Phẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nayPhẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM HÙNG NGỌC DŨNG
PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ
NGÀNH TƯ PHÁP Ở NƯỚ TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM HÙNG NGỌC DŨNG
PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ
NGÀNH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ ANH TUẤN
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Phạm Hùng Ngọc Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHẨM CHẤT NGƯỜI
CÁN BỘ NGÀNH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .......................... 10
1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ tư pháp, phẩm chất, phẩm chất cán bộ ngành
tư pháp.......................................................................................................... 10
1.2. Một số phẩm chất cơ bản của cán bộ ngành tư pháp ở nước ta hiện nay
...................................................................................................................... 18
Chương 2. THỰC TRẠNG PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ NGÀNH
TƯPHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - TỪ NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
NGÀNH TƯ PHÁP THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................ 25
2.1. Thực trạng phẩm chất cơ bản của cán bộ ngành tư pháp ở nước ta hiện
nay (qua khảo sát nghiên cứu ở thành phố Hà Nội) và nguyên nhân của nó
...................................................................................................................... 25
2.2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao phẩm chất người cán bộ tư pháp ở
nước ta hiện nay ........................................................................................... 43
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO PHẨM CHẤT
NGƯỜI CÁN BỘ NGÀNH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ........... 50
3.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ
ngành tư pháp ở nước ta hiện nay ................................................................ 50
3.2. Tạo dựng và làm lành mạnh hóa môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội để xây dựng và củng cố phẩm chất cán bộ ngành tư pháp ở nước ta
hiện nay ........................................................................................................ 53
3.3. Nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn để duy trì và hoàn thiện phẩm
chất người cán bộ ngành tư pháp ở nước ta hiện nay .................................. 61
3.4. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng để phát triển và bảo vệ
phẩm chất người cán bộ tư pháp ở nước ta hiện nay ................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở, cán bộ là cái gốc
của sự thành công. Kế thừa tư tưởng của Người và qua thực tiễn cách mạnh,
Đảng ta đã khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng đảng" [Văn kiện ĐH Đảng lần thứ VIII]. Công
cuộc đổi mới đang rất cần những người cán bộ phát triển toàn diện, có đủ
năng lực, phẩm chất cần thiết. Đó là những người không chỉ có nhiệt tình và ý
chí cách mạng, mà còn phải phát triển cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, có
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trí tuệ, trách nhiệm và tài năng. Điều
đó có nghĩa là, cán bộ phải là những người vừa "hồng", vừa "chuyên".
Để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, vấn đề
không chỉ dừng ở sự nỗ lực rèn luyện, phấn đấu của mỗi cán bộ mà còn là
trách nhiệm của cấp ủy, của người đứng đầu cơ quan, đơn vị bằng công tác
giáo dục thông qua việc tuyên truyền kết hợp với quán triệt các văn bản pháp
luật hiện hành. Qua đó giáo dục, định hướng chính trị; lòng tự hào, tự tôn dân
tộc; nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật... là nội dung quan trọng
trong giáo dục phẩm chất đạo đức, chính trị của người cán bộ nói chung, của
ngành Tư pháp nói riêng.
Trong những nội dung, hình thức giáo dục phẩm chất cho cán bộ công
chức mà Đảng và Nhà nước quan tâm, đó là đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh như Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Chỉ thị 1973/CT-TTg ngày 07/11/2011. Qua đó, đã quán triệt và tổ
chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng trong việc tu
dưỡng rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng; nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
1
Đảng, chống suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, công chức, viên chức là
nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong quản lý nhà nước hay còn gọi là quản lý công vụ, nâng cao trách
nhiệm tư tưởng đạo đức, chính trị của cán bộ công chức là một yếu tố không
thể thiếu của mô hình quản lý nhà nước, trách nhiệm là sử dụng đúng thẩm
quyền trong các mối quan hệ để tìm ra cách thức, biện pháp thuận lợi nhất
giúp thực thi công việc thành công. Trách nhiệm của cán bộ công chức là việc
sử dụng đúng thẩm quyền để thực thi và hoàn thành các công việc được giao.
Thực hiện trách nhiệm tư tưởng đạo đức, chính trị là nghĩa vụ của cán bộ
công chức trách nhiệm tư tưởng đạo đức, chính trịcủa cán bộ công chức gắn
liền với từng vị trí công việc và được xét trong từng mối quan hệ công vụ cụ
thể.Trách nhiệm đạo đức, tư tưởng chính trị của cán bộ công chức ngành Tư
pháp hiện nay luôn được đặt ở vị trí “trung tâm” với phương châm “cán bộ là
nòng cốt cho hiệu quả công việc”. Cùng với đó, là triển khai thực hiện các
nhiệm vụ để góp phần thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ về đẩy mạnh thực
hiện 03 đột phát chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
như đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường pháp lý cho phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa, triển khai nghiêm túc thi hành
pháp luật, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực pháp luật, Tư pháp. Do đó, cần phải có những phẩm chất tốt
đẹp của lực lượng đội ngũ cán bộ công chức ngành Tư pháp, không chỉ về
trình độ, năng lực công tác, mà còn cả về phẩm chất và trách nhiệm tư tưởng
đạo đức, chính trị.
Đối với ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay, trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ được giao, là cơ quan chuyên môn thuộc Quốc gia thực hiện chức
năng tham mưu, giúp toàn bộ các tỉnh trong cả nước về công tác xây dựng và
2
thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; phổ biến, giáo dục
pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý
lịch Tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật;
công chứng; giám định Tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại;
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác
Tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đa số cán bộ công chức trong ngành đều có phẩm chất đạo đức tốt, chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước, có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức cầu tiến, ham học hỏi nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, tận tụy phục vụ
nhân dân, có ý thức trách nhiệm và thực hiện đúng các quy định của pháp luật,
vì vậy cơ bản đáp ứng được các yêu cầu khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ công chức năng lực tư duy, năng lực hoạt
động thực tiễn còn hạn chế, làm việc theo thói quen, kinh nghiệm, chưa có sự
sáng tạo, chủ động trong tham mưu giải quyết công việc. Trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ hạn chế, chưa sâu trong việc nắm bắt những quy định pháp
luật và kỹ năng chuyên môn về quản lý ngành, nhất là đối với những công
việc khó khăn, phức tạp.Việc tự nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ,
năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, còn hình thức.Tiến độ triển khai công
việc trong một số lĩnh vực công tác được giao còn chậm. Trong các hoạt động
thực thi công vụ, một số cán bộ công chức vẫn chưa thực sự thể hiện sự nhiệt
tình, chu đáo, tận tâm phục vụ nhân nhân trong các hoạt động liên quan đến
quyền và lợi ích của người dân, còn thể hiện sự máy móc trong giải quyết
công việc, chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chính đáng của người
dân.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế,
đòi hỏi phải nâng cao phẩm chất tốt đẹp của cán bộ ngành Tư pháp tức là
3
nâng cao tư tưởng đạo đức, trách nhiệm chính trị trong từng vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cán bộ công chức ngành Tư pháp nói chung ngành Thành
phố Hà Nội nói riêng để phản ánh kịp thời vai trò, chức năng, nhiệm vụ ngành
Tư pháp trước sự đòi hỏi của thực tiễn thời kỳ phát triển mới. Điều đó, càng
khẳng định việc nhận biết và nâng cao phẩm chất của người cán bộ Tư pháp
là một vần đề hết sức quan trọng và cần thiết, nâng cao ý thức trách nhiệm
công vụ của cán bộ công chức, rèn luyện kỹ năng đối với người lãnh đạo,
quản lý với tư cách là những con người chính trị, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới ở Việt Nam. Từ những lý do như trên, chúng tôi chọn đề tài
“Phẩm chất người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay” để nghiên
cứu viết luận văn Thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phẩm chất người cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ ngành Tư
pháp nói riêng đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học
thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong đó phải kể đến các công trình
cứu khoa học liên quan đến đề tài như:
Tác giả Đặng Nam Điền (2004), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ chính trị quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, Luận án
tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng. Trong luận án, tác giả nghiên
cứu hoạt động nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ dưới góc độ
lịch sử. Luận án đã phân tích sâu sắc những thành công, hạn chế của công tác
này đối với khách thể là cán bộ chính trị quân đội nhân dân Việt Nam qua các
thời kỳ [12].
Tác giả Nguyên Văn Hà (2011), Quản lý hoạt động giáo dục tư tưởng
chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thông qua các lớp đào tạo,
buồi dưỡng tại Trường Chính trị tỉnh Bắc Kạn, Luận văn Thạc sĩ Quản lý
giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Trong luận văn đã hệ thống
hóa các vấn đề lý luận liên quan đến phẩm chất chính trị, phân tích thực hoạt
4
động quản lý hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, từ đó
đề xuất các biện pháp quản lý nội dung này [13].
Tác giả Nguyễn Văn Khoa (2017), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng đội ngũ Tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011, Luận án Tiến sĩ Lịch
sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã làm sáng rõ quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp,
đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng độingũ cán bộ Tư
pháp trong công cuộc cải cách Tư pháp ở Việt Nam hiện nay.Làm rõ yêu cầu
khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ Tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tác giả phân tích, luận
giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảngvề xâydựng đội ngũ cán bộ Tư
pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011. Đánh giá ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp
giai đoạn 2001-2011. Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng
đội ngũ cán bộ Tư pháp hiện nay [26].
Tác giả Hứa Thị Kiều Hoa (2015), Giáo dục đạo đức công vụ cho học
viên trường chính trị cấp tỉnh khu vực miền núi phía Bắc, Luận án Tiến sĩ
Quản lý giáo dục, Đại học Thái Nguyên. Tác giả đã xây dựng cơ sở lý luận về
giáo dục đạo đức công vụ cho học viên trường chính trị cấp tỉnh. Xây dựng hệ
thống phẩm chất đạo đức công vụ cần giáo dục cho học viên trường chính trị
cấp tỉnh. Khảo sát và đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức công vụ cho học
viên ở các trường chính trị cấp tỉnh khu vực miền núi phía Bắc. Đề xuất biện
pháp giáo dục đạo đức công vụ cho học viên trường chính trị cấp tỉnh khu vực
miền núi phía Bắc và thực nghiệm [16].
Nguyễn Kim Diệu (2007), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành
chính tỉnh Hải Dương, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân.Luận án đã hệ thống được những lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức hành chính nhà nước nói chung và nâng cao chất lượng đội ngũ
5
công chức hành chính nhà nước của tỉnh Hải Dương nói riêng. Đồng thời đã
phân tích và rút ra những đánh giá thực trạng đó một cách khách quan, chính
xác về một số ưu điểm và hạn chế về chất lượng đội ngũ công chức hành chính
sự nghiệp nhà nước tỉnh Hải Dương trong thời kỳ mới. Luận án cũng đã đưa ra
những quan điểm, mục tiêu và một số giải pháp quan trọng, phù hợp, nêu lên
những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính nhà
nước tỉnh Hải Dương trong thời kỳ đổi mới. Song tác giả luận án mới chỉ dừng
lại ở đội ngũ công chức hành chính chứ chưa chuyên sâu về đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, vốn mang nhiều đặc thù nhất định [7].
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế.Tác giả luận
văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, phân tích thực
trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đã đáp ứng được yêu cầu của
CNH- HĐH tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An từ phương diện cơ cấu, chất
lượng đội ngũ. Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong
thời gian tới [30].
Thái Bá Châu (2013), Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý cấp xã trên địa
bàn huyện Nghi Lộc, Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế.
Luận văn đã nêu lên tổng quan những vấn đề cơ bản về phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý nói chung và đội ngũ cán bộ QLNN về kinh tế ở cấp xã nói riêng;
phân tích đúng thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý cấp xã trên địa
bàn huyện, từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển đội ngũ cán bộ quản lý,
nhất là đội ngũ cán bộ QLNN về kinh tế ở cấp xã trên địa bàn huyện một cách
đồng bộ, hợp lý, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới [5].
