Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu ôn tập một số tác phẩm văn xuôi lớp 12

.PDF
33
683
147

Mô tả:

Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi 1. Tùy bút Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân a) Xuất xứ. - Người lái đò Sông Đà là bài tuỳ bút in trong tập Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo; - Mục đích của chuyến đi – cũng là cảm hứng chủ đạo của tập tuỳ bút : tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng; - Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân : tài hoa – uyên bác. b) Nội dung chi tiết. Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo để ông dệt nên những bức tranh sinh động và hấp dẫn về thiên nhiên và con người Tây Bắc với cảm hứng trong sáng và lãng mạn. Hấp dẫn người đọc nhất vẫn là … (1) Hình tượng sông Đà: Hung bạo và trữ tình Sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân là một con sông có cá tính độc đáo. Nó không thuộc “chúng thủy giai đông tẩu” mà nó là “Đà giang độc bắc lưu”. Đặc biệt nó có tính cách như con người; vừa hung bạo, dữ dội nhưng cũng lại rất đỗi hiền hòa, gợi cảm. - Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như “ kẻ thù số một”. Để khắc hoạ tính cách hung bạo của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm nơi thượng nguồn : + Sông Đà hung bạo bởi nó có một vị thế rất đặc biệt. Đó là những đoạn đá hai bên bờ dựng vách thành. Khúc sông chỗ ấy đột ngột hẹp lại : chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Tác giả liên tưởng đã có lần “con nai, con hổ nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”, hoặc “nhẹ tay là có thể ném hòn đá sang bờ bên ấy”. Lòng sông chỗ ấy vừa sâu (hai bờ đá dựng vách thành), vừa tối (đúng ngọ mới có ánh nắng mặt trời), vừa lạnh (đi thuyền qua quãng sông chỗ ấy mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh). Chính vì thế mà lưu tốc và áp suất của dòng chảy rất lớn. Chỉ qua một đoạn văn mở đầu giới thiệu ngắn ngủi về vị thế nơi đầu nguồn hoang sơ, hùng vĩ của sông Đà, tác giả đã gợi ra trước mắt người đọc ấn tượng về một dòng sông dữ dội đầy nguy hiểm. Và đây có lẽ là đoạn văn mà Nguyễn Tuân muốn thay cho lời giải thích căn nguyên của tính cách hung bạo của sông Đà. Vị thế ấy thì phải như vậy đó là quy luật của tự nhiên. + Dữ dội của sông Đà còn là hợp lực của nước - đá – sóng – gió ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng. “Quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây.”. Chỉ với hai câu văn ngắn ngủi nhưng nhà văn đã kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật; điệp từ, diệp cấu trúc cú pháp, và các thanh trắc đi liền kề tạo một giọng văn nhanh mạnh, khẩn trương, các hình ảnh được tổ chức theo cấp độ tăng tiến cùng với nghệ thuật nhân hóa “ đòi nợ xuýt”( đòi nợ vô lý), tác giả đã gợi ra cho người đọc ấn tượng về một nơi sóng to gió cả rất nguy hiểm, về một con sông mang tâm địa độc ác lúc nào cũng làm mình làm mẩy vời con người Tây Bắc. + Sông Đà dữ tợn hơn bởi những cái hút nước ghê người. Đó là những xoáy nước trên sông, tác giả liên tưởng như những “cái hút giếng bê tông mà người ta đang làm trụ móng chân cầu”. Nước ớ đấy lúc nào cũng “ặc ặc lên như người ta rót dầu sôi vào”, khi thì nó “thở và kêu như một cái cống cái bị sặc”. Bấy nhiêu thôi đủ để người đọc hình dung ra những xoáy nước với cường lực dữ dội. Nhưng với sức liên tưởng phong phú, cảm xúc bay bổng của thể tùy bút, Nguyễn Tuân còn liên tưởng đến những cái thuyền khi qua xoáy nước ấy phải thật nhanh như “ô tô sang số ấn ga cho nhanh…”. Để tô đậm hơn nữa và muốn truyền đến cho người đọc cảm giác mạnh mẽ khi đến với sông Đà, nhà văn liên tưởng đến một người quay phim táo bạo ngồi vào một cái thuyền thúng để cả người và máy quay phim bị hút vào cái hút nước ấy rồi thu lại cảnh cái cột xoáy nước từ dưới lên. Đoạn văn như một Trang 1 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi thước phim tuyệt vời mang cảm giác mạnh mẽ, thú vị. Người đọc như bị lôi cuốn vào dòng cảm xúc bay bổng, lãng mạn của Nguyễn Tuân. Nhưng từ cảm xúc bay bổng ấy, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc về với thực tại để nhận ra những cái hút nước chết người; “Có những thuyền đã bị nó lôi tuột xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi ngầm dưới lòng sông dến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới” . Đó là một hiện thực tàn nhẫn, một thử thách lớn lao, nghiệt ngã của nghững người lao động sông nước trên sông Đà trong cuộc mưu sinh của họ. + Hung bạo của sông Đà còn thể hiện ở thác nước hùm beo. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh với những cung bậc khác nhau. Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Quả thực chưa thấy sông Đà nhưng người ta đã bị đe doạ bởi những âm thanh ghê người gợi một cảm giác rợn rợn về một thác nước dữ dội ở nơi hoang sơ của rừng sâu núi thẳm . Đặc biệt tác giả còn liên tưởng và so sánh độc đáo sức mạnh của thác nước sông Đà “Như tiếng một ngàn con Trâu đang lồng lộn gữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”… Quả là một lối so sánh tài hoa, độc đáo mang đậm phong cách Nguyễn Tuân. + Nhưng dữ dội nhất của sông Đà là ở những bãi đá ngầm, đá tảng trên sông. Chính vì thế mà tác giả đã sử dụng một đoạn văn khá dài ( hơn một trang sách) để miêu tả về sự nham hiểm của đá trên sông Đà. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là “trùng vi thạch trận”. Những hòn đá sông Đà được Nguyễn Tuân nhân hóa lên như những tên lính thủy mà sông Đà đã giao việc cho từng hòn. Nó cũng biết mai phục, biết khiêu khích, dụ con thuyền, biết bày binh bố trận, bố trí cửa sinh, cửa tử một cách phức tạp, tính cách thì ngỗ ngược, nham hiểm, nó phối hợp với nước, gió và ra nhiều đòn chí hiểm … Tất cả đều nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Trong trận giao đấu nó luôn thay đổi chiến thuật. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua. Giọng văn nhanh khẩn trương phù hợp với miêu tả một trận đánh quyết liệt trên sông. Đó là một trận đấu sinh tử giữa con người và thiên nhiên, nó cũng ác liệt như cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lăng vậy. Miêu tả cái độc dữ của Đà giang không chỉ đơn thuần là nhà văn miêu tả hay tái hiện mà ẩn đằng sau đó là một sự khám phá thú vị của nhà văn cả đời đi săn tìm cái đẹp. Đó chính là chất vàng quý giá của thiên nhiên Tây Bắc, một thiên nhiên kì thú, hoang sơ và một tiềm năng thủy điện to lớn của sông Đà trong công cuộc xây dựng đất nước. - Đà giang ở vùng thượng nguồn hung bạo là thế nhưng khi về hạ nguồn nó lại mang một tích cách hoàn toàn đối ngược lại. Đó là nét tính cách đằm thắm trữ tình. + Giọng văn thay đổi đột ngột chuyển từ mạnh mẽ, gân guốc sang nhẹ nhàng, lắng sâu. Và sau một cái “vặn mình” dễ thương của dòng sông nó đã gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Cái say mê đầu tiên chính là dòng chảy của nó. Từ trên cao nhìn xuống, hình dáng của sông Đà ở khúc này hiền hoà, mềm mại và gợi cảm như mái tóc của một thiếu nữ kiều diễm : “ con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mù Mèo đốt nương xuân.” Câu văn dài ra và trầm lắng như chính dòng chảy của sông Đà. Ngắm nhìn con sông ở đoạn ấy ta thấy nó giống như một tấm gương lớn phản chiếu tất cả mọi vể đẹp của mây trời, thiên nhiên Tây bắc. Tất cả đều như in hình trên khúc sông này. + Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy, nét duyên dáng rất riêng của nó. Đó chính là sự thay đổi màu sắc theo mùa “Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích” (nghĩa là một màu xanh trong và sáng) “ mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Sắc màu ấy là nét đẹp không trộn lẫn của sông Đà. Nó không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm và sông Lô. Lại càng không phải màu đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta đổ mực tây một cách lếu láo vào. Bằng sự khẳng định độc đáo này, Nguyễn Tuân đã bày tỏ tình cảm yêu mến vô vàn con sông quê hương xứ sở và vượt lên trên tất cả là tình yêu tổ quốc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Trang 2 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi + Nhìn Sông Đà như một cố nhân, nhà văn cảm nhận được chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen. Cũng qua cái nhìn đằm thắm yêu thương của chàng Nguyễn, sông Đà còn gợi cảm bởi cái không khí hoang dại, tĩnh lặng : “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử”. Bờ sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Một cách so sánh rất tài hoa gợi ấn tượng về một dòng sông nhiều huyền thoại. Đề lột tả không khí đầy chất thơ ấy. Nguyễn Tuân đã tả những khung cảnh hai bên bờ sông : Bờ sông đà bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà. Một sức sống đang trỗi dậy ở đây khi con sông oằn mình chở phù sa bồi đắp cho mảnh đát này thì “những nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “đám cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Và cả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, cùng với cái nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, gợi tâm sự của “người tình nhân chưa quen biết”…Một khung cảnh đẹp đến mê hồn, một cảm giác đắm say đến ngất ngây trước một thiên nhiên thuần khiết, tươi mới. Sông Đà quả thực rất gợi cảm, rất nên thơ và đáng yêu xiết bao! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà với diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một “cố nhân”, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn. Tác giả không nén nổi cảm xúc thực của lòng mình: Thuyền tôi trôi trên sông Đà.”, “ sông nước lênh bênh bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”. Thực sự ngòi bút Nguyễn Tuân, tâm hồn Nguyễn Tuân với vốn sống phong phú thăng hoa thực sự khiến người đọc như cảm thấy nhà văn như muốn “đề thơ lên sông nước”. Đà giang qua lăng kính nghệ thuật tài hoa, lối viết uyên bác của Nguyên Tuân thực sự đã trở thành đứa con đầy cá tính của người mẹ thiên nhiên Tây Bắc, là một công trình thiên tạo tuyệt vời. Và với Nguyên Tuân thì thiên nhiên ấy rất đáng trân trọng và ngợi ca để làm phác lộ hơn nũa vẻ đẹp mê đắm của nó. Đó chính là chất vàng quý giá của Tây Bắc.Thiên nhiên qua trang viết của Nguyễn Tuân hùng vĩ, hung bạo đến mức khủng khiếp, mà đẹp đẽ nên thơ cũng đến ngất ngây. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn ta thêm yêu thiên nhiên, cảnh sắc, non nước mình. (2) Hình tượng ông lái đò. Miêu tả sự dữ dội của sông Đà phải chăng Nguyễn Tuân muốn tô đậm thêm, tôn thêm lên vẻ tài hoa trí dũng của ông lái đò. - Vẻ đẹp của hình tượng ông lái đò trước hết là chất tài hoa nghệ sĩ trong nghề chèo đò vượt thác sông Đà. + Ông đò là người có trí nhớ rất tinh anh : Ông rèn trí nhớ của mình đến mức như đóng đinh vào từng con thác. Sông Đà đối với ông như một bản thiên anh hùng ca mà ông "thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng”. + Ông là người có lòng dũng cảm, ngoan cường, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một : Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông…Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn… Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh nghe rõ tiếng chỉ huy của người cầm lái, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. không một phút nghỉ mắt, nghỉ tay, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Bởi vì ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên Trang 3 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn, hay là những người biểu diễn trên sân khấu mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là một nghệ thuật đặc biệt: Nghệ thuật chèo đò nơi nguy hiểm. Tay lái của ông lão đã đạt trình độ điêu luyện : “lái miết một đường chéo về phía cửa đá” và con thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Con thuyền của ông lão chẳng khác nào nét bút của thư pháp gia, hay nét cọ của hoạ sĩ tài ba đang biểu diễn những đường tuyệt mĩ. Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Ông đò quả thực là một dũng tướng trên sông, là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật chèo đò, vượt thác. - Ngoài ra, ở ông lái đò, ta còn phát hiện một vẻ đẹp giản dị, vẻ đẹp của những người lao động chất phác. + Ông lái đò có ngoại hình hết sức đặc biệt . Ấn tượng về dòng sông và dấu ấn nghề nghiệp in hằn trong vóc dáng của ông : “Cái đầu bạc … cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun” và “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng, giọng nối ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh, nhỡn giới vòi vọi như mong một cái bến xa nào đó trong sương mờ.”Ông lái đò thực sự là sản phẩm của dòng sông. Cả con người của ông là thuộc về dòng sông này. + Sau khi chiến thắng con sông Đà, lúc nào ông cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác : sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ gặp trong trang viết của Nguyễn Tuân.Và lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm! * KẾT LUẬN Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dung văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dung chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người. Câu hỏi: 1. Hình tượng sông Đà? 2. Hình tượng người lái đò? Trang 4 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi 2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài a) Hoàn cảnh ra đời - Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc. - Truyện Tây Bắc là tập truyện được giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập truyện là kết quả của chuyến đi dài tám tháng của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. - Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần. Phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích học (trong SGK) thuộc phần đầu. b) Nội dung chi tiết. (1) Nhân vật Mị (1.a) Những đoạ đày, tủi cực của Mị - Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với một thân phận nghiệt ngã. Đó là một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác : “một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Một cô con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “mặt buồn tười rượi”. Rõ ràng, hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc. - Thực chất về kiếp “con dâu gạt nợ” của Mị càng chua xót hơn. Bề ngoài, Mị là con dâu nhà thống lí, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : Nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lí. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị. - Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lí là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết. Mị dường như đã tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng. Đến cái chết, Mị cũng chẳng còn nghĩ đến nữa vì “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Bây giờ, dường như Mị chỉ có một ý niệm duy nhất về thân phận trâu, ngựa của mình : “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Mị giờ đây chỉ là một công cụ lao động : Tết xong : hái thuốc phiện – giữa năm : giặt đay, xe đay – đến mùa : đi nương bẻ bắp… Thua cả con trâu, con ngựa, Mị làm việc tất bật “cả đêm cả ngày”. Cứ bao nhiêu việc lặp lại ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia. Thế là, Mị cứ âm thầm như một cái bóng : “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thân phận Mị giờ đây chẳng khác nào tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống : “Cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Qua đây, nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót : Dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thnầ quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn. (1.b) Sức sống tiềm tàng của Mị. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta dễ dàng nhận ra những đoạ đày, tủi cực của cô Mị. Tuy nhiên, ở Mị ta vẫn thấy một sức sống luôn tiềm tàng. Sức sống đó thể hiện ở chỗ Mị là cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết và khát khao tự do, khao khát hạnh phúc. Đây là tiền đề để khi gặp “thời cơ” thì sức sống ấy trỗi dậy một cách mạnh mẽ và táo bạo. - Trước hết, có thể thấy Mị là một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo. Chỉ qua một vài chi tiết đậm tính phong tục của người dân miền núi Tây Bắc, nhà văn đã giúp bạn đọc hình dung được vẻ đẹp của Mị : “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Chưa hết, Mị thổi sáo giỏi đến mức “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Trang 5 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi - Ở Mị, ta còn thấy cô là một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn. Mị đã “biết cuốc nương làm ngô” và sẵn sang “làm nương ngô giả nợ thay cho bố”. Những chi tiết trên đã cho thấy Mị biết làm ăn và dám gánh vác công việc lao động trong gia đình. - Hơn nữa, Mị còn là một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý. Mị đã xin bố đừng bán cô cho nhà giàu. Khi bị ép về nhà Pá Tra, Mị đã định ăn lá ngón để tìm đến cái chết hòng giải thoát khỏi cuộc sống tù túng, thiếu tự do và không có tình yêu đích thực. - Ngoài ra, Mị còn là một người con hiếu thảo. Mị sẵn sàng lao động vất vả để trả món nợ truyền kiếp thay cho cha mẹ. Và, nếu chỉ biết sống cho riêng mình, Mị đã chết. Nhưng vì thương cha nên Mị đã chấp nhận một cuộc sống mà cô không hề mong muốn, sống mà như đã chết (chấp nhận về nhà thống lí). Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng. (1.c) Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc của Mị (Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân) Cuộc sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” của Mị cứ thế diễn ra nếu như không có đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Khi mùa xuân đến, sức sống vốn tiềm tàng của Mị sẽ trỗi dậy mạnh mẽ. Ta có thể thấy rõ sự trỗi dậy ấy qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị. - Những yếu tố của ngoại cảnh – mùa xuân ở Hồng Ngài – đã có những tác động tích cực đối với cuộc đời tăm tối và giá lạnh của Mị. Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu sắc : “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ”, “Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà”. Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”. Từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng lại có sức mời gọi lớn lao đối với Mị : “Ta không có con trai con gái – Ta đi tìm người yêu”. Và bay theo tiếng sáo, “những đêm tình mùa xuân đã tới”… Ngoài ra, bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “ chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa cũng làm cho mị hồi sinh trở lại. Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì, ngày trước Mị thổi sao giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này. - Và, với những tác động của ngoại cảnh ấy, ở Mị đã có những chuyển biến về tâm lí và hành động, báo hiệu sức sống đã trỗi dậy. Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cô mị đã cất tiếng, dù đó chỉ là những lời “thì thầm mùa xuân”. Bản “tình ca Tây Bắc” của những kẻ yêu nhau, của những người tự do, khát khao hạnh phúc đã cất lên trên đôi môi của Mị, đánh dấu một bước trở lại của người con gái yêu đời, yêu sống ngày nào. Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “ Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái cách uống rượu của Mị khiến người đọc phải ngạc nhiên nhưng không cảm thấy vô lí. Mị uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, để sống lại mạnh mẽ cái phần đời tươi trẻ đã có. Chẳng phải thế mà trong Mị lúc này đang sống lại những kỉ niệm của ngày trước, những ngày tươi đẹp, hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi trẻ. Tình trạng sống mà như chết ở Mị đã được cởi bỏ, Mị “ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Cảm xúc của Mị lúc này đã cho thấy cô đã tiến thêm một bước nữa trên hành trình tìm lại chính mình. Mị cũng đã ý thức và cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Rõ ràng lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy, khát vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh. Mị ý thức rất rõ quyền được sống, được “đi chơi ngày Tết” của mình như bao người phụ nữ có chồng khác. Như một lẽ tự nhiên, khi ý thức sống đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lí của cuộc sống thực tại. Nên, Mị nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Đây chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, Trang 6 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi của sự xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống chân chính, mãnh liệt với một bên là thực tại nghiệt ngã đang hiện hữu. Tiếng sáo vẫn đang “lửng lơ bay ngoài đường”, tiếng sao như những “nốt nhạc” trong tầm hồn Mị : “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Và tiếng sáo nội tâm ấy giống như một chất “ xúc tác” để “phản ứng đi chơi” của Mị diễn ra nhanh hơn : “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, tiếp luôn đó, Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Có thể thấy, những chuyển động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã dẫn đến những hành động nối tiếp nhau. Nhưng, giữa lúc những hoạt động sống trong Mị trào sôi thì cũng là lúc nó bị vùi dập một cách dã man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên cột khiến Mị “không cúi, không nghiêng được đầu”. Tuy nhiên, hành động ấy của A Sử chỉ có thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động “đi chơi” của Mị chứ không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người cô gái Tây Bắc này. Dù đang bị trói, Mị “như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi…”. Cũng như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Mị của Tô Hoài đã không mất đi hoàn toàn bản chất người tốt đẹp. Cái khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy đưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió mát lành thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Chiều sâu tư tưởng nhân đạo của truyện là ở sự phát hiện này của Tô Hoài. (Vài nét về thành công nghệ thuật : nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên ; nghệ thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân vật đặc sắc ; nghệ thuật tả cảnh đặc sắc…) (1.d) Hành động táo bạo của Mị (Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong cảnh A Phủ bị trói) Có thể thấy đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã giúp ta nhận ra những bí ẩn trong cuộc đời và con người Mị nói riêng và đời sống tâm hồn, tình cảm của con người nói chung. Tuy nhiên, vẫn chưa dừng lại ở đó. Đây dường như mới chỉ là bước chuẩn bị cho những hành động phản kháng mạnh mẽ và táo bạo hơn diễn ra tiếp theo. Sự phản kháng táo bạo của Mị có thể thấy qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, hành động cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. - Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng : Cô “thản nhiên thổi lửa hơ tay…”. Phản ứng này của Mị cũng là hiển nhiên vì những cảnh trói người đến chết như thế ở nhà thống lí là chuyện bình thường. Vả lại, có lẽ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên cái khổ của người khác cũng thế thôi. - Sau đó, nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị đồng cảm, thương mình, thương người. Mị nhớ lại đêm năm trước, “Mị cũng phải trói đứng thế kia”. Có thể nói, lòng thương mình của Mị là nền tảng của lòng thương người, để sau đó Mị hành động một cách mạnh mẽ. - Từ sự thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí : “Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Khi nhận ra sự độc ác của bọn cường quyền, chắc chắn một điều con người đau khổ sẽ vùng lên kháng cự lại. Mị chắc cũng vậy ! - Cuối cùng, sức mạnh của tình thương cùng với niềm khát khao tự do trỗi dậy đã khiến Mị vượt qua nỗi sợ hãi để quyết định và hành động táo bạo : cắt dây trói cứu A Phủ và theo A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Điều này đã cho thấy tâm hồn Mị hoàn toàn hồi sinh và sáng suốt, sự trưởng thành trong nhận thức cộng với lòng thương người của Mị. Hành động của Mị là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những “gông xiềng” của cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc. (Vài nét về nghệ thuật : nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên ; nghệ thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân vật đặc sắc ; nghệ thuật tả cảnh đặc sắc…). (2) Giá trị nhân đạo của truyện: Tham khảo dàn ý sau : - Ý 1 : Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở sự cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với số phận bất hạnh của con người (Phân tích số phận bất hạnh của Mị, A phủ). Trang 7 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi - Ý 2 : Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ thể hiện ở sự trân trọng của nhà văn trước những phẩm chất tốt đẹp của con người (Phân tích sức sống, sức phản kháng của Mị, A Phủ). - Ý 3 : Một phương diện nữa thể hiện giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ là nhà văn đã phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (Phân tích sự độc ác của nhà thống lí Pá Tra). - Ý 4 : Ngoài ra, giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn thể hiện ở chỗ nhà văn đã giúp con người tìm ra một con đường giải phóng họ khỏi sự chà đạp, mở ra cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn (Phân tích hành động Mị cứu A Phủ rồi cùng A Phủ chạy trốn đến Phiềng Sa ; rồi thành vợ chồng và cùng chiến đấu bảo vệ quê hương). * KẾT LUẬN Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đoạ, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tác phẩm khắc hoạ chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ. Câu hỏi: 1. Phân tích nhân vật Mỵ. 2. Sức sống tiềm tàng của Mỵ. 3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trang 8 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi 3. Truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân a) Giới thiệu. Kim Lân là cây bút đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại về phong tục và đời sống làng quê. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân chỉ viết một thể loại là truyện ngắn. Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất : tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã thể hiện thành công xuất sắc những yếu tố trên, đặc biệt là … Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962) Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết sau Cánh mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), ông đựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. b) Ý nghĩa nhan đề - Nhặt thường đi liền với những thứ không ra gì (cái rơm, cái rác, thanh nứa, thanh tre…). Với nghĩa này, nhan đề cho thấy thân phận rẻ rúng của con người (người vợ nhặt) trong nạn đói, đồng thời gợi niềm xót xa, buồn tủi. - Vợ phải được cưới hỏi đàng hoàng, còn ở đây nhân vật (Tràng) lại đi “nhặt vợ”. Với nghĩa này, nhan đề cho thấy hoàn cảnh khốn cùng của con người (Tràng) trong nạn đói. - Ngoài ra, nhan đề Vợ nhặt đã gói trọn tình huống truyện độc đáo của tác phẩm – tình huống “cười ra nước mắt”. c) Nội dung chi tiết. (1) Tình huống truyện. - Tình huống truyện của tác phẩm này một phần thể hiện ngay trong nhan đề tác phẩm: Vợ nhặt. Anh Tràng đã “nhặt” được vợ ở chợ, như người ta nhặt được một thứ đồ vật vô chủ nào đó. Người ta lấy vợ có dạm hỏi, cưới xin đàng hoàng, có cỗ bàn dù ít cũng phải một vài mâm. Tràng lấy vợ nhờ một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Đây quả là một tình huống vừa lạ, bất ngờ, vô lí nhưng cũng vừa tự nhiên, hợp lí. Bất ngờ, vô lí bởi lẽ, người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Hơn nữa, trong thời buổi đói khát hoành hành dữ dội, người như Tràng, nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Nhưng tình huống cũng tự nhiên, hợp lí là vì : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến” Tràng. Còn với Tràng thì đây là “dịp may” hiếm có, hơn nữa “may ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này” thì anh cũng có vợ. Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ liều, nhưng cái liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng. Phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ? - Tình huống Tràng nhặt được vợ lại xảy ra trong lúc đói kém. Đó là một nghịch cảnh éo le “cười ra nước mắt” đã khiến cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và cả Tràng cũng lấy làm bối rối. Ngạc nhiên trước nhất là những người trong xóm ngụ cư. Khi Tràng dắt vợ về ngang qua xóm, những người dân trong xóm đã “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” : “Ai đấy nhỉ ?...”, “Quái nhỉ ?”. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Có người lo dùm cho anh ta : “- Ôi chao ! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ?”. Tuy nhiên, họ cũng không giấu được một vẻ vui vui : “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng tỡ hẳn lên. Có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Còn bà cụ Tứ, mẹ của Tràng càng bất ngờ hơn. Bà hiểu rõ tình cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Khi thấy người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ?... Sao lại chào mình bằng u ?... Ai thế nhỉ ?...”. Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Ngay cả đến hôm sau, “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”… Trang 9 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi - Nhưng chính trong hoàn cảnh bi đát, tuyệt vọng ấy, ba con người cùng khổ vẫn không mất niềm tin vào sự sống, họ nương tựa vào nhau, cùng nhau hi vọng vào tương lai. Chỉ trong thời gian ngắn, cả ba con người ấy đều có những sự thay đổi mà sâu sắc nhất là bà cụ Tứ, người mẹ nghèo đôn hậu, giàu tình yêu thương. Khi hiểu ra mọi chuyện, bà cảm thấy “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình…”. Bằng tình thương con vô bờ của người mẹ, bà không khỏi lo âu : “Biết rằng chúng nó có nuôi nỗi nhau cho sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nhưng dù sao, bà cũng cảm thấy mừng thay cho con, vì theo bà “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Chính vì vậy, bà đã đón nàng dâu mới trong niềm thương xót và cảm thông. Vậy là ba con người trong gia đình nghèo ấy đã nương tựa vào nhau, họ cũng đã bắt đầu bộc lộ niềm tin vào cuộc sống mới. Sáng hôm sau, hình như ai cũng nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Trong bữa cơm, họ toàn nói chuyện vui, chuyện ở ngày mai sáng sủa : “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. - Tác giả Vợ nhặt đã sáng tạo được một tình huống độc đáo. Một tình huống vừa rất thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Thứ nhất, tình huống có ý nghĩa làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Thông qua tình huống truyện, tác giả đã dựng lại một bức tranh xám xịt của nạn đói và tình cảnh thê thảm của người dân, đến nỗi người ta có thể “nhặt” được vợ. Đồng thời, tác phẩm đã lên án tội ác của bọn phát xít đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp vào năm 1945. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khốn cùng ấy những người dân vẫn yêu thương đùm bọc nhau, cùng khát vọng sống và hạnh phúc. Thứ hai, tình huống vừa có ý nghĩa giúp bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách nhân vật vừa giúp thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của truyện : Những người đói, họ không nghĩ đến “cái chết” mà luôn nghĩ đến “cái sống”. (2) Nhân vật bà cụ Tứ - Bà cụ Tứ là người nông dân đôn hậu và có thân phận đáng thương : nhà nghèo, goá bụa, sống thầm lặng với một anh con trai “dở hơi”. Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện ở thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái của nạn đói phủ xuống, cùng lúc đó người con trai đáng thương của bà làm nghề kéo xe, đưa về người đàn bà xa lạ và thị gọi bà bằng u. Là người sống gắn bó lâu với cái nghèo, gần hết cuộc đời nên khi ấy, bà đã lo nghĩ rất nhiều… - Việc anh Tràng, con trai của bà “nhặt” vợ đã khiến bà không khỏi ngạc nhiên, ai oán xót thương, vừa mừng vừa lo. Trước hết là bà cụ tỏ ra rất ngạc nhiên. Bà cụ hiểu tình cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin con bà có vợ. Thấy người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, đến giữa sân bà lão đứng sững lại, ngơ ngác tự hỏi : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ? Ai thế nhỉ ?”… Bà cụ làm sao hiểu nổi, nghèo như con bà ai người ta them lấy mà có được vợ. Vả lại, trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con ? Khi vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà cúi đầu nín lặng và cảm thấy ai oán xót xa biết bao. Bà “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Ngẫm cái phận nghèo, bà tự nhủ : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa. Đi liền với nỗi niềm ai oán là nỗi lo của bà : “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà cụ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau ? Tương lai sẽ ra sao… Tuy nhiên, lòng người mẹ thương con cũng không giấu được niềm vui : “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”, “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Bà vui vì người con trai nghèo, quê kệch, có nguy cơ ế vợ cũng đã có vợ. Thế ra, với gia đình bà việc anh Tràng có vợ kể ra cũng là “dịp may” hiếm có, nếu không có nạn đói thì chẳng ai chịu lấy Tràng. - Với người con dâu, bà không rẻ rúng mà tỏ ra gần gũi, chân tình. Chính những tình cảm ấy đã xoá đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Sống hơn nữa đời người, bà cụ hiểu rất rõ về cái nghèo, về cái nạn đói này. Nên khi nhìn người đàn bà khốn khổ, bà cụ Tứ tỏ ra rất hiểu hoàn cảnh của thị và cảm thông : “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con Trang 10 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi mình”. Và, xuất phát từ tấm lòng nhân hậu bà lão đã chấp nhận thị là dâu : “Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Bà cụ chấp nhận thị làm dâu trong nhà không chỉ xuất phát từ tình cảm nhân ái của con người. Mà với bà cụ Tứ, bà đón nhận người đàn bà kia như đón nhận “ân nhân” của gia đình bà. Bởi lẽ, con bà không thể nào có vợ, bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con chuyện vợ con, thị đã thay bà lo việc ấy còn gì. Cũng vì lẽ đó mà trong lời nói với nàng dâu, bà luôn tỏ ra một thái độ rất chân tình, thân mật : “Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật : - Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy”. Sáng hôm sau, trong bữa cơm bà tươi cười và đon đả múc cho con dâu những bát cháo… Chính những tình cảm ấy đã làm cho người con dâu xoá đi những mặc cảm để cùng hướng về một ngày mai tươi sáng. - Tuy có buồn lo, xót xa trước hoàn cảnh, nhưng lòng người mẹ nghèo khổ ấy vẫn bộc lộ một sự lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, luôn động viên và vun đắp hạnh phúc cho đôi trẻ. Bằng những triết lí giản dị từ kinh nghiệm sống của đời bà, người mẹ nông dân suốt đời kham khổ ấy đã cố gieo vào hai con những ý nghĩ tốt đẹp về tương lai : “Rồi ra may mà ông giời cho khá (…) ai giàu ba họ ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đày đoạ mẹ con bà, bà Tứ vẫn cố tạo ra không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể toàn chuyện vui, chuyện làm ăn, chăn nuôi... : “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà […] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”… - Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện sự thành công của tác giả trong nghệ thuật khắc hoạ hình tượng và miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật. Đó là tâm trạng phức tạp, đầy mâu thuẫn nhưng rất chân thực và tinh tế của một người mẹ nghèo trước tình cảnh khốn cùng của con mình. Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ là hiện thân của những nét đẹp truyền thống. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với cái mặt bủng beo, u tối, bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hình ảnh của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng yêu thương con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái ăm, lòng nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc. (3) Nhân vật anh Tràng - Nhân vật Tràng xuất hiện với một thân phận đáng thương. Tràng có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch : “Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà, quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Tràng mồ côi bố, sống với mẹ già, nhà nghèo và làm nghề kéo xe bò thuê, lại là dân ngụ cư. Dân ngụ cư là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư không có ruộng đất, chỉ đi làm thuê làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Với những đặc điểm như vậy, có thể nói Tràng có nguy cơ “ế vợ” rất cao. - Điều bất ngờ xảy ra với Tràng là bỗng dưng Tràng có được vợ. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui, để xua đi mỏi mệt : " Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì". Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cũng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái "cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu". Lần thứ hai gặp lại người đàn bà, trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Tràng động lòng thương. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ cho ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Vậy là, Tràng đã “nhặt” được vợ ! - Sự kiện bất ngờ “nhặt” được vợ đã làm thay đổi cuộc đời, số phận của Tràng. Có được vợ, Tràng như đã thành một con người khác với những biểu hiện tâm trạng như : lo lắng, ngạc nhiên, vui mừng, hạnh phúc và ý thức về bổn phận trách nhiệm đối với gia đình trong Tràng trỗi dậy. Khi nhặt vợ về, ban đầu Tràng cũng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết :"thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh tặc lưỡi một cái : “ Chậc, kệ !”. Chỉ một từ "kệ" thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình. Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức quan tâm chăm sóc thị : “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào Trang 11 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi dầu để thắp sáng”. Đó có vẻ như là sự cố gắng quá mức của Tràng nhưng cũng rất dễ hiểu vì Tràng sắp được làm chồng. Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ liều, nhưng cái liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Chuyện khó thể xảy ra nhưng đã xảy ra, việc Tràng có vợ cũng đã khiến cho Tràng không khỏi ngạc nhiên. Về đến nhà rồi mà hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải là chuyện có thật. Đến sáng hôm sau mà hắn vẫn còn ngạc nhiên : “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Sao không ngạc nhiên ? Nếu không có nạn đói này thì chắc chuyện hắn có vợ sẽ không bao giờ xảy ra. Hắn hiểu thế nên mới ngạc nhiên. Tất nhiên khi có được vợ, Tràng cũng tỏ ra thích chí và tự đắc (có tới khoảng 20 lần nhà văn miêu tả gương mặt Tràng biểu lộ niềm vui khi có vợ). Trên đường về, “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”… Tự đắc cũng phải, vì Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Nên bây giờ có vợ, với hắn có thể xem đây là một “kì tích hiển hách” ! Sáng hôm sau, Tràng thay đổi rất nhiều. Tràng thật sự đã khác với Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man : “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng". Từ đó, Tràng nhận ra trách nhiệm của mình với gia đình, cái mà trước đây Tràng chưa bao giờ nghĩ tới : “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này…”. Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... - Qua sự biến đổi tâm trạng của nhân vật Tràng, ta thấy vẻ đẹp tâm hồn, tính cách nhân vật : tình thương, niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai, đồng thời thấy được tình cảm nhân đạo của nhà văn dành cho người lao động nghèo khổ. Thông qua tình huống truyện độc đáo – tình huống Tràng nhặt vợ, bút pháp xây dựng hình tượng nhân vật và nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật chân thực, sinh động, tinh tế nhà văn đã tạo nên những trang văn đặc sắc về người nông dân nghèo. (4) Nhân vật người vợ nhặt - Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện với một thân phận thật bi thương. Người vợ nhặt là con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, là “thị”, là “người đàn bà”,… Quá khứ mà chị ta có cũng chỉ là một lần chòng ghẹo với Tràng “thị liếc mắt cười tít”. Chân dung chị ta hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn. Đó là hình ảnh một người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, còn quần áo thì rách như tổ đĩa. Chị ta hiện ra trước mặt mọi người với điệu bộ còn xa mới gọi là dịu dàng. Đàn bà gì mà “ sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”, “đứng cong cớn trước mặt hắn”… Đã thế, chị ta thuộc loại ăn nói chỏng lỏn, ghê gớm, mở miệng thì “Điêu ! Người thế mà điêu”, “bỏ bố”… Và trên hết, chị ta là một người đang đói. Đói đến mức quên cả ý tứ, sĩ diện tối thiểu của một người con gái : “thị sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quét ngang miệng, thở : - Hà, ngon !...”. Cũng chính vì cái đói, thị cần một nơi nương tựa. Thế là thị chấp nhận theo làm vợ Tràng. Nói tóm lại, hoàn cảnh của cái đói đã “bóp méo” hình hài, nhân cách của một người đàn bà đến đáng thương, tội nghiệp. Chiều sâu tư tưởng của tác phẩm là thông qua những số phận bi thương, tác Trang 12 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi giả thể hiện sự đồng cảm đối với họ, đồng thời tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn Thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. - Tuy nhiên, không dừng lại ở đó. Nhà văn còn tập trung miêu tả những thay đổi, nói đúng hơn là sự “phục hồi” nhân cách tốt đẹp của nhân vật này từ khi thị về làm vợ Tràng. Thực ra, tất cả những nét đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài mà chị ta phô ra để chóng chọi với đời. Còn con người thật của chị ta, khi đi cới Tràng mới hiện lên đầy đủ. Trên đường về cùng Tràng, thị đã bắt đầu biết e thẹn : “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, “đưa tay lên xốc xốc lại tà áo”. Khi biết mọi người đang nhìn mình, “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà, “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà”, “ngồi móm xuống mép giường”, cái thế ngồi rất rụt rè và chông chênh. Đó cũng chính là cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối của lòng người khi có một quyết định hệ trọng. Nhưng có lẽ nét đẹp của người đàn bà ấy, thực sự hiện ra rõ nhất là sau buổi gặp gỡ với bà cụ Tứ và buổi sáng hôm sau của cuộc đời làm vợ. Sáng sớm ra, chị đã thức dậy rất sớm cùng người mẹ chồng thu dọn, quét tước nhà cửa. Rồi chị ngoan ngoãn vào trong bếp dọn dọn cơm. Trong thấy chị lúc này, Tràng không khỏi cảm nhận về thị “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. Và bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Một chi tiết nữa khiến người đọc không thể quên ở người vợ nhặt là chi tiết chị bưng lấy bát chè cám mà người mẹ chồng đưa cho. Hai con mắt chị “tối lại” nhưng ngay lúc đó chị “điềm nhiên và vào miệng”. Đây là một chi tiết đắt giá. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già nua kia. Hoá ra người vợ nhặt vô danh ấy lại không vô nghĩa. Chị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết. - Quyết định theo làm vợ anh Tràng và chí thú thay đổi, chứng tỏ, nhân vật người vợ nhặt là một người khao khát yêu thương và mái ấm gia đình, đồng thời còn là người chăm chỉ, chịu khó, có một niềm tin, niềm hi vọng vào ngày mai tươi sáng. Tình người và những khao khát nhân bản đã làm nên những điều kì diệu ở hình tượng nhân vật này. Chiều sâu tư tưởng nhân đạo là ở chỗ nhà văn phát hiện ra những vẻ đẹp thực của con người này. - Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật sắc sảo tác giả đã tạo nên một nhân vật gây ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc, đồng thời tạo cho tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. (5) Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo - Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc thể hiện rất rõ giá trị hiện thực. + Thứ nhất, bức tranh hiện thực của Vợ nhặt chính là bức tranh nạn đói khủng khiếp năm 1945 được tái hiện cụ thể. Cái đói đã tràn xuống, làm cho xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương. Cái đói hoành hành làm cho nhiều người “xanh xám nhưng những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Cảnh tang tóc bao trùm lên xóm : “người chết như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. + Thứ hai, bức tranh hiện thực của tác phẩm là tình cảnh đau khổ, nỗi căm hờn và phản kháng của nhân dân trước nạn đói ấy. Cái đói đã làm cho con người bị biến dạng cả nhân hình và tính cách. Một cô gái rách rưới, áo quần tả tơi như tổ đĩa, mặt lười cày, chỉ qua mấy câu đùa cợt, sẵn sàng sà xuống ăn một chập bồn bát bánh đúc, rồi sẵn sàng theo một người đàn ông xa lạ, hòng thoát khỏi cảnh chết đói. Còn anh Tràng thì túng thế đành phải đi “nhặt” vợ… Hình ảnh thê lương của nạn đói năm 1945 đã tố cáo tội ác tày trời của bọn phát xít Nhật. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào vòng cùng khổ, chết chóc. Tâm trạng của quần chúng trước cơn bão tố của lịch sử được bộc lộ. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”. Trong đoạn cuối truyện, khi người con dâu nghe tiếng trống thúc thuế thì bảo : “ Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. - Vợ nhặt của Kim Lân chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, được thể hiện ở nhiều phương diện : + Thứ nhất, Vợ nhặt là niềm đồng cảm, xót xa, day dứt của một cây bút gắn bó thực sự với nông dân. Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn đói tràn tới . Anh cu Tràng, một người vô tư, vui tính, được trẻ con yêu mến mà nay “đi từng bước mệt mỏi”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”. Các lều chợ đầy những người đói bồng bế , dắt díu nhau “xanh Trang 13 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi xám như những bóng ma”, sáng nào cũng thấy ba bốn cái xác người chết đói nằm ngổn ngang. Làng xóm xơ xác, đêm về không nhà nào có ánh đèn, lửa. Hình như không ai tin mình có thể sống qua nạn đói. Với cái nhìn nhân đạo, nhà văn nhìn thấy khát vọng sống còn bức thiết của cô gái. Ông cũng thấy niềm khát khao có được vợ của anh cu Tràng. Anh cũng liều lĩnh tặc lưỡi: “Kệ”, cứ đón cô ta về đã. Trong hoàn cảnh đói khủng khiếp ấy, khát vọng của họ rất đáng cảm thông, chia sẻ. + Thứ hai, nhà văn đã phát hiện và miêu tả chân thực, sinh động, đồng thời trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo khổ trong cảnh tàn khốc của nạn đói. Lòng yêu thương, trân trọng của tác giả đối với những người bất hạnh thể hiện ở cảnh dắt díu nhau về làng của cả hai người. Nhà văn không hề có chút rẻ rúng nào khi miêu tả cuộc về làng của họ. Với anh Tràng, bằng ngòi bút tươi vui, dí dỏm, tinh tế tác giả đã khắc họa mọi cảm nhận hạnh phúc của anh Tràng. Hơn hai mươi lần truyện ngắn nhắc đến nụ cười của Tràng với nhiều sắc thái khác nhau. Đi bên thị, anh “quên hết những cảnh sống e chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ…”. Và kể từ khi “nhặt” được vợ, anh Tràng thay đổi rất nhiều. Nhất là buổi sáng hôm sau, “hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng ” và “hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Như vậy, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng đã làm Tràng quên đi nỗi sợ hãi và quên đi cái đói. Về người vợ nhặt cũng vậy, cô không hề có một chút mặc cảm thân phận “bị nhặt”. Bên cạnh dáng vẻ thẹn thùng của nàng dâu mới về nhà chồng, cô còn biết chăm chỉ, chịu khó, biết tạo niềm vui, đồng thời có một niềm tin và khát khao hạnh phúc gia đình. Sáng sớm ra, chị đã thức dậy rất sớm cùng người mẹ chồng thu dọn, quét tước nhà cửa. Rồi chị ngoan ngoãn vào trong bếp dọn dọn cơm. Trong thấy chị lúc này, Tràng không khỏi cảm nhận về thị “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. Và bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà cụ Tứ, bà mẹ trước nạn đói cũng thất vọng và hoài nghi như mọi người “biết rồi chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không”, bà cũng thở dài . Bà mẹ nhìn con dâu lòng đầy thương xót, không chút coi thường. Bà nghĩ đến việc phải có “dăm ba mâm cho phải lẽ”, chứng tỏ trong lòng bà không vướng ý nghĩ “nhặt không người đàn bà” cho con mình . Đó là tình cảm nhân đạo có tác dụng nâng cao phẩm giá con người. Đó là tình thương yêu, đùm bọc con người của bà. Hơn nữa, từ khi có thị trong nhà, bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này…”. . Bà bộc lộ một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Bà khuyên bảo hai con chí thú làm ăn để “may ra mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?...” và cùng hai con tính chuyện tương lai : “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà […] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”… + Thứ ba, nhà văn đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói làm cho người dân rơi vào tình cảnh khốn cùng. Ngòi bút của Kim Lân không trược tiếp miêu tả những tội ác của bọn phát xít. Hình ảnh thê lương của nạn đói năm 1945 đã tố cáo tội ác tày trời của bọn phát xít Nhật. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu : “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”. + Ngoài ra, thông qua Vợ nhặt, tác giả đã hướng những con người khốn khổ đến con đường giải thoát cuộc đời mình, hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho họ: Người ta cướp thóc của Nhật chia cho dân nghèo. “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”… * KẾT LUẬN Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: Ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Câu hỏi: - Ý nghĩa nhan đề? - Tình huống truyện? - Phân tích một trong các nhân vật? - Giá trị hiện thực và nhân đạo? Trang 14 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi 4. Truyện ngắn Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành I . TIỂU DẪN 1. Nhà văn Nguyễn Trung Thành - Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932 ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. - Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo Quân đội nhân dân ở Liên khu V. - Sau Hiệp định Giơnevơ, Nguyên Ngọc tập kết ra Bắc và sáng tác nhiều tác phẩm phục vụ công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc. - Năm 1952, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên. - Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, ông tiếp tục cống hiến cho phong trào văn nghệ nước nhà. Ông từng là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. - Tác phẩm tiêu biểu : tiểu thuyết Đất nước đứng lên (1956), tập truyện ngắn Rẻo cao (1962), tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969),… 2. Truyện ngắn Rừng xà nu a) Hoàn cảnh ra đời - Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến đánh ác liệt cả ra miền Bắc. Các nhà văn lúc đó muốn viết “hịch thời đánh Mĩ”. Rừng xà nu ra đời đúng vào thời điểm cả nước sục sôi đánh Mĩ, hoàn thành ở khu căn cứ chiến trường Trung Trung Bộ (1965). - Tác phẩm ra mắt lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ số 2/1965, sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. b) Tóm tắt truyện Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn trong “tầm đại bác” của giặc đang “ưỡn tấm ngực lớn” ra “che chở cho làng” Xô Man. Tiếp theo là câu chuyện sau ba năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng, nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn, đã đưa Tnú vào làng. Đêm hôm đó, tại nhà cụ Mết, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú cũng là một đoạn đời của làng Xô Man trong kháng chiến… Truyện kể, hồi đó Mĩ – Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt, Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ của Đảng. Trong một lần đi liên lạc cho cách mạng, Tnú đã bị giặc bắt. Ba năm sau, anh vượt ngục trở về làng. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Thực hiện lời dặn của anh Quyết trước lúc hi sinh, Tnú và dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin, giặc kéo về làng càng quét, khủng bố. Chúng bắt vợ con Tnú, tra tấn tàn bạo cho đến chết ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, Tnú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay. Trước cảnh tượng ấy, cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó, Tnú tạm biệt làng, gia nhập lực lượng quân giải phóng và chiến đấu dũng cảm, giết chết kẻ thù bằng chính đôi bàn tay tàn tật. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. c) Ý nghĩa nhan đề - “Rừng xà nu”mang nghĩa tả thực : chỉ loại cây họ thông, nhựa và gỗ đều có giá trị, mọc rất nhiều ở Kon Tum. Đây là loại cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên. - “Rừng xà nu” mang nghĩa tượng trưng : vừa có ý nghĩa khái quát vừa có ý nghĩa gợi mở về những đau thương và sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên (làng Xô Man). - “Rừng xà nu” còn là không gian nghệ thuật đậm hương vị sử thi của câu chuyện, chứa đựng cảm xúc nhà văn và linh hồn tư tưởng tác phẩm… II. NỘI DUNG VĂN BẢN. 1. Hình tượng cây xà nu - Cây xà nu xuất hiện trong toàn bộ truyện ngắn Rừng xà nu. Đây là một hình tượng trung tâm chứa đựng ý nghĩa sâu xa của tác phẩm. Nó không chỉ là loại cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên mà là sự phối hợp lại của nó thành những cánh rừng xà nu còn tạo nên một không gian nghệ thuật đậm hương vị sử thi của câu chuyện. Trang 15 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi - Cây xà nu và cả những cánh rừng xà nu nữa là loại cây đặc trưng cho mảnh đất và con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến vì nhiều lí do… + Thứ nhất, cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người Tây Nguyên. Trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm Rừng xà nu, cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung như tự ngàn đời qua. Lửa xà nu “cháy giần giật” trong mỗi bếp, trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp dân làng ; khói xà nu xông bảng nứa để Mai và Tnú học chữ ; khi Tnú trở về đơn vị, “cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần con nước lớn”... Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Cây xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man. Ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Ngày Tnú bị bắt, giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu, khi ấy ngọn lửa xà nu là chứng nhân cho những giai đoạn đau thương của dân làng mà tội ác là bọn thằng Dục. cũng chính từ cảnh tượng đau thương ấy, dân làng Xô Man đã nổi dậy để rồi “đống lửa xà nu lớn giữa nhà” soi rõ “xác mười tên lính giặc ngổn ngang”… Cây xà nu gắn bó với cuộc sống của người dân làng Xô Man đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ. Ấy là khi Tnú cảm nhận về cụ Mết, ngực cụ “căng như một cây xà nu lớn”, cây xà nu cổ thụ. Và trong câu chuyện kể với Tnú, cụ Mết cũng nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào : “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này. + Thứ hai, cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. Mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được giới thiệu như một biểu tượng cho con người. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc […] Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn…”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cây xà nu phải gánh chịu những thương tích do đạn đại bác của kẻ thù : “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương…Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão…”. Đó là những hình ảnh tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu : anh Xút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu, mẹ con Mai bị giết thảm hại… Cây xà nu là một loài cây có đặc tính ham ánh sáng và khí trời “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…”, cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Cây xà nu cũng là một loại cây có khả năng sinh sôi mãnh liệt: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên”, “Cây mẹ ngã, cây con mọc lên”… Hình ảnh này gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên, như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng… đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Đặc biệt hơn, cây xà nu có sức sống và sự tồn tại kì diệu trước những hành động huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng,[…] Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” và đứng trên đồi nhìn ra xa, “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”… Đó là những hình ảnh tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù. Như vậy, từ đầu đến cuối truyện, cây xà nu luôn luôn được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người. Xét cho cùng thì xà nu chính là hình ảnh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên anh dũng, đau thương, kiên cường, bất khuất. - Xây dựng hình ảnh cây xà nu, tác giả đã vận dụng linh hoạt nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ và chọn lọc những chi tiết tiêu biểu, mang tính tượng trưng cao kết hợp với ngòi bút đậm chất sử Trang 16 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi thi… đã tạo sự sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống. 2. Hình tượng nhân vật Tnú - Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện Rừng xà nu là Tnú. Tnú là người con của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng . Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ dân làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu : “…nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Như vậy, nhân vật Tnú là con người tiêu biểu, điển hình cho con người dân làng Xô Man nói riêng và người Tây Nguyên, nói rộng ra là cho cả dân tộc Việt Nam nói chung. - Tnú là người có tính cách gan góc, dũng cảm, mưu trí. Từ nhỏ, Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Từ nhỏ, dù biết giặc giết hại bà Nhan, anh Xút dã man nhưng Tnú không hề sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…”, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng” và khi đi Tnú không đi đường mòn mà cứ “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Bởi theo Tnú, những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến. Bị giặc phục kích, họng súng “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nuốt lá thư bí mật vào bụng. Bị Tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu, anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. Sau câu trả lời ấy, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém của thằng giặc. - Tnú là người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Khi đã tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên Tnú mới về thăm làng. Băng rừng lội suối vất vả để về làng, nhưng Tnú chỉ ở nhà một đêm đúng như quy định trong giấy phép. Tính kỉ luật cao của Tnú trong mối quan hệ với cách mạng đã biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối : Khi bị đốt mười đầu ngón tay, “Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi” nhưng Tnú không kêu than nửa lời vì anh luôn tâm niệm lời anh quyết dạy “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Lòng trung thành của Tnú cũng giống như cụ Mết trở thành niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng : “Đảng còn, núi nước này còn”. Mang theo lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, Tnú lên đường chiến đấu với niềm tin vững chắc vào ngày thắng lợi. - Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù. Tnú mồ côi từ nhỏ, được dân làng che chở, đùm bọc nên anh sống rất nghĩa tình mới mọi người. Với vợ với con, anh là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Giặt bắt vợ con Tnú tra tấn dã man hòng lung lạc tinh thần anh. Chứng kiến cảnh ấy, Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Với dân làng, Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng : anh gắn bó với mảnh đất quê hương, yêu tha thiết những cánh rừng xà nu và người dân Strá, anh luôn luôn cố gắng phấn đấu để xứng đáng với người dân làng Xô Man, xứng đáng là tấm gương để cụ Mết giáo dục thế hệ trẻ. Với thằng giặc, lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên, anh mang trong tim ba mối thù. Thứ nhất là thù của bản thân : lưng Tnú dọc ngang vết dao chém, mười đầu ngón tay bị đốt là chứng tích tội ác của giặc mà Tnú sẽ mang theo suốt đời. Thứ hai là thù của gia đình : vợ con anh chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc. Thứ ba là thù của buôn làng : Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát hại. Tình yêu thương vợ con, dân làng và lòng căm thù giặc sâu sắc đã thôi thúc tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người chiến sĩ, dũng sĩ phi thường của làng Xô Man thời kháng chiến chống Mĩ. - Hình tượng Tnú còn điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”. Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ chân lí. Cũng như bà Nhan, anh Xút, Tnú với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân. Cụ Mết là người rất hiểu điều này, nên khi kể chuyện về Tnú cụ nhắc đi nhắc lại câu nói : “Tnú không cứu được vợ con […] trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng”. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên. Như vậy, cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Trang 17 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi Tóm lại, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật anh hùng với cảm hứng ngợi ca, tự hào, giọng văn trang trọng, hùng tráng, say mê. Tnú là hình tượng giàu tính nghệ thuật, mang ý nghĩa thẩm mĩ đại diện cho số phận và con đường đấu tranh của các dân tộc Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. 3. Tính sử thi - Tính sử thi của Rừng xà nu biểu hiện trước hết ở chỗ, chủ đề mà tác phẩm đặt ra là vấn đề có ý nghĩa sinh tử đối với cách mạng miền Nam lúc đó: phải dùng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng. Câu chuyện có thể chia thành hai thời đoạn, thời đoạn trước và sau khi dân làng Xô Man cầm vũ khí chiến đấu. Khi chưa cầm vũ khí chiến đấu, dân làng Xô Man phải gánh chịu sự đàn áp và tàn sát dã man của giặc Mĩ. Cả cánh rừng xà nu đều nằm trong tầm đại bác của giặc, “Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần […] Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương…”. Biết được dân làng nuôi giấu cán bộ, thằng Mĩ – Diệm ra sức càn quét, truy sát ráo riết : “Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chúng bắt Tnú, tra tấn anh dã man, đốt mười đầu ngón tay của anh, chúng giết chết mẹ con của Mai bằng “cây sắt dài”… Nhưng khi cầm vũ khí đứng lên, dân làng Xô Man đã giải cứu được Tnú, giải cứu dân làng ra khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Ngày dân làng nổi dậy, “Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa…”. Ngày ấy, cụ Mết cất tiếng vang vang như một mệnh lệnh : “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên…”. “Bắt đầu” là bắt đầu cho chân lí đã được ngác ngộ : “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”… Từ những tình tiết đó, Rừng xà nu cho thấy những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Câu chuyện về con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của Tnú cũng là câu chuyện về con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung, suy rộng ra cũng là của cả miền Nam lúc đó. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới. - Phương diện thứ hai biểu hiện tính sử thi của truyện là cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật chính. Những nhân vật trong tác phẩm đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính, như cụ Mết, Quyết, Tnú, Mai, Dít, Heng… Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : yêu nước, yêu đồng bào, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng,… Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối. - Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở Rừng xà nu là bức tranh thiên nhiên được miêu tả tạo nên bối cảnh hùng vĩ, hoành tráng cho câu chuyện và cho sự xuất hiện của con người. Ở truyện ngắn Rừng xà nu, thiên nhiên và các sự kiện, các nhân vật anh hùng được miêu tả từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Đối với thiên nhiên, nhà văn tập trung miêu tả làm nổi bật lên tính biểu tượng của nó. Chẳng hạn, hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương…” hay “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời…” đều là hình ảnh tượng trưng cho những đau thương mất mát và tinh thần quật khởi hào hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Đối với con người, thì các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Ví như, tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng như trong Trang 18 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra đều là kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí : “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung động" như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập. - Phương diện thứ tư của tính sử thi ở Rừng xà nu là cách kể chuyện đậm tính sử thi của nhà văn. Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quay quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm. Cách trần thuật này mang dáng dấp của lối kể “khan” của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại về những người anh hùng Đăm Săn, Xinh Nhã,… - Ngoài ra, giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, có sức ngân vang cũng góp phần tạo nên tính sử thi cho Rừng xà nu. Giọng kể của cụ Mết trang trọng, hùng hồn, uy nghiêm, như muốn truyền lại cho các thế hệ con cháu những trang sử vẻ vang của cộng đồng : “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe”. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng. III. KẾT LUẬN Rừng xà nu là một thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hoá Tây Nguyên. Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại : Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mõi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tán ác. Câu hỏi: 1. Phân tích hình tưởng cây xà nu, rừng xà nu. 2. Phân tích hình tượng nhân vật Tnú. 3. Làm rõ tính sử thi của truyện. Trang 19 Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12 Một số tác phẩm văn xuôi THUỐC LỖ TẤN 1 – Nhà văn Lỗ Tấn - Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên khai sinh là Chu Chương Thọ, là nhà văn cách mạng Trung Quốc có ảnh hưởng lớn trên văn đàn Trung Quốc thế kỉ XX. Quê ông ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang. - Năm 13 tuổi, chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc. Một lần xem phim, ông thấy những người Trung Quốc khoẻ mạnh, hăm hở xem quân Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho quân Nga (thời kì chiến tranh Nga – Nhật, 1901 – 1905). Ông nhận ra rằng : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ. - Quan điểm sáng tác : dùng ngòi bút của mình phanh phui các “căn bệnh tinh thần” của quốc dân (sự mê muội tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”) và lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. - Tác phẩm tiêu biểu : các tập truyện ngắn Gào thét, Bàng hoàng,… ; tạp văn Nấm mồ, Cỏ dại… 2 – Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Thuốc Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Trung Quốc bị các nước đế quốc (Anh, Pháp, Đức, Nhật…) xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến nửa thuộc địa, thế nhưng nhân dân cam chịu nhục “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” – căn bệnh đớn hèn, cản trở con đường giải phóng dân tộc. Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Nói về căn bệnh “đớn hèn” của dân tộc Trung Hoa do nhân dân thì chìm đắm trong mê muội, lạc hậu mà những người cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với nhân dân, nhà văn muốn cảnh báo : Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu dân tộc. 3 – Tóm tắt truyện Một đêm thu gần về sáng, theo lời bác Cả Khang, lão Hoa trở dậy đi đến pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh cho tiểu Thuyên – con trai lão, đang bị mắc bệnh lao. Thuốc là cái bánh bao tẩm máu người còn “nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Về nhà, lão Hoa cùng vợ chuẩn bị chu đáo rồi cho Thuyên uống thuốc (ăn cái bánh bao) với niềm tin rằng con sẽ khỏi bệnh : “Ăn đi con ! Sẽ khỏi ngay !”. Trời cũng đã sáng, quán trà nhà lão Hoa bắt đầu đông khách. Những người khách trong quán trà bàn tán về thứ thuốc mà lão hoa đã mua cho Thuyên ăn, ai cũng cam đoan chắc chắn là Thuyên sẽ khỏi bệnh. Họ còn bàn về Hạ Du, người bị chém ở pháp trường và máu tẩm vào bánh bao mà Thuyên đã ăn. Tất cả mọi người đều chê bai và chửi rủa Hạ Du, cho rằng Hạ Du làm cách mạng là “làm giặc”, là “điên”… Một buổi sáng mùa xuân, trong tiết thanh minh, tại nghĩa địa, mẹ của Thuyên và mẹ của Hạ Du đều đến thăm mộ con. Hai người rất ngạc nhiên, băn khoăn tự hỏi “Thế này là thế nào ?” khi nhìn thấy một vòng hoa đặt trên mộ người cách mạng. Bà mẹ Thuyên đã bước qua con đường mòn cố hữu ngăn cách giữa nghĩa địa của người chết chém nghèo và nghĩa địa của người chết chém hoặc chết tù để sang an ủi mẹ Hạ Du. 4 – Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” Thuốc là một nhan đề đa nghĩa : - Nghĩa đen : Đó là thứ thuốc chữa bệnh lao của những người Trung Quốc lạc hậu, u mê. Một cách chữa bệnh đầy mê tín – lấy bánh bao tẩm máu người để chữa bệnh lao. Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan