Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Địa lý Nội dung báo cáo thực địa...

Tài liệu Nội dung báo cáo thực địa

.DOC
51
101
81

Mô tả:

Nội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địaNội dung báo cáo thực địa
LỜI NÓI ĐẦU Có lẽ mỗi người chúng ta ai ai cũng muốn được đi hết mọi miền của Tổ quốc. Được tìm hiểu, tiếp thu những điều mới mẻ của những vùng đất khác nhau. Để từ đó có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc và thực tế hơn về đất nước mình đang sống, học tập và làm việc. Chúng tôi, những sinh viên khoa Địa lý của trường ĐHSP Đà Nẵng ngay từ khi bước vào học năm 1 đã được dạy những kiến thức về địa lý của thế giới cũng như Việt Nam. Và đặc biệt khi được học về học phần : “Địa lý tự nhiên Việt Nam” mỗi chúng tôi ai nấy đều được trang bị cho mình nhiều kiến thức là hành trang cho sự nghiệp sau này của mỗi người. Hơn thế nữa chúng tôi còn rất may mắn khi được học tiếp học phần: “Thực địa Địa lý tự nhiên Việt Nam”. Chúng tôi đã được tổ chức một chuyến đi thăm quan về tự nhiên của các tỉnh phía Bắc. Đây là cơ hội để mỗi chúng tôi được tiếp cận thực tế những kiến thức mà mình đã được học trên sách vở. Được so sánh thực tế sự giống và khác nhau về cảnh quan, thổ nhưỡng, khí hậu, sinh vật … của các tỉnh miền Bắc. Đoàn thực tế của chúng tôi năm nay gồm 53 thành viên của lớp 08CDL (1 bạn vì lí do sức khỏe đã không thể tiếp tục cuộc hành trình ) ,trong đó có 40 bạn nữ và 13 bạn nam. Về công tác quản lý và hướng dẫn chuyên môn, chúng tôi đã được sự dẫn dắt của 2 giáo viên trong khoa Địa lý, đó là: Cô Đậu Thị Hòa – Trưởng đoàn Thầy Nguyễn Văn Nam – Phó đoàn Ngoài ra, đi cùng với đoàn chúng tôi còn có bác: Nguyễn Văn Chương. Theo lịch trình, chuyến thực địa tự nhiên miền Bắc của chúng tôi bắt đầu xuất phát từ cổng trường ĐHSP Đà Nẵng và điểm đến xa nhất là “xứ sở sương mù” – SaPa. Đúng 4h20’sáng ngày 30-3-2010, tất cả thành viên trong đoàn của chúng tôi đã có mặt đầy đủ. Chuyến đi thực tế tự nhiên kéo dài 11 ngày từ ngày 30-3-2010 đến ngày 9-4-2010 của chúng tôi được bắt đầu. Qua chuyến đi này, chúng tôi đã được quan sát tận mắt, được học hỏi rất nhiều những kiến thức mới lạ không chỉ về địa lý, mà còn cả văn hóa, xã hội, cũng như phong tục tập quán đặc trưng của mỗi miền quê. Chúng tôi, đã được đến thăm quan nhiều địa danh nổi tiếng, nhiều địa điểm du lịch mà chúng tôi đã được nghe rất nhiều từ trước.Từ đó đã thêm yêu hơn, gắn bó hơn đối với đất nước, quê hương Việt Nam của chúng tôi. Đây cũng là một chuyến đi mãi không thể quên của mỗi thành viên của lớp 08CDL, bởi chuyến đi đã để lại rất nhiều điều bổ ích và lí thú với những kỉ niệm đẹp đẽ về tình cô trò và bạn bè. Chuyến đi của chúng tôi đã kết thúc hết sức tốt đẹp. Tất cả các thành viên trong đoàn hầu hết đều nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, sức khỏe của mọi người đều được đảm bảo. Để đạt được những thành công này, mỗi thành viên trong lớp 08CDL của chúng tôi đều không quên công lao to lớn của các thầy cô trong đoàn. Thầy cô đã không chỉ cung cấp, trang bị cho chúng tôi những kiến thức cần thiết, mà