6
Ngoài ra, tác giả tìm đọc một số đề tài nghiên cứu như: Nguyễn Văn
Hải (2006), Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩchính trị
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [14]; Nguyễn
Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh. Giá trị lý luận và thực tiễn,
Luận án Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [27]; Phạm
Thị Nhuận (2012),Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ chính trị học, Học viện Báo chí và
Tuyên Truyền [29]; Nguyễn Minh Tuấn (2010), ĐảngCộng sản Trung Quốc
đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cánbộ, Tạp chí Lý luận chính trị số
9/2010 [33].Ở đây, từ vấn đề lý luận và thực tiễn, dưới góc độ trách nhiệm
chính trị của cán bộ công chức trong một Tư pháp thành phố Hà Nội. Để từng
bước nâng cao hơn nữa trách nhiệm phẩm chất chính trịcủa cán bộ công chức
ngành Tư pháp thành phố Hà Nội, bản thân em thấy đây là vần đề hết sức cần
thiết và phức tạp mà một số Đề tài đã đề cấp đến nhưng trong phạm vi cả
nước. Do vậy khi lựa chọn đề tài bản thân vẫn còn nhiều trăn trở để tìm tòi
một số luận điểm về lý luận cũng như thực tiễn trách nhiệm phẩm chất chính
trị tư tưởng, của cán bộ công chức ngành Tư pháp nói chung và ngành Tư
pháp thành phố Hà Nội nói riêng làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về phẩm chất người cán bộ tư pháp ở nước ta,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống người cán bộ ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu tiếp tục sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
7
- Khái quát về phẩm chất, phẩm chất người cán bộ, phẩm chất người
cán bộ ngành tư pháp ở nước ta hiện nay làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp
theo của luận văn.
- Phân tích thực trạng quá trình rèn luyện phẩm chất của người cán bộ
ngành Tư pháp (qua khảo sát ở thành phố Hà Nội). Trong đó tập trung phân
tích, đánh giá những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cho người cán bộ Tư pháp ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phẩm chất người cán bộ ngành tư pháp mà chủ yếu là: phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống người cán bộ ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống người cán
bộ ngành Tư pháp Việt Nam thông qua khảo sát cán bộ ngành Tư pháp ở
Thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến đầu năm 2017.
5. Phương lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống người cán bộ cách mạng nói chung và cán bộ
ngành Tư pháp Việt Nam nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các phương pháp: lịch sử và
lôgic; phân tích và tổng hợp, phỏng vấn, điều tra xã hội học; phân tích tài liệu,
trừu tượng hóa, khái quát hóa.
8
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
- Luận văn hệ thống hóa lý luận bàn về các phẩm chất của người cán bộ
cách mạng, phẩm chất người cán bộ ngành tư pháp, đó là một số lý luận về
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, về lối sống của cán bộ nói chung và
cán bộ ngànhTư pháp trong nền tư pháp xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu có liên quan đến phẩm chất cán bộ ngành tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo
dục, nhằm nâng phẩm chất cán bộ tư pháp, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả, chất lượng hoạt động của ngành Tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan có
thẩm quyền đề ra những chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho việc hình
thành và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ Tư pháp ở nước
ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phẩm chất người cán bộ ngành tư
pháp ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng phẩm chất người cán bộ ngành tư pháp Việt
Nam – Từ nghiên cứu ở thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất người cán bộ tư
pháp ở nước ta hiện nay
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ
NGÀNH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ tư pháp, phẩm chất, phẩm chất cán
bộ ngành tư pháp
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Từ “cán bộ” trong tiếng Trung, tiếng Nhật có hàm nghĩa: bộ khung,
người làm nòng cốt, người chỉ huy; thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ này
được du nhập vào nước ta và được sử dụng trong hai trường hợp: thứ nhất, để
phân biệt người có chức vụ (từ tiểu đội phó trở lên) với chiến sĩ; thứ hai, chỉ
những người thoát ly tham gia kháng chiến để phân biệt với nhân dân.
