trên lĩnh vực tư tưởng làm cơ sở xây
dựng chiến lược công tác tư tưởng là một yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa quan
trọng đối với đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng.
Phần II: Nội dung
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ
LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC
1. Những vấn đề chung về công tác tư tưởng
1.1.Khái niệm
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính
đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong
quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu
thành rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động truyền
bá, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
giá trị đạo đức đúng đắn. Công tác tư tưởng góp phần tạo sự thống nhất cao
trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy tính chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực
hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.2. Vị trí, vai trò của công tác tư tưởng
a. Vị trí
Công tác tư tưởng là một bộ phận hợp thành trong hoạt động lãnh đạo
của tổ chức đảng, một mặt công tác trọng yếu của chính quyền và các tổ chức,
đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Công tác tư tưởng có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính
trị, văn hóa; xây dựng hệ thống chính trị phát triển vững mạnh, toàn diện.
b. Vai trò
- Công tác tư tưởng trước hết nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
3
- Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với
mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhằm biến chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, thành phong trào hành động cách
mạng của quần chúng.
- Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thống
nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.3. Nội dung công tác tư tưởng
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách
mạng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao
nhận thức lý luận chính trị, lòng yêu nước, yêu quê hương, tình cảm cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thông qua việc tổ chức nghiên
cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Công tác giáo dục lý luận chính trị tạo nên sự nhất trí, tin
tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền nhằm phổ biến, truyền bá đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa
học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông tin kịp thời
tình hình thời sự, chính trị..., định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác
động đến tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng nhân dân.
- Công tác cổ động, nêu gương tốt, điển hình tiên tiến nhằm cổ vũ
hành động của quần chúng nhân dân, biến nhận thức tư tưởng thành niềm
tin, hành động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng rộng rãi...
- Công tác văn hoá, văn nghệ. Lĩnh vực văn hoá ở đây được hiểu chủ
yếu ở khía cạnh tư tưởng, chính trị của văn hoá. Công tác văn hoá, văn nghệ
nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, qua đó giáo dục đạo đức, lối
sống, phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hoá.
- Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng tư
tưởng, dư luận xã hội...
- Đấu tranh tư tưởng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn
và tài liệu xấu lan truyền, phát tán trong xã hội.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, công tác tư tưởng còn có các nội dung
khác, như giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể lực, giáo dục về sinh thái, môi
trường... qua các hoạt động trong lĩnh vực khoa giáo.
4
1.4. Nhiệm vụ công tác tư tưởng
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên
định, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống
những quan điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội
dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện
đường lối và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Tiến hành phổ
biến, quán triệt sâu rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và
năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu
hiện của chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, thực hiện có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh".
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con
người mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt
các lĩnh vực khoa giáo. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào
thi đua yêu nước và các phong trào xã hội khác, coi trọng việc bồi dưỡng,
nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết toàn dân. Kịp thời giải
quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài,
khiếu kiện tập thể, không để xảy ra điểm nóng.
2. Lãnh đạo chiến lược
2.1. Khái niệm chiến lược
Chiến lược là tổng thể các phương châm, chính sách và mưu lược được
hoạch định để xác định mục tiêu, sắp xếp quy tụ lực lượng và đề ra giải pháp
nhằm đạt tới một mục đích nhất định bằng con đường có lợi nhất, tạo ra trạng
thái phát triển mới của một lĩnh vực (chiến lược chuyên ngành), toàn thể xã
hội (chiến lược tổng thể quốc gia) hoặc toàn thế giới (chiến lược toàn cầu)
trong một thời kỳ nhất định. Chiến lược ở nước ta được coi là cụ thể hóa của
“đường lối”.
5
2.2. Khái niệm lãnh đạo chiến lược
Lãnh đạo chiến lược là việc tạo dựng thể chế, động viên tập thể và sắp
xếp nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) tập trung vào một số ít yếu tố cốt lõi
nhất để thực hiện tầm nhìn dài hạn.
3. Công tác tư tưởng của Đảng thời gian qua
3.1. Những thành tựu
Nhận thức rõ vai trò của công tác tư tưởng và những tác động của tình
hình mới, Đảng đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng đạt được
những thành tựu quan trọng:
+ Bước đầu đã đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, khắc phục một
phần biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí,
phòng ngừa và ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều hình
thức.