còn hướng dẫn chúng tôi thiết lập kỷ luật cho toàn đoàn, không chỉ vậy còn luôn quan tâm đến sức khỏe cũng như đời sống và sinh hoạt của từng thành viên trong đoàn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Địa lý, Ban Giám Hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi có một chuyến thực địa đầy thành công và bổ ích này. Đà Nẵng ngày, 15/4/2010 Sinh viên: Đỗ Thị Nga NỘI DUNG BÁO CÁO THỰC ĐỊA Phần 1: Khái quát tuyến thực địa Chuyến thực địa tự nhiên miền Bắc của lớp 08CDL kéo dài 11 ngày, từ ngày 30/3/2010 đến ngày 9/4/2010, bao gồm những tuyến thực địa chính sau: 1. Tuyến Đà Nẵng – Ninh Bình : (Ngày 30, 31/03) - Ngiên cứu: + Ngày 30/3/2010:  Địa hình, sinh vật, thổ nhưỡng, đặc điểm khí hậu khi qua đèo Hải Vân.  Quan sát các dạng địa hình, sinh vật, thổ nhưỡng, khí hậu của Đồng bằng Bình - Trị - Thiên.  Quan sát các dạng địa hình, sinh vật, thổ nhưỡng, khí hậu của Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh + Ngày 31/3/2010: Quan sát địa hình đá vôi trong tỉnh Ninh Bình, địa hình đá vôi ở Tam Cốc. 2. Điểm Cúc Phương: (Ngày 31/3 và 1/4) - Nghiên cứu: + Tính đa dạng sinh học của rừng nhiệt đới phát triển trên núi đá vôi. + Địa hình thổ nhưỡng, kiểu khí hậu của quá trình Kartxơ. + Sự bảo tồn thiên nhiên ở rừng Cúc Phương: Vườn thực vật, Khu cứu hộ Linh Trưởng. 3. Tuyến Ninh Bình – Quảng Ninh: (Ngày 1, 2/4) - Ngiên cứu: + Quan sát cạnh đáy tam giác châu của Đồng bằng Sông Hồng: Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. + Quan sát hệ thống sông ở hạ lưu, đại địa hình trong đê và ngoài đê. + Thổ nhưỡng, cơ cấu cây trồng. 4. Điểm Vịnh Hạ Long: (Ngày 2/4 ) + Địa hình Kartxơ, quá trình địa chất, hang động Kartxơ. + Sinh vật, thủy văn. 5. Tuyến Quảng Ninh – Phú Thọ: ( Ngày 3/4) - Nghiên cứu: + Bậc thềm phù sa cổ, dạng địa hình Bát úp, vùng đồi trung du + Quan sát các đá hình thành, đặc điểm thổ nhưỡng của vùng đồi trung du chuyển tiếp. + Hệ động thực vật. 6. Điểm Phú Thọ: (Ngày 3 /4) - Ngiên cứu: + Địa chất, dạng địa hình đồi bát úp. + Thực trạng sử dụng đất. 7. Tuyến Phú Thọ - Lào Cai: (Ngày 4, 5 /4) - Nghiên cứu: + Sự phân tầng của địa hình Việt Nam + Đặc điểm thổ nhưỡng, sinh vật. 8. Điểm Sa Pa: (Ngày 4, 5 /4) - Nghiên cứu: + Địa chất, địa hình, sinh vật, thổ nhưỡng + Khí hậu : Á nhiệt đới ôn đới núi cao ( Sương, độ ẩm không khí) + Thực trạng sử dụng đất và bảo vệ rừng. + Biện pháp 9. Tuyến Lào Cai – Hà Nội: ( Ngày 6, 7 /4) - Nghiên cứu: + Chuyển tiếp giữa dạng địa hình miền núi trung du sang một miền Đồng bằng rộng lớn. + Quan sát hạ lưu của hệ thống sông Hồng: nhiều hệ thống bãi bồi. + Quan sát hệ thống đê độc đáo của Đồng bằng sông Hồng. 10. Kết luận chung Phần 2: Nội dung chính 1. Tuyến Đà Nẵng – Ninh Bình (Ngày 30, 31/03): Rạng sáng ngày 30/3/2010, vào lúc 4h30’khi ngoài trời vẫn còn bao phủ một màu đen thì chuyến đi thực tế tự nhiên miền Bắc của chúng tôi được khởi hành. Cả lớp chúng tôi gồm 54 thành viên, ai nấy đều háo hức với chuyến đi này, vì đây không chỉ là cơ hội học tập, mở mang kiến thức, mà còn là quãng thời gian giao lưu, vui chơi đầy bổ ích với mỗi