Theo từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên): Cán bộ: 1. Người làm
công tác có nhiệm vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, chẳng hạn, cán bộ
nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị; 2. Người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ,
chẳng hạn, Đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ; Họp cán bộ và công nhân nhà máy
[Từ điển Tiếng Việt, tr.109].
Quan niệm chung hiện nay: “Cán bộ là khái niệm chỉ những người có
chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng
đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều
hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [Nguyễn Phú Trọng,
tr.18].
1.1.2. Cán bộ ngành tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Cán bộ Tư pháp được quan niệm là những công dân được tuyển dụng
bổ nhiệm để giao giữ một nhiệm vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan Tư
pháp, có nhiệm vụ quyền hạn trong việc thực hiện quyền Tư pháp và trực tiếp
tham gia hoạt động khởi tố điều tra, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
*Đặc điểm cán bộ Tư pháp
10
Trước hết, cán bộ Tư pháp chủ yếu là cán bộ công chức Nhà nước.
Quyền Tư pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước. Quyền lực
nhà nước do đội ngũ cán bộ công chức thay mặt Nhà nước trực tiếp thực hiện.
Cán bộ Tư pháp là những người thực thi quyền Tư pháp do đó họ phải là cán
bộ công chức Nhà nước, đó là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm và
được giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan Tư pháp và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động của cán bộ Tư pháp là hoạt động bảo vệ pháp luật.
Hoạt động của cán bộ Tư pháp khác với hoạt động của cán bộ công chức nói
chung được thể hiện rõ nét nhất ở phạm vi công vụ của nó. Nếu như quan
niệm rằng quản lý nhà nước được thực hiện thông qua việc xây dựng pháp
luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật thì hoạt động của cán bộ
Tư pháp chỉ giới hạn trong phạm vi bảo vệ pháp luật, nhằm khôi phục lại
trạng thái các quan hệ xã hội đã bị thay đổi do hành vi vi phạm pháp luật hoặc
giải quyết các tranh chấp trong xã hội.
Thứ ba, số lượng cán bộ Tư pháp chiếm tỷ trọng không lớn trong bộ máy
Nhà nước. Nếu so sánh với số lượng cán bộ công chức hoạt động trong các cơ
quan Nhà nước khác, đặc biệt là với cơ quan hành pháp thì số lượng cán bộ công
chức hoạt động trong lĩnh vực Tư pháp không lớn. Đặc điểm này cho phép
chúng ta có thể thực hiện chế độ đãi ngộ tốt cho đội ngũ này vì trong điều kiện
ngân sách Nhà nước còn có hạn mà yêu cầu đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán bộ
trong sạch thì việc đãi ngộ tốt cho đối tượng này là cần thiết và có thể thực hiện
được trong giai đoạn hiện nay.Trong một số trường hợp cán bộ Tư pháp có thể là
những người không thuộc công chức nhà nước nhưng theo quy định của pháp
luật họ được thực hiện quyền Tư pháp như hội thẩm, người chỉ huy máy bay tàu
thuỷ khi máy bay tàu thuỷ rời sân bay bến cảng…
Thứ tư, cán bộ Tư pháp là những người am hiểu pháp luật sâu sắc.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước quản lý xã hội
11
bằng pháp luật. Tất cả mọi công dân nói chung cán bộ công chức Nhà nước
nói riêng đều phải am hiểu pháp luật để xử sự theo pháp luật. Tuy nhiên, cán
bộ Tư pháp là những người thay mặt Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, họ trực tiếp áp dụng các quy định của pháp luật đối với các trường
hợp cụ thể trong đời sống thực tiễn. Vì thế họ phải là những người am hiểu
pháp luật sâu sắc.