+ Trực tiếp góp phần hình thành và phát triển đường lối đổi mới, nỗ lực
tìm tòi tổng kết thực tiễn, những sáng kiến của nhân dân để xây dựng chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, củng cố niềm tin của cán bộ và
nhân dân vào lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công tác tư tưởng
đã khơi dậy súc sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa đất
nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những thành tựu to lớn và rất
quan trọng trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại.
+ Trong xây dựng nội bộ Đảng, công tác tư tưởng là nhân tố quyết định
trực tiếp đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, cùng với công tác
tổ chức, công tác tư tưởng góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Công tác tư tưởng có vai trò xây dựng vào bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân, chủ trương, đường lối của Đảng, cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, phát huy tính sáng tạo của các tổ chức Đảng và Đảng viên.
+ Trước sự chống phá quyết liệt của các phần tử cơ hội và các thế lực
thù địch, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, kịp thời và linh hoạt của Đảng, công tác tư
tưởng đã góp phần làm phá sản chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch, làm thất bại âm mưu lật đổ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
3.2.Những hạn chế
+ Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao, phương
pháp chưa linh hoạt, chưa tạo được nhận thức thống nhất cao và thông suốt đối
6
với một số vấn đề trong đường lối, chủ trương của Đảng; chưa thường xuyên
làm tốt công tác chính trị; chưa phê phán mạnh và đấu tranh kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, những quan điểm mơ hồ, sai
trái và khuynh hướng “thương mại hóa”, lai căng, chạy theo thị hiếu tầm
thường trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ. Công tác tư
tưởng chưa gắn với công tác tổ chức, xây dựng cơ chế, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
+ Việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động,
lực lượng tham gia còn mỏng, hiệu quả chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân còn mất cảnh giác trước âm mưu và các hoạt động “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
+ Nội dung, phương pháp, phương thức công tác tư tưởng chậm đổi
mới, nhiều lĩnh vực làm theo lối cũ, tuyên truyền giáo dục một chiều từ trên
xuống, thiếu sự đối thoại, tranh luận, thảo luận dân chủ để đi tới thống nhất.
+ Công tác nghiên cứu lý luận còn lạc hậu, chưa đáp ứng những đòi hỏi
của thực tiễn đang vận động rất mau lẹ, phong phú và phức tạp. Sản phẩm
nghiên cứu lý luận chất lượng chưa cao, ít có kết quả được vận dụng. Công tác
giáo dục lý luận còn nhiều hạn chế, nội dung và hình thức còn nhiều bất cập,
chưa gắn chặt với thực tiễn, chưa theo kịp trình độ và yêu cầu của xã hội.
Công tác cổ động còn nặng về hình thức, chưa chú trọng chất lượng và ý nghĩa
xã hội sâu sắc. Phương pháp cổ động chậm đổi mới.
II. NHỮNG THÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CHIẾN LƯỢC TRÊN
LĨNH VỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1. Bối cảnh mới tác động đến công tác tư tưởng.
Dự báo tình thình thế giới và trong nước trong thời gian tới
a.Tình hình thế giới
Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những
diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng,
xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi
truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ,
điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các
quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn
7
nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ
cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương
quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ
ảnh hưởng nhiều với nước ta có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương
mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ,
nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt.
Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp
tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát
triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây
mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các
hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó
khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
b.Tình hình trong nước
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã
tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước.
Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng
sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta
vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn
biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những
diễn biến phức tạp.
2. Những thách thức
Bối cảnh thế giới và trong nước đang tiếp tục tác động đến tư tưởng,
tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có thể nói lãnh đạo
chiến lược trên lĩnh vực công tác tư tưởng đang đứng trước nhiều thách thức.
Đó là:
Thứ nhất, niềm tin vào những giá trị tư tưởng và lý luận của chủ nghĩa
Mac – Lênin, vào chủ nghĩa xã hội của một số người có chiều hướng suy
8
giảm, không còn như trước. Sự suy giảm ảnh hưởng của lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Là lý luận phản
ảnh phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ, tấn
công vào chế độ tư bản để kiến tạo một chế độ xã hội mới thì các bước thăng
trầm của phong trào, các chu kỳ hưng vong của chế độ tư bản dĩ nhiên có ảnh
hưởng đến sự tăng, giảm ảnh hưởng của lý luận đó trong tư tưởng con người.