chúng tôi. Do đã được chuẩn bị từ trước, nên các ban kỷ luật, đời sống đã ổn định chỗ ngồi của cả đoàn trên xe, chuẩn bị cho một chuyến đi dài ngày. Lúc này, cô Hòa cùng với ban đời sống, văn nghệ đã tạo không khí vui vẻ, phấn khởi cho cả đoàn bằng những bài hát tập thể sôi động. Mọi người như quên dần những mệt mỏi trên xe. Xe của chúng tôi tiếp tục lăn bánh tiến về miền Bắc. Ở đây, gió mang hơi ẩm từ biển Đông thổi vào nhưng gặp dãy núi Trường Sơn nên không mang hơi nước qua sườn Tây được. Khí hậu rõ rệt nhất là vào mùa đông khi gió mùa đông bắc thổi vào gặp dãy Trường Sơn thì yếu hẳn đi cả về tần suất, cường độ và thời gian hoạt động. Khi trời càng lúc càng sáng rõ hơn, trên xe chúng tôi còn quan sát được những vách đá lộ ra ở hai bên đường. Đa số là các đá Granit được hình thành trong giai đoạn Hecxini và được nâng lên trong chu kỳ kiến tạo sau này. Theo tai liệu thì trước thời kỳ Pháp thuộc đây là khu rừng nguyên sinh với nhiều cây họ Dầu. Nhưng hiện nay rừng nguyên sinh hầu như không còn và thay vào đó là các khu rừng thứ sinh và rừng nhân tạo. Địa hình bị phá hủy tạo thành Savan cây bụi. Hình ảnh đèo Hải Vân hùng vĩ đang dần hiện ra trước mắt chúng tôi Theo lý thuyết mà chúng tôi được học thì đây là ranh giới khí hậu quan trọng nhất của cả nước, ranh giới khí hậu giữa Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, cũng là ranh giới giữa Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế. Đến đây do địa hình cao sừng sững như một bức tường thành mà hiện hữu ở đây là dãy Bạch Mã, làm cho khí hậu ở 2 bên dãy núi này gần như khác nhau hoàn toàn: ... Hải Vân đèo lớn vừa qua, Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè Quả đúng như vậy, sự khác nhau về khí hậu ở hai bên đèo Hải Vân, hết sức rõ rệt và rất dễ nhận thấy. Khi sang đến bên kia hầm Hải Vân, địa phận của tỉnh Thừa Thiên Huế chúng tôi cảm nhận không khí dường như lạnh hơn , ở đây mây mù phủ trắng trời, trắng đất khác xa so với những ngày bầu trời cao, xanh, nắng gắt ở Đà Nẵng. Chúng tôi đã đến với Thừa Thiên Huế, một tỉnh nằm trên 1 dải đất hẹp, với chiều dài tính theo dường quốc lộ khoảng 127km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình chuyển tiếp từ rừng núi, gò đồi, đồng bằng duyên hải, đầm, phá và biển tập trung trong một không gian hẹp, thấp dần từ Tây sang Đông, phía Tây là dãy núi cao, phía giữa là đồi núi thấp và phía Đông là dải đồng bằng nhỏ hẹp. Chúng tôi còn được quan sát hệ thống đầm phá rất phát triển dọc theo quốc lộ 1A. Các đầm phá này kéo dài theo hướng Tây bắc – Đông nam, như: Phá Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung – Thủy Tú … nối liền với nhau thành một dải. Vật liệu trầm tích trong các đầm rất mịn, tầng mùn dày rất thuận lợi cho việc phát triển hệ thống thực vật hữu cơ và thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản. Xe của chúng tôi vẫn tiếp tục lăn bánh để đến với mảnh đất Quảng Trị anh hùng trong lịch sử. Nhưng rất tiếc rằng tới đây chúng tôi đã phải chia tay với một thành viên trong lớp – đó là bạn Kim Chi, bạn đã không thể tiếp tục cuộc hành trình vì lí do