Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn
Trước những biến động của nước nhà, hàng loạt các chiếu của nhà vua được ban
xuống để bây giờ trở thành những tác phẩm hay có giá trị trong nền văn học Việt Nam.
Cùng với Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến Chiếu dời
đô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang
nhiều nét văn học trong đó. Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thông minh nhân ái có
trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được
triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lý Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh
Tuất (1010), Lý Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra
thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có
rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lý Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng
Long.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh
nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh
hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên
nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài
hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn
ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể;
từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời
đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua,
cốt là để tìm cho hàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp
phần hưng thịnh đất nước. Lý Công Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên
Trung Quốc trước đó. Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến
vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình
mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì
thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn
chứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề và mở đầu cho bản chiếu dời đô của mình. Dời đô
không phải là một việc xấu, từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên rồi. Mục đích của nó cốt
chỉ để làm cho việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt ở trung tâm
của đất nước. Dời để hợp ý trời và thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.
Qua việc đưa ra những Lý lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh
đô đối với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lý Công Uẩn bắt
nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân
tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng
mạnh trong tương lai.
Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với
sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê
phán những triều đại cũ “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường
mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây,
khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật
không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”. tác giả nói
rằng các triều đại nhà Đinh nhà Lê đã không nghe theo ý trời nên chỉ đóng đô ở nơi đây
chính vì thế mà triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái của thời xưa như
nhà Thương, nhà Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không đi theo quy
luật thì sẽ không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong
một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ
mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa
vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lý, trên
đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa.
Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của
mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm
xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu
dài và bền vững hơn.
Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của việc
dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước “Huống gì thành
Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn
hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng
mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật
cũng rất mực phong phú tốt tươi.” Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa,
đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã
nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của
thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có
thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra
bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là
đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có
đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có
sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là một
mảnh đất lý tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hưng
thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh
địa. Có thể hiểu thánh địa là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển
mạnh mẽ.
Kết thúc bài chiếu Lý Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô
mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín “Trẫm muốn dựa
vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?. Đó như thể hiện sự
dân chủ và công bằng cho tất cả những người bề dưới, quyền quyết định đương nhiên
thuộc về nhà vua thế nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến phía dưới để thấy đồng lòng với
người dân. Vì chỉ có hợp với lòng dân thì nhà vua cũng nhu đất nước mới trở nên vững
bền được.
Như vậy có thẻ thấy Lý Công Uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất
đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng
như sự tốt đẹp của địa hình Đại La mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. Tuy là
một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất có
sức thuyết phục bởi nó hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận
chặt chẽ, Lý lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và
ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình.
Bài tham khảo 2:
Lý Công Uẩn (974 – 1028) quê ở châu cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là làng Đình Bảng,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập được
nhiều võ công hiển hách. Dưới thời Tiền Lê, ông làm quan đến chức Tả thân vệ điện tiền
chỉ huy sứ. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là
Lý Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ viết bài
chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng
vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lý Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu dời đô phản ánh ý chí tự cường và khát vọng về một đất nước độc lập, thống
nhất, lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì trên thuận
ý trời, dưới hợp lòng người, có sự kết hợp hài hòa giữa Lý với tình.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh
nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh
hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên
nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài
hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn
ngữ đối thoại.
Bố cục bài chiếu có thể chia làm ba đoạn:
Đoạn một: Từ đầu đến không thể không dời đổi: Tác giả nêu những dẫn chứng trong
sử sách để làm cơ sở cho việc dời đô của mình.
Đoạn hai: Tiếp theo đến phong thái tốt tươi: Tác giả phân tích thực tế là kinh đô cũ
không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời
đô.
Đoạn còn lại: Tác giả khẳng định thành Đại La là nơi hội đủ mọi điều kiện thuận lợi
để chọn làm kinh đô mới.
Kết cấu nói trên tiêu biểu cho kết cấu của một bài văn nghị luận chính trị xã hội. Bằng
phương thức lập luận sắc bén, chặt chẽ, lôgíc, tác giả đã trình bày và thuyết phục mọi
người đồng tình với quyết định dời đô của mình. Để chứng minh quyết định dời đô là
đúng đắn, tác giả nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố Lý lẽ, tăng thêm
khả năng thuyết phục.
Để giải tỏa tâm trạng băn khoăn của không ít người trước việc dời đô, tác giả khẳng
định dời đô là việc làm thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại phong kiến từ
trước tới nay. Lý Công uẩn viện dẫn gương các triều vua thời cổ đại bên Trung Quốc cũng
đã từng dời đô:
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương
cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển
dời ? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho
con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên
vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Đoạn này nêu tiền đề làm chỗ dựa cho Lý lẽ mà tác giả sẽ trình bày ở những phần tiếp
theo. Trong lịch sử phong kiến phương Bắc đã từng có chuyện dời đô và mang lại những
kết quả tốt đẹp, cho nên việc dời đô của Lý Thái Tổ không phải là chuyện bất thường.