Tuy nhiên, trong hàng ngũ những người phủ định học thuyết Mác, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung thêm cả những nhà khoa học, lý luận
tương đối có tên tuổi một thời từng là nhà mácxít. Trong số nhũng lý luận mà
họ đưa ra không phải không có những yếu tố hợp lý khi đối chiếu với thực tế,
do vậy, trong những chừng mực nhất định có sức thuyết phục đối với quần
chúng. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản đã có sự thích nghi, và trong cuộc
“Chiến tranh lạnh” đã tìm được phương cách phát triển hữu hiệu, vượt trên các
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa về năng suất lao động, trình độ phát
triển về kinh tế và khoa học công nghệ. Thực tế đó đã trở thành minh chứng
có sức nặng cho việc lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Thêm
vào đó, khi xu thế phát triển của thế giới hiện nay tuy vẫn còn có xung đột,
chiến tranh cục bộ nhưng hòa bình, hợp tác là chủ yếu, đối thoại thay cho đối
đầu, đã tạo nên sự lên ngôi về phát triển kinh tế. Các giá trị khác bị lùi xuống
hàng thứ yếu. Tình hình nầy thúc đẩy sự ngưỡng mộ đối với các nước phát
triển và tâm trạng hoang mang dao động trước con đường phát triển xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, mức độ và khả năng giải quyết những vấn đề lý luận, những
nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đối
với những nước có trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có những điểm đặc thù, đặt ra nhiều vấn đề lý luận chưa
từng có sẵn câu trả lời trong các tác phẩm kinh điển, nhiều vấn đề thực tiễn
chưa có tiền lệ giải quyết. Những điểm đặc thù đó làm cho quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình phát triển có nhiều mâu thuẫn, biểu
hiện ra trên bề mặt các hiện tượng những nghịch lý khó cắt nghĩa theo tư duy
lôgic thông thường. Những vấn đề đang gây tranh luận, bất đồng quan điểm,
làm phân hóa, chia rẽ, từ đó làm nảy sinh các vấn đề tư tưởng trong xã hội, dẫn
đến, một mặt, gây chia rẽ trong nội bộ, chia rẽ giữa dân với Đảng, giữa một bộ
phận tri thức với nhau; mặt khác, bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng
lôi kéo, kích động để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo kết quả điều
tra của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương), có 60%
số người dân được hỏi cho rằng: “Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cần phải được bổ sung, phát triển nhiều mới đáp ứng được các yêu cầu,
đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước hiện nay”.
Thứ ba, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên vẫn rất nghiêm trọng; chưa tạo được sự chuyển biến cơ bản trong
ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; dân chủ trong
9
Đảng còn hạn chế; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, tình trạng mất đoàn kết ở
một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa được giải quyết dứt điểm. Thực trạng yếu
kém đó là những nguy cơ lớn đến sự sống còn của Đảng, của chế độ; đồng
thời là những miếng đất gieo mầm mống, tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội lần thứ X của Đảng nêu: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng
lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một
số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường
lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm
pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”,
“chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hóa, biến chất về chính trị,
tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu
dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo
dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các
lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai; quản lý doanh nghiệp nhà nước và
quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một
nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng”. Tình trạng này tiếp tục
được Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu ra: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, nhũng tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn diễn biến phúc tạp”.
Sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên đang tác động xấu đến tư tưởng, đến nhận thức của đại đa số
đảng viên và nhân dân. Nó làm cho phẩm chất, đạo đức, sinh hoạt Đảng ngày
càng suy giảm, và khi ngày càng có nhiều cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến
chất thì nguy cơ thoái hóa biến chất của Đảng là đáng lo ngại là nguy cơ của
một Đảng cầm quyền
Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, còn mang tính hình
thức. Tính chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng và đảng viên yếu kém. Biểu hiện
rõ nét ở việc đảng viên, cấp ủy viên không dám phê bình thẳng thắng những
yếu kém, khuyết điểm của nhau, nhất là của cấp trên, trực tiếp là người đứng
đầu. trong khi sinh hoạt cấp ủy và tổ chức Đảng, nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ
không dám nói rõ chính kiến của mình, né tránh các vấn đề phức tạp. Tình
trạng thiếu dân chủ thường đi đôi với độc đoán, chuyên quyền. Ngược lại, có
tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật kỷ cương, nói không đi đôi với
làm, nói nhiều, làm ít, chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
10
nước, chỉ thị của cấp trên không nghiêm.
Thứ tư, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội trong và ngoài nước
tăng cường các hoạt động chống phá. Âm mưu của các thế lực thù địch là xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực
hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình”. Đây chính là “thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi” là phương pháp
“chuyển hóa hòa bình”, “cách mạng màu”…Trong chiến lược nầy, hoạt động
tư tưởng - văn hóa được coi là “mũi đột phá”.
Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc lịch sử, truyền bá các quan điểm
sai trái, làm rối loạn tư tưởng, khủng hoảng niềm tin, coi đây là mũi nhọn thọc
sâu, tạo ra sự chống đối từ nội bộ xã hội ta để phá ta từ bên trong phá ra.
Thông qua các tổ chức phi chính phủ, qua các hình thức hợp tác giao lưu về
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học…để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo,
làm chuyển hóa tư tưởng, chuyển hóa chính trị, mua chuộc cán bộ, cài cắm nội
gián; móc nối với những người bất mãn, cơ hội chính trị, những người nắm
được bí mật quốc gia. Tìm cách can thiệp cho một số người ra nước ngoài dự
hội thảo, học tập; đưa giáo viên và lưu học sinh người nước ngoài vào Việt
Nam học tập, nghiên cứu, tiếp xúc, giao lưu…với những mục đích đen tối.
Lợi dụng các hoạt động tôn giáo, dân tộc để can thiệp vào nội bộ ta; lợi
dụng các diễn đàn công khai (hội nghị, hội thảo) để tuyên truyền “tự do”, “dân
chủ”, “nhân quyền”, tuyên truyền quan điểm cá nhân ích kỷ, lối sống thực
dụng, suy đồi; vu cáo ta vi phạm dân chủ, nhân quyền để tạo cớ can thiệp vào
nước ta.
Đẩy mạnh việc sử dụng các đài phát thanh, truyền hình, báo và tạp chí
tiếng Việt ở nước ngoài tuyên truyên chống phá Việt Nam. Đưa một số lượng
lớn tài liệu, sách, báo, truyền đơn, băng, đĩa, băng hình có nội dung phản động,
dồi trụy vào nước ta. Chúng lợi dụng những thư từ góp ý, những cuộc thảo
luận, những tranh luận trong nội bộ ta để xuyên tạc, cắt xén, nhào nặn theo ý
họ rồi đưa lên Internet; tổ chức gặp gỡ, phỏng vấn, ve vãn những đối tượng họ
cho là có thể lôi kéo được; triệt để khai thác các tài liệu, thông tin từ những
phần tử cơ hội chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội; kích động tăng bốc một
số người có quan điểm sai trái.
Các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài tiếp tục sử
dụng chiêu bài chống tham nhũng, đòi dân chủ, nhân quyền để tuyên truyền,
kích động, chia rẽ nội bộ ta; tìm cách câu kết, móc nối với những người bất
mãn trong nước, kêu gọi người Việt Nam ở hải ngoại ủng hộ, tiếp sức cho lực
11
lượng “quốc nội” nổi dậy. Gần đây, họ đẩy mạnh lên phong trào đòi áp dụng
mô hình “xã hội dân sự” mà thực chất là đòi tự do dân chủ vô chính phủ và
đang cố dựng lên những “ngọn cờ” để chống ta.
Một số phần tử đội lốt tôn giáo ra sức tuyên truyền, vận động lôi kéo
quần chúng theo đạo, gây thanh thế, tranh giành ảnh hưởng, đòi thoát ly sự
quản lý của Nhà nước. Một số chức sắc truyền đạo trái phép, kích động tín đồ
chống lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ở các vùng sâu, vùng
xa như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, chúng lôi kéo tín đồ, kể cả cán bộ,
đảng viên đi lễ bái, tham gia hành đạo và các hoạt động mê tín dị đoan.
Một số người hoạt động chính trị do bất mãn đã lợi dụng các diễn đàn,
các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái, liên tiếp chuyển đơn
thư, tài liệu tung lên mạng, hoặc phát tán tài liệu cho sinh viên, văn nghệ sĩ, trí
thức…kêu gọi đứng lên lật đổ chế độ.
Toàn bộ những hoạt động trên của kẻ xấu, các phần tử cơ hội chính trị,
các thế lực thù địch tuy có những biểu hiện khác nhau, với những tính chất,
phạm vi, mức độ khác nhau nhưng tựu trung đều tập trung vào những vấn đề
sau:
+ Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ chỗ
phủ nhận một số luận điểm đi đến phủ nhận toàn bộ, cả phương pháp luận và
linh hồn của chủ nghĩa Mác.
+ Phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng đi lên chủ
nghĩa xã hội là không tưởng, viễn vông; kinh tế thị trường không song hành
với chủ nghĩa xã hội; muốn đất nước giàu lên phải hội nhập vào chủ nghĩa tư
bản, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
+ Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng, Đảng là nhân tố
cản trở sự đi lên của đất nước, cần phải bỏ hoặc thực hiện “đa đảng”. Chỉa mũi
nhọn đả kích vào các cơ quan tham mưu, cơ quan chuyên chính, cơ quan bảo
vệ pháp luật; ra sức mị dân, chia rẽ dân vói Đảng và Nhà nước.
+ Phủ nhận thành tựu của cách mạng, thành tựu của công cuộc đổi mới.
thổi phồng khuyết điểm, bôi đen hiện thực rồi quy kết đó là do đường lối sai,
do sự lãnh đạo và yếu kém của Đảng và Nhà nước.
+ Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi dân chủ cực đoan, không
giới hạn. Chúng cho rằng, thực hiện tập trung dân chủ là độc đoán, đảng trị,
mất dân chủ. Tìm mọi cách tác động vào báo chí, đòi ra báo tư nhân và lập nhà
xuất bản tư nhân, cổ xúy cho khuynh hướng “ly khai”, “độc lập”, không chịu
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
12
+ Kích động, chia rẽ nội bộ, tung ra luận điệu trong Đảng, trong Trung
ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia, nội bộ mất dân chủ, mất đoàn kết. Bịa
đặt, xuyên tạc lịch sử, đòi “lật án”, vu cáo, bôi nhọ các cán bộ lãnh đạo cao cấp
của Đảng, kể cả Bác Hồ…
Thứ năm, giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng
nghe ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật
phát ngôn, hành vi sai trái. Dân chủ là động lực cho sự nghiệp đổi mới, vì dân
chủ hóa đời sống xã hội sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi
con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được tự do phát triển. Xây dựng
môi trường thực sự dân chủ sẽ tạo cơ hội để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích
cực đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước, qua đó, tăng cường sự thống nhất
trong Đảng và tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân, nhằm ổn định chính trị, tạo
tiền đề để đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của đất nước. Tạo bầu không khí
để người dân dám nói thẳng, nói thật, dám bày tỏ chính kiến, quan điểm một
cách cởi mở, có tổ chức, có trách nhiệm với tinh thần xây dựng, không quy
chụp, “đội mũ” đối với những người có ý kiến khác biệt. Với vấn đề giữ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong phát ngôn, không được lợi dụng vấn đề dân
chủ, tự do ngôn luận mà có những phát ngôn, những bài viết có dụng ý xấu,
truyền bá các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ cá nhân
và tổ chức, gây chia rẽ trong Đảng, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, đây là một thách thức đối với công tác
tư tưởng.
Thứ sáu, việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực với việc đảm bảo giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài để phát triển đất nước. Đây là vấn
đề rất nhạy cảm và ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm dân tộc của người dân.
Đây là vấn đề thách thức đối với công tác tư tưởng, một mặt phải nâng cao
lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, với việc tán thành chủ trương của
Đảng và Nhà nước trong xử lý các tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là vấn đề
Biển Đông hiện nay, nhằm đảm bảo vệ vững chắc chủ quyền nhưng hết sức
tránh xảy ra xung đột, chiến tranh nhằm giữ vững hòa bình và ổn định để phát
triển đất nước. Tạo điều kiện cho nhân dân thể hiện lòng yêu nước, nhưng
không để các thế lực thù địch lợi dụng để kích động, tập hợp lực lượng, chống
Đảng, chống Nhà nước.
Thứ bảy, sự bức xúc của nhân dân về các vấn đề xã hội: phân hóa giàu
nghèo, bất công xã hội; phân hóa giai cấp; đạo đức xuống cấp; sử dụng đất
đai, giải phóng mặt bằng…Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nhũng yếu tố tích
cực, đã xuát hiện một xu thế khách quan là sự phân hóa về thu nhập, tiến tới sự
13
phân hóa về lợi ích và sự phân hóa về xã hội. Sự hình thành các nhóm lợi ích
khác nhau, các nhóm xã hội khác nhau là tiền đề để hình thành các khuynh
hướng và xu thế tư ưởng khác nhau. Đây là một thách thức lớn đối với công
tác tư tưởng trong việc củng cố khối đại đoàn kết và sự đồng thuận xã hội.