Thứ năm, cán bộ Tư pháp là những người có hình thức hoạt động công
vụ đặc thù, ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công
dân.Hoạt động của cán bộ Tư pháp nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn
trọng và thực hiện thống nhất. Các quyết định của cán bộ Tư pháp nhằm khôi
phục lại trật tự xã hội đã bị thay đổi do vi phạm pháp luật gây nên, trả lại
quyền và lợi ích của công dân, tổ chức bị xâm hại. Mặt khác các quyết định
đó buộc đối tượng vi phạm phải thực hiện các chế tài pháp lý nhất định vì thế
hoạt động của cán bộ Tư pháp luôn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công
dân, tổ chức. Nếu hoạt động của các cán bộ Tư pháp không đúng theo pháp
luật thì không chỉ gây oan sai cho công dân mà còn ảnh hưởng lớn đến uy tín,
danh dự của Nhà nước, làm giảm lòng tin của người dân đối với chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Thứ sáu, hoạt động của cán bộ Tư pháp nhằm hướng tới một phán
quyết nhân danh Nhà nước và đảm bảo thực hiện phán quyết đó. Hoạt động
Tư phápbao gồm hoạt động của cán bộ điều tra, kiểm sát viên, hoạt động xét
xử của các thành viên hội đồng xét xử. Tất cả các hoạt động này nhằm mục
đích đưa ra phán quyết của Toà án. Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật thì
mọi cá nhân, tổ chức liên quan có trách nhiệm tôn trọng thực hiên.
Thứ bảy, Hoạt động của cán bộ Tư pháp phải tuân theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định. Đặc điểm này xuất phát từ đặc thù của lĩnh
vực hoạt động Tư pháp, đó là hoạt động rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự tuỳ tiện
hoặc sai sót nào dù nhỏ nhất nhưng cũng dễ dàng xâm hại đến những quyền cơ
12
bản của con người, của công dân được pháp luật quy định và bảo vệ như quyền
sở hữu, quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, thậm chí cả quyền
sống của con người... Chính vì vậy, hoạt động của cán bộ Tư pháp phải tuân theo
một trình tự rất chặt chẽ, nghiêm ngặt, có sự phối hợp chế ước lẫn nhau nhằm
đảm bảo mỗi cá nhân trong đội ngũ cán bộ Tư pháp hoạt động đúng theo quy
định của pháp luật và làm tốt chức năng của mình, góp phần thực hiện đầy đủ
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan Tư pháp.
Các loại cán bộ Tư pháp
(1) Thẩm phán: Thẩm phán là khái niệm dùng để chỉ những người làm
công việc xét xử chuyên nghiệp, được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ,
làm việc thường xuyên trong cơ quan toà án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân
danh nhà nước.Theo pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số
02/2002/PL UBTVQH 11 ngày 4 tháng 10 năm 2002 về Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Toà án. Thẩm phán là người được tuyển chọn bổ nhiệm trong
số các Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung
thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử
nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực
tiễn, có năng lực làm công tác xét xử có sức khỏe, bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao 4. Nhiệm kỳ của thẩm phán là năm năm, kể từ ngày được bổ
nhiệm. Thẩm phán Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gồm có:
- Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
- Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh bao gồm: Thẩm phán Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
13
- Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện bao gồm: Thẩm phán Toà án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Thẩm phán Toà án quân sự các cấp bao gồm: Thẩm phán Toà án quân
sự trung ương đồng thời là Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
- Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu bao gồm Thẩm phán Toà án
quân sự quân khu và tương đương; Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
(2) Thư ký toà án: Thư ký toà án là người giúp việc cho hội đồng xét
xử và ghi chép lại nội dung diễn biến của phiên toà. Trước đây, thư ký toà án
được gọi là lục sự. Hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định cụ thể tiêu chuẩn cũng như nhiệm vụ quyền hạn của chức danh này.
(3) Kiểm sát viên: Kiểm sát viên là người đại diện cho Viện kiểm sát
thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động Tư pháp.Theo Pháp lệnh hội số 03/2002/PL UBTVQH
11 ngày 4 tháng 10 năm 2002 về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thì
kiểm sát viên là người đượcbổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động Tư pháp. Điều
kiện để được tuyển chọn và bổ nhiệm là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử nhân luật, đã được
đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Pháp lệnh
này, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên. Nhiệm kỳ của Kiểm sát viên là
năm năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bao gồm Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
14
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện bao gồm Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự các cấp bao gồm Kiểm sát viên
Viện kiểm sát quân sự trung ương đồng thời là Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu bao gồm
Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Kiểm sát viên
Viện kiểm sát quân sự khu vực.
(4) Điều tra viên: Theo quy định hiện nay, Điều tra viên là người được
bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra các vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật. Điều kiện để được tuyển chọn và bổ nhiệm
Điều tra viên là Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm
khiết và trung thực, có trình độ đại học an ninh, đại học cảnh sát hoặc đại học
luật, có chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, có thời gian làm công tác thực tiễn theo
quy định của Pháp luật, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao
thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên. Trong trường hợp do nhu cầu cán
bộ, người có trình độ đại học các ngành khác có đủ các tiêu chuẩn nói trên và
có chứng chỉ nghiệp vụ điều tra thì cũng có thể được bổ nhiệm làm Điều tra
viên. Nhiệm kỳ của Điều tra viên là năm năm kể từ ngày được bổ nhiệm.Do
tính chất phức tạp của từng loại tội phạm và quá trình điều tra các loại tội phạm
sẽ có thể động chạm đến quyền con người, quyền công dân ở mức độ khác
nhau nên pháp luật quy định các bậc điều tra viên khác nhau.Có ba bậc điều tra
viên là Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp và Điều tra viên cao cấp.
(5) Cán bộ thi hành án: Cán bộ thi hành án gồm có cán bộ thi hành án
hình sự và chấp hành viên thi hành án dân sự.
Cán bộ thi hành án hình sự: Việc thi hành án hình sự được thực hiện tại
các trại giam. Tổ chức của mỗi trại giam gồm có Giám thị, một số Phó Giám
thị, quản giáo, chuyên viên, nhân viên, kỹ thuật viên, sĩ quan, chiến sĩ vũ
15
trang bảo vệ. Mỗi phân trại có một phân trại trưởng (có thể là Phó Giám thị
kiêm nhiệm).
Chấp hành viên thi hành án dân sự: Chấp hành viên là người được Nhà
nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự quy định tại
Điều 2 của Pháp lệnh thi hành án dân sự. Tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên - Công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân
luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án, có thời gian làm công
tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ
được giao thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
(6) Cán bộ lãnh đạo quản lý của cán cơ quan Tư pháp: Như phần trên
đã đề cập, các cơ quan Tư pháp có chức năng nhiệm vụ thực thi quyền Tư
pháp. Tuy vậy, không phải mọi hoạt động của các cơ quan này đều là hoạt
động Tư pháp mà chỉ những hoạt động nào liên quan đến việc thực hiện
quyền Tư pháp mới là hoạt động Tư pháp. Hoạt động Tư pháp về nguyên tắc
chỉ do các cán bộ Tư pháp tiến hành. Tuy nhiên, để tổ chức thực hiện quyền
Tư pháp phải có hoạt động chỉ đạo điều hành và hoạt động này được thực
hiện bởi các cán bộ lãnh đạo của các cơ quan Tư pháp. Các cán bộ lãnh đạo
quản lý trong các cơ quan Tư pháp không chỉ thực hiện hoạt động quản lý
điều hành trong lĩnh vực hoạt động Tư pháp mà còn tham gia trực tiếp thực
hiện quyền Tư pháp như quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra quyết định
thay đổi huỷ bỏ áp dụng các biện pháp ngăn chăn, quyết định truy nã bị can,
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm... Đây là những thẩm quyền quan trọng trong hoạt động tố tụng
và có ý nghĩa pháp lý rất lớn trong việc bảo đảm cho các cơ quan Tư pháp
thực thi quyền lực.Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Tư pháp bao
gồm:
- Chánh án, Phó Chánh án toà án các cấp;
16
- Xem thêm -