Nhà vua khẳng định các bậc đế vương khi quyết định dời đô đều nhằm mục đích mưu
đồ nghiệp lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh, tính kế lâu dài cho quốc gia, dân tộc.
Việc dời đô trên thì thuận theo mệnh trời (tức phù hợp với quy luật khách quan), dưới thì
thuận theo ý dân (phù hợp với nguyện vọng của nhân dân) nôn kết quả là đều đem đến sự
phát triển thịnh vượng cho quốc gia dân tộc.
Qua việc đưa ra những Lý lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh
đô đối với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lý Công Uẩn bắt
nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân
tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng
mạnh trong tương lai.
Dựa vào óc quan sát, phân tích kĩ lưỡng tình hình thực tế, ông nêu ra những nhận xét
có tính chất phê phán: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh
trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho
triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không
được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Theo ông, nếu cứ để kinh đô ở chỗ cũ thì sẽ phạm những sai lầm như không phù hợp
quy luật khách quan: lại theo ý riêng mình khinh thường mệnh trời; không biết học theo
cái đúng của người xưa: không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở
nơi đây. Hậu quả là triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi… Tóm lại, kinh đô
của quốc gia Đại Việt không thể phát triển thịnh vượng trong một vùng đất chật hẹp như
thế.
Bằng quan điểm của người thời nay, chúng ta cẩn xem xét, đánh giá thật công bằng về
vai trò lịch sử hai triều đại Đinh, Lê. Thực ra, vào giai đoạn đó, cả thế và lực của triều
đình chưa đủ mạnh để có thể dời đô ra vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào
địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lý, trên đà
mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa.
Bốn cạnh Lý lẽ sắc sảo, vua Lý Thái Tổ còn dùng tình cảm chân thành để tác động
mạnh mẽ tới tâm hồn dân chúng, ông tỏ ra tinh tế, khiêm nhường khi giãi bày ý định của
mình. Tính thuyết phục của Lý lẽ càng tăng lên khi tác giả lồng cảm xúc của mình vào:
Trẫm rất đau xót về việc đó. Cảm xúc đó phản ánh khát vọng của nhà vua là muốn phát
triển đất nước thành một quốc gia hùng cường. Tuy nhiên đằng sau lời lẽ mềm mỏng ấy
vẫn là một quyết định cứng rắn không thể không dời đổi.
Nhà vua chứng minh ưu thế mọi mặt của thành Đại La và khẳng định đây là địa điểm
tốt nhất để đặt kinh đô mới:
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất;
được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn
sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn
khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.
Nhà vua dựa vào thuyết phong thủy để phân tích và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp
muôn mặt của thành Đại La về địa Lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân
cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật.
Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa
dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện
cho việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa
và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành
kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được
cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực, Trên cơ sở đó nhà vua khẳng định:
Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thánh địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn
phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Tác giả gọi Đại La là thánh địa của đất Việt bởi lẽ ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt,
đất lành, có thể đem nhiều lợi ích, đồng thời ông tiên đoán Đại La sẽ là chốn tụ hội trọng
yếu, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Kết thúc bài Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ không lấy uy quyền của vua chúa để ban bố
mệnh lệnh mà lại đặt ra câu hỏi: Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ
ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Câu hỏi tu từ này thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu đất nước đối với triều
đình phong kiến đương thời. Có thể coi đây là yếu tố dân chủ tiến bộ trong tư tưởng của
Lý Thái Tổ. Lời lẽ bài chiếu mang tính chất đối thoại, tạo sự hiểu biết và đồng cảm giữa
nhà vua với các bậc quan lại trong triều đình và dân chúng. Một lần nữa, nhà vua khẳng
định quyết tâm dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La của mình.
Chiếu dời đô được viết theo lối văn biền ngẫu với những cặp câu song song, các vế
câu đối nhau rất chỉnh về cả ý lẫn lời. Những đoạn văn cân xứng kết hợp và bổ sung cho
nhau để thể hiện nội dung tư tưởng của bài chiếu. Tác giả đã thuyết phục người nghe bằng
Lý lẽ sắc sảo và tình cảm chân thành. Nguyện vọng dời đô của Lý Thái Tổ phù hợp với
nguyện vọng của thần dân trăm họ.
Chiếu dời đô phản ánh ý chí độc lập tự cường của dân tộc và sự phát triển lớn mạnh
của quốc gia Đại Việt. Qua đó, chúng ta có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên
về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc
gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra vùng
đồng bằng rộng rãi, điều đó chứng tỏ triều đình nhà Lý đã đủ khả năng chấm dứt nạn
phong kiến cát cứ trong nước và đủ sức chống cự với quân xâm lược phương Bắc. Việc
Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long là thực hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn
về một mối, để có điều kiện xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh.
Sự đúng đắn của quyết định dời đô đã được lịch sử chứng minh một cách hùng hồn.
Thăng Long xưa – thủ đô Hà Nội ngày nay xứng đáng là trái tim của Tổ quốc, là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, đã vững vàng trước mọi thử thách ác liệt của
nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
- Xem thêm -