Yêu cầu phát triển của đất nước cần thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để
xây dựng các công trình phục vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng…,
nhưng việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch, đảm bảo lợi ích của người
bị thu hồi đất, không để người dân cảm thấy bị thiệt thòi, không để cuộc sống
của người dân lâm vào cảnh khó khăn, thiếu thốn, không có việc làm, không
có thu nhập…khiến cho nhân dân phản ứng, đấu tranh, khiếu kiện kéo dài, tạo
thành các “điểm nóng”, gây bất ổn chính trị và là cái cớ để các thế lực thù địch
tuyên truyền xuyên tạc, kích động nhân dân chống Đảng, Nhà nước.
Thứ tám, khả năng phân loại những quan điểm sai trái, thù địch và
nhũng quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, nhưng xuất phát
từ thiện chí, tâm huyết, thực tâm muốn đóng góp xây dựng đất nước. Ở đây
vấn đề đặt ra là phải tỉnh táo, phân rõ đâu là những nhận thức không đúng,
không đây đủ mà sinh ra các quan điểm sai trái; đâu là sự cố tình chống phá, là
thủ đoạn của bọn cơ hội chính trị; đâu là nhũng yếu kém và hạn chế của chúng
tr, của cán bộ, đảng viên; đâu là sự chống phá của các thế lực thù địch trong
quá trình đấu tranh với các qan điểm sai trái, thù địch. Không phân rõ những
vấn đề phức tạp nêu trên, chúng ta không có biện pháp “đánh trúng” đối tượng,
và cuộc đấu tranh của chúng ta không thể đạt được hiệu quả trên thực tế.
Thứ chín, hiện tượng đánh giá lại các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch
sử, các vụ việc trong lịch sử. Mức độ khoa học, khách quan, độ tin cậy khi
đánh giá lại các sự kiện nầy, không phải là cá biệt. Hiện tượng nầy đang gây
nên những luồn tư tưởng khác nhau trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo
nên môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng, khuấy động, đẫn đến
làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mnag, nghi ngờ
nhiều sựu kiện lịch sử.
Thứ mười, sự hẩng hụt, mất định hướng về giá trị xã hội, về đạo đức.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, con người
trở nên tích cực, năng động hơn, nhiều giá trị đạo đức mới xuất hiện được chấp
nhận và dần trở thành phổ biến, nhưng cũng tạo cho con người tâm lý sùng bái
vật chất, khao khát sự hưởng thụ, kéo theo nguy cơ nghèo nàn về nhân cách; từ
chỗ lấy đạo đức làm thước đo nhân cách trong quan hệ xã hội, chuyển sang coi
nhẹ đạo đức, coi trọng, sùng bái đồng tiền trong các mối quan hệ; từ chỗ sống
14
vì lý tưởng chuyển sang lối sống thực dụng, chạy theo sự cám dỗ vật chất,
buông thả, trụy lạc. Bên cạnh những giá trị đạo đức truyền thống tiếp tục được
bảo lưu, ca ngợi, như tình làng nghĩa xóm, đùm bọc nhau, sự chân thành trong
sáng trong các mối quan hệ…, lại có nhiều giá trị truyền thống, thuần phong
myc tục bị coi thường, xâm phạm. Tất cả như tạo thành một nghịch lý, làm suy
giảm niềm tin của con người trong xã hội. Thực tế đó chứng tỏ có sự bất cập
giữa lý luận với thực tế xã hội, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa
lý trí và tình cảm, giữa lý tưởng và hiện thực. Sự bất cập đó, là thách thức đặt
ra cho công tác tư tưởng cần giải quyết.
Thứ mười một, niềm tin tôn giáo, tâm linh có xu hướng gia tăng. Theo
điều tra của Viên nghiên cứu dư luận xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương), tỷ
lệ người được hỏi hco rằng, từ nay đến năm 2020, “Quan điểm đuy tâm, tin
tưởng vào sự tồn tại của Thượng đế, Thánh, Thần, linh hồn của người chết sẽ
tăng mạnh” cao hơn nhiều so với tỷ lệ cho rằng từ nay đến năm năm 2020,
“Quan điểm duy vật không tin vào sự tồn tại của Thượng đế, Thánh, Thần, linh
hồn người chết sẽ tăng mạnh”.
Thứ mười hai, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng hiện nay vẫn thiếu
về số lượng, hạn chế về năng lực, một bộ phận cán bộ thiếu tinh thần trách
nhiệm, tính tận tụy chưa cao. Yêu cầu, nhiệm vụ và những thách thức của
công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác
tư tưởng phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững
vàng và trình độ, năng lực chuyên môn cao với thực trạng đội ngũ cán bộ làn
công tác tư tưởng hiện nay còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu.
3. Các giải pháp lãnh đạo công tác tư tưởng
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế, trong điều kiện
kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng như những thách thức nêu trên, công tác tư tưởng của Đảng đứng
trước những yêu cầu mới, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện, nhất là nội dung,
phương pháp và nâng cao chất lượng về mọi mặt của đội ngũ làm công tác tư
tưởng. Xây dựng chiến lược công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa một công việc cần thiết, có tầm quan trọng
đặc biệt đối với Đảng, với tư cách là một đảng cầm quyền, đối với sự bền vững
của chế độ, tương lai và triển vọng của cả dân tộc. Việc xây dựng, hoàn thiện
và triển khai hiệu quả Chiến lược công tác tư tưởng của Đảng sẽ đóng góp
quan trọng vào việc khơi dậy ý chí tự cường, tự tôn dân tộc; góp phần làm cho
mặt tích cực trở thành xu hướng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội;
15
nêu cao khát vọng vươn lên của các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần đoàn
kết, sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận lớn trong xã hội để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chiến lược Công tác tư
tưởng của Đảng cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của công tác tư tuởng; tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng. Tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu
quả công tác tư tưởng;
Hai là, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nẩy sinh trong quá trình đổi mới,
không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học,
khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong
nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu
lý luận chính trị;
Ba là, triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức đối với các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua đó “khắc phục
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên”;
Bốn là, xây dựng và thực hiện chiến lược, các kế hoạch cụ thể về phát
triển văn học - nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác dụng giáo dục sâu sắc;
Năm là, chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng, lý luận. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt
động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu
tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
Sáu là, đổi mới mạnh mẽ hoạt động thông tin đối ngoại , Tăng cường
quảng bá hình ảnh Việt Nam hòa bình, hữu nghị, đổi mới và phát triển; đồng
thời, cần tập trung đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật, luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch; làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt
Nam ở nước ngoài hiểu biết rõ tình hình trong nước, qua đó tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng,
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác tư tưởng theo hướng
16
hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư tưởng trước những đòi hỏi mới
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Kêt luận
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
công tác tư tưởng là bộ phận chính, quan trọng quyết định đến sự thành bại của
cách mạng. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, trong những năm qua, công tác
tư tưởng đã góp phần xây dựng cương lĩnh, đường lối cách mạng; xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân.
Trong hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác tư tưởng đã
khẳng định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo nên sự thống nhất trong
Đảng và ngoài xã hội về mục tiêu của công cuộc đổi mới, góp phần đưa đất
nước vượt qua khó khăn, thử thách, lập nên những thành tựu to lớn, quan trọng
trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại.
Cùng với những thành tựu đạt được, công tác tư tưởng cũng còn nhiều
hạn chế, yếu kém, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước bối cảnh toàn cầu
hóa và xu thế hội nhập quốc tế, trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và
hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh những yếu kém
trong quá trình lãnh đạo và tổ chức thực hiện, việc các thế lực thù địch tăng
cường chống phá bằng âm mưu và các hoạt động trong chiến lược “diễn biến
hòa bình”...,công tác tư tưởng đang đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi lãnh
đạo chiến lược phải đứng vững trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững quy luật khách
quan, có nhãn quan chính trị sắc sảo, nhạy bén để đánh giá, phân tích, nhận
định đúng tình hình thế giới, trong nước tác động đến tư tưởng và công tác tư
tưởng của Đảng, trên cơ sở đó đề ra Chiến lược công tác tư tưởng của Đảng
xác đúng, có tính khoa học để triển khai thực hiện có hiệu quả nhằm giữ vững
trận địa tư tưởng của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng./.
- Xem thêm -