sức khỏe. Nét đạc trưng của tỉnh Quảng Trị là hẹp và dốc nghiêng từ Tây sang Đông. Trước mắt chúng tôi là Đồng bằng Quảng Trị, một phần của dải đồng bằng ven biển Bình - Trị - Thiên. Đặc điểm chung của dải đồng bằng này là chúng có dạng kéo dài lòng máng với một bên là đồi và một bên là các dải đụn cát cao. Từ đây dọc quãng đường chúng tôi đã được quan sát Đồng bằng Bình Trị - Thiên. Đồng bằng Bình – Trị - Thiên là đồng bằng nằm trong dải đồng bằng Duyên hải Miền Trung, rộng 2.150km2, dài 250 km. Đồng bằng này nhỏ hẹp, nằm sát biển, phía Đông là biển Đông, phía Tây giáp dãy núi Trường Sơn, bị cắt xẻ thành nhiều ô nhỏ do các khối núi lan ra sát biển và các dãy núi đâm ngang ra biển. Biển góp phần nhiều hình thành vùng đồng bằng ở đây hơn là các phù sa sông, nên đất nghèo và là phù sa pha với cát biển. Đồng bằng này có địa hình bị chia làm ba dạng chính: giáp biển là cồn cát di động, đầm phá, vũng vịnh, ở giữa là vùng thấp trũng, và trong cùng là vùng đồng bằng bồi tụ. Đất ở đây chủ yếu là đất cát, được thành tạo lâu dài, tuy nhiên độ màu mỡ kém, nên thực vật ở đây không phát triển mạnh bằng các đồng bằng khác của nước ta. Ở đây chủ yếu trồng lúa, xen kẽ hoa màu. Ở đây, cây ớt đưọctrồng khá nhiều. Hình ảnh ruộng lúa ở đồng bằng Bình - Trị - Thiên Đến 9h sáng chúng tôi đã đến mảnh đất Quảng Bình. Vùng đất có thể coi là bản lề trong không gian của đất nước. Là nơi hẹp nhất của đất nước, vì Đồng Hới từ Tây sang Đông chỉ hơn 40km. Ở đây chúng ta quan sát về mặt địa chất, cũng có một sự khác nhau rất lớn giữa Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam với ranh giới là Đèo Hải Vân. Trường Sơn Bắc là vương quốc của núi đá vôi với cảnh trí "cỏ cây xen đá, lá chen hoa" sum suê, xanh tốt. Đá vôi chiếm nhiều vùng rộng lớn, ở Quảng Bình, có vùng núi đá vôi Kẻ Bàng với động Phong Nha nổi tiếng "Nam Thiên đệ nhất thiên nhiên động" là vùng đá vôi điển hình nhất Việt Nam, rộng đến 2000 km2 trên đất Việt Nam và một diện tích tương đương trên đất Lào. Ngược lại, Trường Sơn Nam lại là vương quốc của đá hoa cương với các sườn núi trơ trụi, đầy những tảng đá khổng lồ, hình tròn, tím xanh, nằm lô nhô, ngổn ngang từ chân đến đỉnh núi. Và từ Quảng Bình trở ra, đã không còn đại địa hình đá vôi. Mà đã bắt đầu sự phân bố đá granit theo diện nông. Dọc theo duyên hải đây cũng là sự chấm dứt của kiểu địa hình bờ biển thẳng thấp, và bắt đầu kiểu bờ biển của miền Trung với những cồn cát cao chạy dài theo bờ biển. Dọc theo quãng đường chúng tôi được quan sát thấy rất nhiều đầm phá, ở đây hoạt động đánh bắt nuôi trồng thủy sản rất phát triển. Hệ thống thổ nhưỡng ở đây rất nghèo chất dinh dưỡng, đất chua, phù sa ít, đụm cát nhiều và đất thụt than bùn. Đến 11h40’, chúng tôi đã đến Đèo Ngang – bước chắn địa hình giữa 2 đồng bằng Bình - Trị - Thiên và đồng bằng Thanh – Nghệ - Tĩnh,đồng thời cũng là một ranh giới khí hậu quan trọng của nước ta. Từ Đèo Ngang đến với vĩ độ 16B là đới khí hậu chí tuyến gió mùa ẩm với một mùa đông lạnh khá sâu sắc. Lúc này, ngoaì trời nhiều sương mù, nhưng hình ảnh Đồng bằng Thanh – Nghệ -Tĩnh vẫn hiện ra khá rõ trước mắt chúng tôi. Đây cũng là một dải đồng bằng nhỏ hẹp, kéo dài. Thanh – Nghệ -Tĩnh cùng với Đồng bằng Bình – Trị - Thiên đều nằm trong dải Đồng bằng Duyên Hải Miền Trung. Đều được chuẩn bị bởi một quá trình hải tiến mài òn đường bờ biển sát chân núi, di tích là những thềm biển dánh dấu sự tác động của nước biển, tạo nên các bặc thềm thấp dần: 40 - 25 -20 -15-10 -5 -2m và tuổi càng trẻ dần. Bờ biển lùi ra xa, các con trạch gần bờ tạo thành nhữn cồn cát, bao lấy những đầm phá bên trong, theo thời gian đầm phá được trầm tích biển lấp đầy, các đảo nối vào bờ trở thành đồi sót. Nên or đây vẫn còn có nhiều đồi núi sót. Tuy nhiên, ở đây ngoài sự bồi tụ do biển thì Đông bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh còn có điểm khác biệt là có thêm sự bồi tụ phù sa do sông, đó là sự kết hợp của sông Mã, sông Cả, sông Chu. Nên thổ nhưỡng ở đây sẫm màu hơn, màu mỡ hơn. Vì thế mà ta cũng thấy hệ thực vật, đặc biệt là lúa nước xanh tốt hơn khác hẳn so với Đồng bằng Bình – Trị - Thiên. Đồng bằng Thanh – Nghệ - Tĩnh Nguyên một ngày ngồi trên xe cuối cùng chúng tôi cũng đã đến được địa phận tỉnh Ninh Bình. Tại đây chúng tôi sẽ được nghiên cứu 3 địa điểm đó là: Tam Cốc, chùa Bái Đính và rừng quốc gia Cúc Phương . Ninh Bình là một tỉnh nhỏ nằm ở rìa Bắc và Tây Nam của đồng bằng Sông Hồng. phía Tây giáp với Hòa Bình, phía Bắc giáp với Thanh Hóa, phía Đông và phía Đông Bắc giàp với Nam Định và Hà Nam, phía Nam giáp với Vịnh Bắc Bộ. Về địa hình: có xu hướng nghiêng dần từ Tây sang Đông Nam, ở đây đồng bằng đã chiếm diện tích lớn, còn đồi núi chỉ chiếm khoảng 20%. Ngày 31/3/2010, chúng tôi dậy lúc 5h,lúc này buổi sáng ở Ninh Bình trời nhiêu sương mù và se lạnh. Đến 6h30; cả đoàn bắt đầu lên xe đi đến chùa Bãi Đính – Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á. Dọc quãng đường chúng tôi được quan sát đại hình đá vôi rất là rõ. Ở đây địa hình được phân bố bởi những dạng kế tiếp nhau đó là: dải Hoàng Liên Sơn – cao nguyên đá vôi – biên giới Việt Lào. Các cao nguyên đá vôi ở đây có đặc điểm được xen kẽ giữa sa phiến – đá vôi – sa phiến. Điểm chùa Bái Đính Là một quần thể chùa được coi là to và đẹp nhất Việt Nam. Nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía Tây vào cố đô Hoa Lư thuộc xã Gia Sinh – huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình. Chùa được bộ Văn Hóa và thông tin công nhận di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia năm 1997. Hình ảnh chùa Bãi Đính Ngay cả khi đang xây dựng chùa đã thu hút rất nhiều du khách về thăm quan chùa Bái Đính. Nên đứng ở ngoài cổng của chùa chúng tôi đã có cảm giác như đang ở trong một bến xe cộ đông đúc, tấp nập người đổ xô về đây. Địa điểm tiếp theo mà chúng tôi tiếp tục đi đến trong buổi sáng này đó chính là: Tam Cốc Tam Cốc Tam Cốc nơi được mênh danh là: “ vịnh Hạ Long trên cạn” hay “ Nam thiên đệ nhất động”, là khu du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam. Tại đây chúng tôi đã được đi thuyền dọc thung lũng sông Ngô Đồng giữa hai bên là hai dãy núi đá vôi cao sừng sững. Đá vôi ở đây có đặc điểm: được trầm tích theo những lớp nằm ngang. Cứ một pha trầm tích tạo thành một lớp đá vôi, tạo nên sự phân lớp nằm ngang theo góc khoảng từ 30-45 độ. Một số dãy không còn nhìn thấy được lớp rõ rang do bị vò nhầu. Dưới chân các núi đá vôi, nhiều nơi còn có các hàm ếch, là dấu tích của biển. Nghiên cứu cho thấy, vỏ trái đất khu vực Tam Cốc có lịch sử phát triển địa chất từ 245 triệu năm đến nay gồm 6 hệ tầng tuổi Trias và hệ tầng Đệ Tứ. Khối karst cổ Tam Hàm ếch dưới chân dãy đá vôi Cốc mang đặc điểm nhiệt đới điển hình: những dãy núi đá hoặc khối đá vôi sót cao 150 - 200m có đỉnh dạng tháp, vòm, chuông và sườn vách dốc đứng. Phần rìa khối là các thung lũng bằng phẳng dễ úng ngập vào mùa mưa. Đặc điểm này tạo cảnh quan nhiều dãy núi đá vôi thấp trùng điệp bao quanh các thung lũng là những hồ nước nối tiếp nhau, vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Ở đây thực vật trên các dãy núi đá vôi vẫn còn rất thưa thớt. Nhưng dưới chân các dãy núi đá vôi là các thung lũng màu mỡ nên người dân ở đây đã phát triển lúa nước. Phát triển lúa nước dưới chân dãy đá vôi Tam Cốc có nghĩa là ba hang: gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba. Cả ba hang đều được tạo thành bởi dòng sông Ngô Đồng đâm xuyên qua núi. Hang Cả dài 127m, xuyên qua một dải núi lớn, cửa hang rộng trên 20m. Trong hang khí hậu khá mát mẻ và có nhiều nhũ đá rủ xuống với muôn hình vạn trạng. Hang Cả Hang Hai, cách hang cả gần 1km, chiều dài 60m, chiều rộng 20m, trên trần hang có nhiều nhũ đá rủ xuống rất kỳ lạ. Hang Ba, gần hang hai, chiều dài 50m, chiều rộng 18m, trần hang như một vòm đá, thấp hơn so với hai hang kia. Sau chuyến chèo thuyền dài 3km, chúng tôi đã quan sát được biết bao vẻ đẹp của Tam Cốc. Nơi đây thật xứng đáng với tên gọi “Vịnh Hạ Long trên cạn”. Và địa điểm cuối cùng cũng là địa điểm quan trọng nhât của chúng tôi trong tuyến Đà Nẵng – Ninh Bình đó chính là Rừng quốc gia Cúc Phương. 2. Điểm rừng Quốc gia Cúc Phương: (Chiều ngày 31/3 và ngày 1/4 ) Đến rừng Cúc Phương chúng tôi lại tiếp tục được quan sát những dãy núi đá vôi. Nhưng khác với Tam Cốc địa hình đá vôi ở đây mềm mại hơn rất nhiều, đá đã bị phong hóa, đất ở đây cũng xẫm màu hơn. Đặc biệt, ở đây còn có hệ thống lớp phủ thực vật hêt sức phát triển. Ở đây quá trình tự phủ và nửa tự phủ phát triển mạnh mẽ tạo nên những cánh đồng karstơ tương đối rộng lớn, đất màu mỡ thể hiện một quá trình karstơ tương đối dài. Những dãy núi đá vôi ở đây cũng khác so với ở Tam Cốc do ở Tam Cốc có sự xen kẽ giữa đá vôi, đá phiến, đá kết tinh biến chất. Rừng Cúc Phương là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Càng tiến đến địa phận của rừng Cúc Phương dọc đồi núi chúng tôi bắt gặp rừng thứ sinh với nhiều tre, nứa, mộc chen chúc nhau, nhiều lọai cây bụi xen lẫn với rừng tre nứa chúng tôi bắt gặp những vết savan cây bụi lùn. Chúng tôi được anh Bảy- một hướng dẫn viên phân tích rõ thêm về sự đa dạng của rừng quốc gia lớn nhất Việt Nam mang tầm cỡ quốc tế này. Rừng Cúc Phương được thành lập đầu tiên vào ngày 7/7/1962. Rừng Cúc Phương - Vị trí điạ lý: vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở 3 tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Thuộc địa phận của 4 huyện thuộc 3 tỉnh này: Thạch Thành( Thanh Hóa), Yên Thủy – Lạng Sơn( Hòa Bình), Nho Quan( Ninh Bình). Bao quanh rừng có 17 xã, đây là khu vực rừng nguyên sinh được bảo tồn bậc nhất của nước ta hiện nay, cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Tây. - Diện tích: Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập vào tháng 7/1962, sau khi một nhóm kỹ sư nông nghiệp đến đây để xác định đây là khu vực giàu tài nguyên, giàu tiềm năng, rừng chưa bị khai thác nhiều. Với diện tích 22.200ha, tỉnh Ninh Bình chiếm 51,1%, Thanh Hóa chiếm 22,5%, Hòa Bình chiếm phần còn lại. - Về địa hình: Nằm trong vùng karstơ xâm thực có 2 dãy núi chạy song song với nhau và xen giữa là những thung lũng nhỏ đồi núi thấp, độ cao trung bình từ 300 – 400m cao nhất là núi Mây Bụi cao 692m. Rừng Cúc Phương điển hình karstơ dài với hệ thống sông ngầm phía dưới. - Đất đai: Đất đai ở đây được phân làm 2 loại, trong đó đất được hình thành trong đá vôi chiếm ưu thế nhất. - Khí hậu: Nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ trung bình 16,6độ C, trung bình cao nhất là 20độ C. Lượng mưa trung bình hằng năm là 2151,2mm. Độ ẩm tương đối 90%. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: + Mùa hạ: từ tháng 5 đến tháng 11 nhiệt độ trung bình là 23độ c, lượng mưa1129,2% + Mùa đông (mùa khô) kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Do đặc điểm vị trí địa lý luồng thực vật có 3 luồng di cư chính: Luồng nhiệt đới nóng ẩm Mã Lai- Inđô, gồm các dây di cư từ thời Krêta, các loại thuộc họ dầu, luồng này chiếm 0,6% trong tổng số loai cây thực vật ở đây. Luồng thực vật Tây Bắc: Vân Nam, Quý Châu, Hymalaya, chủ yếu là các loài rụng lá về mùa đông: Giẻ, Thích, Nhài… Luồng thực vật từ Tây Nam Ấn- Miến: gồm các loại cây thuộc họ Ngũ Gia Bì, đây là loại thuộc chi mới của Đông Dương. - Về cấu trúc rừng: Trên thực tế không phải mọi nơi trên Cúc Phương cấu trúc rừng được chia làm 5 phần mà được chia làm 3 nhóm chính:  Rừng ở thung lũng và chân núi: đây là rừng giàu nhất tiêu biểu cho cấu trúc rừng có 5 tầng tán chính: Tầng vượt tán: Bao gồm những cây ở độ cao trên 40m, gồm Chò Chỉ, Chò Ngàn Năm. Tầng tán rừng: Ở độ cao 30m đến 40m, bao gồm Cà Lồ, Sàng. Tầng dưới tán: Là những loài cây chịu bóng, một số loài cây tồn tại bằng cách đón nhận ánh sáng thường xuyên thông qua các kẽ hở hoăc tiếp tục vươn lên để tồn tại. Bao gồm những cây có độ cao từ 20 đến 30m như: Vàng Anh, Nhộn, Cỏ Khẹt… Tầng cây bụi: Bao gồm một số loài cây thích nghi với cường độ ánh sáng thấp, gồm cả cây ưa bóng và cây bụi như: Na, Móc, Đùng Đình… Tầng cỏ quyết: Đây là nơi lí tưởng cho rêu, dương xỉ, và thực vật có hoa ưa bóng. Nhiều loài nấm, địa y phát triển mạnh mẽ trong môi trường ẩm và tạo nên sự đa dạng của tầng cỏ quyết. Đặc biệt trong rừng có nhiều loại cây dây leo( 359 loài), có cây dây leo dài tới 1km. Các cây kí sinh rất phong phú và đa dạng. => Đây là một cấu trúc rừng hoàn hảo.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan