MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................... 13
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài................................................................................................. 13
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................................. 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG HỌC NGOẠI NGỮ Ở BẬC ĐẠI
HỌC .................................................................................................................................... 33
2.1. Cơ cấu và thành phần sinh viên đang học môn ngoại ngữ ở bậc đại học ............................ 34
2.2. Động cơ học tập ............................................................................................................ 40
2.3. Tính chất của môn học ngoại ngữ hiện nay ở bậc đại học ............................................ 45
Chƣơng 3: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHẤT LƢỢNG HỌC NGOẠI
NGỮ CỦA SINH VIÊN ..................................................................................................... 50
3.1. Yếu tố chủ quan ............................................................................................................ 50
3.2. Yếu tố khách quan ........................................................................................................ 60
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐH
: Đại học
ĐHQGHN
: Đại học Quốc gia Hà Nội
GV
: Giảng viên
HN
: Hà Nội
NN
: Ngoại ngữ
SV
: Sinh viên
TA
: Tiếng Anh
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
TP. HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Mức điểm TOEIC hiện tại và mức độ quan trọng của môn ngoại
ngữ đang học ở bậc đại học .................................................................. 52
Bảng 3.2: Mức điểm TOEIC hiện tại và mức độ muốn học môn ngoại ngữ .. 54
Bảng 3.3: Mục đích học ngoại ngữ của SV và mức điểm TOEIC hiện tại..... 56
Bảng 3.4: Mức điểm TOEIC hiện tại và thời gian học ngoại ngữ tại nhà ..... 58
Bảng 3.5: Mức điểm TOEIC hiện tại và học thêm ở trung tâm ngoại ngữ .... 59
Bảng 3.6: Mức điểm TOEIC hiện tại và thành phần kinh tế gia đình ............ 61
Bảng 3.7: Mức điểm TOEIC hiện tại và đi làm thêm ..................................... 62
Bảng 3.8: Mức điểm TOEIC hiện tại và giới tính .......................................... 63
Bảng 3.9: Mức điểm TOEIC hiện tại và độ tuổi ............................................ 64
Bảng 3.10: Mức điểm TOEIC và nơi học Trung học phổ thông (cấp III) ...... 66
Bảng 3.11: Đánh giá các tiêu chí về GV môn ngoại ngữ tại trường đại học .. 70
Bảng 3.12: Mức độ hài lòng về học NN tại trường ĐH SV đang học ............ 73
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 1.1: Độ tuổi sinh viên ........................................................................ 29
Biểu đồ 1.2: Thành phần kinh tế gia đình của sinh viên ................................. 29
Biểu đồ 1.3: Sinh viên được khảo sát đang học ngành ................................... 30
Biểu đồ 1.4: Sinh viên học đại học năm thứ ................................................... 31
Biểu đồ 1.5: Môn ngoại ngữ đang học ở bậc đại học ..................................... 32
Biểu đồ 2.1: Trình độ ngoại ngữ của Châu Á. ................................................ 33
Biểu đồ 2.2: Mức độ thông thạo tiếng Anh theo khu vực............................... 34
Biểu đồ 2.3: Tổng điểm 3 môn đầu vào đại học của sinh viên ....................... 35
Biểu đồ 2.4: Trình độ tiếng Anh hiện nay của sinh viên ................................ 35
Biểu đồ 2.5: Mức điểm TOEIC hiện tại của sinh viên.................................... 37
Biểu đồ 2.6: Các kỹ năng học ngoại ngữ còn yếu .......................................... 39
Biểu đồ 2.7: Mức độ quan trọng của môn ngoại ngữ đang học ở bậc ĐH ..... 41
Biểu đồ 2.8: Mục đích học môn ngoại ngữ của sinh viên............................... 42
Biểu đồ 2.9: Sinh viên trước đây học tiếng Anh hệ ........................................ 44
Biểu đồ 2.10: Thời gian học ngoại ngữ tại nhà ............................................... 44
Biểu đồ 2.11: Mức độ dễ học hay khó học của môn ngoại ngữ đang học ...... 46
Biểu đồ 2.12: Đánh giá chung về chất lượng đào tạo ngoại ngữ ở trường đại
học ......................................................................................................... 47
Biểu đồ 2.13: Thời gian học ngoại ngữ ở trường đại học ............................... 48
Biểu đồ 3.1: Mức độ quan trọng của môn ngoại ngữ đang học ở bậc ĐH ..... 51
Biểu đồ 3.2: Mức độ muốn học môn ngoại ngữ ở bậc đại học ....................... 53
Biểu đồ 3.3: Theo phổ điểm thi THPT môn tiếng Anh năm 2016 ................. 65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai
đoạn 2008-2020” của bộ giáo dục và đào tạo nêu rõ: đổi mới toàn diện việc dạy và
học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học
ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một
bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất
là đối với một số lĩnh vực ưu tiên, đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt
nghiệp trung cấp, cao đ ng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự
tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa
văn hoá, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. [20]
Ngoại ngữ - ngôn ngữ nước ngoài ngày càng được nhắc tới như một yếu tố
không thể thiếu trong quá trình tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế là công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình này, vấn đề đặt ra là ngành giáo dục và
đào tạo cần có những đổi mới cơ bản và mạnh mẽ nhằm cung cấp cho đất nước
những con người lao động có chuyên môn và hiệu quả cao trong hoàn cảnh mới.
Việc dạy và học ngoại ngữ chuyên ngành ở bậc đại học cũng không nằm ngoài mục
tiêu trên. Ngoại ngữ không chuyên như chiếc cầu nối kinh tế và văn hóa giữa Việt
Nam với thế giới bên ngoài.
Thế giới đang bước vào thời kì kinh tế tri thức, xã hội mới phồn vinh ở thế kỉ
XXI phải là một xã hội của tri thức và dựa vào tri thức, vào tư duy sáng tạo của con
người. Để có thể vươn lên hội nhập vào cộng đồng thế giới, chúng ta phải học hỏi
kinh nghiệm của các nước tiên tiến, đồng thời cần biết áp dụng những kinh nghiệm
đó một cách sáng tạo, tìm ra được phương thức phát triển phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Khi tri thức xã hội thay đổi nhanh chóng theo nền kinh tế tri thức thì người
lao động cũng phải biết tự đổi mới kiến thức và năng lực của mình cho phù hợp với
sự phát triển của khoa học. Người lao động phải có khả năng tự định hướng và tự
vươn lên để thích ứng với đòi hỏi mới của xã hội. Giáo dục và đào tạo ngoại ngữ đã
1
nêu rõ nhiệm vụ cấp bách của ngành giáo dục trong việc đào tạo nhân tài, tạo nguồn
nhân lực cho đất nước, phục vụ tốt sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, quá trình dạy học trong đó có dạy học
ngoại ngữ ở các trường đại học có vị trí và nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có tác
dụng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng các nước
tiên tiến trong khu vực và trên toàn thế giới. Tác động của chính sách mở cửa, của
cuộc cách mạng xã hội, cách mạng khoa học và công nghệ đối với giáo dục nói
chung, đối với các trường đại học nói riêng đòi hỏi phải xác định tiêu chuẩn dạy học
có chất lượng và hiệu quả theo quan điểm công nghệ dạy học.
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm tìm hiểu thực trạng và những yếu tố
tác động đến chất lượng học NN của SV trong môi trường không chuyên ở các
trường đại học trên địa bàng TP. HCM như: ĐH Tôn Đức Thắng và ĐH Sài Gòn
như thế nào? Nhu cầu học NN của SV ra sao? Những khó khăn và thuận lợi của SV
khi học ngoại ngữ? Những yếu tố nào tác động đến việc học NN của SV?
Mặc dù đã ý thức được về vai trò của NN, tuy nhiên thực trạng học tiếng
Anh của sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên TP. HCM nói riêng vẫn chưa đạt
hiệu quả cao, có rất nhiều bài viết và các công trình nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề
này. Hiện tượng trên có rất nhiều nguyên nhân, vậy đâu là nguyên nhân cản trở sinh
viên học ngoại ngữ chưa tốt? Do bản thân sinh viên hay giảng viên hay phía nhà
trường? Những yếu tố nào tác động đến chất lượng học của ngoại ngữ sinh viên? Đề
tài nghiên cứu của chúng tôi tìm ra những yếu tố tác động đến chất lượng học ngoại
ngữ của sinh viên như hiện nay và đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm giúp sinh
viên học tốt hơn môn ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của
sinh viên đã được rất nhiều sự quan tâm và chú ý của các nhà nghiên cứu trong
nhiều năm qua đến nay trên thế giới, với sự phát triển không ngừng của thế giới trên
mọi lĩnh vực như hiện nay thì hầu hết tất cả mọi người đều rất muốn học một ngoại
ngữ nào đó cho bản thân, đặc biệt là Tiếng Anh là một ngôn ngữ của toàn cầu. Đã
có rất nhiều nghiên cứu về động cơ học tập trong lĩnh vực học ngoại ngữ chỉ ra
2
những ảnh hưởng của các loại động cơ học tập ảnh hưởng đến việc học ngoại ngữ
như nghiên cứu Yuan Kong (2006) “A Brief Discussion on Motivation and Ways to
Motivate Students in English Language Learning’’ xuất bản trên tạp chí
International Education Studies đã nêu ra những điểm khác nhau cơ bản giữa các
loại động cơ học đặc biệt là hai loại động cơ trên và sự ảnh hưởng của chúng đối
với việc học từ đó đưa ra một số phương pháp giúp thúc đẩy sinh viên học tiếng
Anh như: sử dụng đa dạng các hoạt động trên lớp học tiếng Anh, tạo bầu không khí
học tập thoải mái và tạo điều kiện cho sinh viên được thực hành tích cực. Cùng mục
tiêu tìm hiểu về động cơ học ngoại ngữ của sinh viên công trình nghiên cứu “A Case
Study of Changing Motivation In Foreign Language Learning” của Li Jun Wei
(2014) - Viện Khoa Học Công Nghệ Changzhou nghiên cứu về sự thay đổi động cơ
học trong suốt khóa học của sinh viên để đưa ra phương pháp khả thi giúp thúc đẩy
động lực học ngoại ngữ của sinh viên như giáo viên nên tổ chức các hoạt động
mang tính hợp tác trên lớp cho sinh viên như cho sinh viên học bài, làm bài tập theo
nhóm và thảo luận nhóm.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả H. Herman Mustafa với công trình nghiên cứu
“Students’ Attitudinal Factors in Learning English as a Foreign Language” (2015)
Đại học Negeri Makassar, Makassar, Miền Nam Sulawesi, Indonesia cho thấy rằng
yếu tố thái độ tích cực trong việc học tiếng Anh như một ngôn ngữ nước ngoài. Nó
cho thấy thái độ học tập tích cực của sinh viên sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập
môn ngoại ngữ. Có một mối tương quan tích cực giữa thái độ, động cơ và sự nhiệt
tình, cam kết và kiên trì của sinh viên là yếu tố quyết định thành công hay thất bại,
thái độ học tập của sinh viên càng cao thì sẽ đạt được nhiều thuận lợi hơn. Các yếu
tố về thái độ của sinh viên có thể được cải thiện bằng cách tham gia vào quá trình
học tập và các phương pháp giảng dạy ngôn ngữ hiệu quả có thể khuyến khích sinh
viên tích cực hơn đối với ngôn ngữ mà họ là học tập.
Với công trình "Factors Affecting Students' Achievement in English
Language Learning" của Giáo sư Abdallah Hussein El - Omari (2016), của Đại học
Irbid đã chứng minh ngôn ngữ nước ngoài (đặc biệt là tiếng Anh) rõ ràng là bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố khác nhau như khoa học và công nghệ không ngừng phát triển
thì nhu cầu giao tiếp tiếng Anh càng cao, chính sách phúc lợi xã hội tạo điều kiện
3
cho mọi tầng lớp có cơ hội được học tiếng Anh (người nghèo cũng có cơ hội học
tiếng Anh), khu vực nhà nước và tư nhân sử dụng nguồn nhân lực là sinh viên khi
tốt nghiệp đại học ra trường bắt buộc phải sử dụng tiếng Anh xuất sắc. Ngoài ra, tác
giả còn đề xuất các trường đại học nên mở ra các khoa tiếng Anh với việc dạy học
tiếng Anh cho sinh viên, cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động giảng dạy trong đó
tiếng Anh là ngôn ngữ được tập trung.
Bên cạnh đó, công trình “Factors Influencing the Learning of English
Language for Academic Purposes for Foreign Students: A case of Solusi University”
của tác giả Stella Muchemwa đưa ra bốn phát hiện mới như:
“Các yếu tố công nghệ: Công nghệ làm cho tiếp thu và phát triển ngôn ngữ
tiếng Anh dễ dàng. Tuy nhiên, các giảng viên tiếng Anh hiếm khi sử dụng công nghệ
trong suốt bài học.
Yếu tố xã hội: Giảng viên các chuyên ngành khác khó tập trung Tiếng Anh
và tại trường Đại học không có ai giúp họ thực hiện điều này.
Các yếu tố học tập: Đọc và nói tiếng Anh trong lớp sẽ giúp cải thiện tiếng
Anh kỹ năng.
Các yếu tố văn hoá: Văn hoá gia đình hỗ trợ hoặc ngăn cản sinh viên nước
ngoài học ngôn ngữ tiếng Anh .
Yếu tố kinh tế: sinh viên ở các quốc gia nghèo không nói được tiếng Anh vì
học tiếng Anh quá tốn kém tiền.
Nghiên cứu đề xuất thành lập các phòng thí nghiệm tiếng Anh tại các trường
đại học có trách nhiệm để cải tiến giảng dạy và học tiếng Anh cho sinh viên nước
ngoài. Một lần nữa, các trường đại học có trách nhiệm nên tính học phí hợp lý để
sinh viên nước ngoài có thể được du học.”
Trong những nghiên cứu và bài viết của các tác giả trên thế giới cho thấy
rằng có rất nhiều yếu tố tác động đến chất lượng học ngoại ngữ (đặc biệt là Tiếng
Anh): thái độ và động lực học tập của sinh viên, sự kiên trì và lòng tự trọng trong
học tập đóng vai trò thiết yếu trong sự thành công đối với việc học ngoại ngữ của
người học và đam mê khám phá thế giới và trải nghiệm những điều mới mẻ là động
lực bên trong - động lực nội vi giúp họ đạt được mục đích. Những yếu tố bên ngoài
4
cũng chi phối đến chất lượng học ngoại ngữ của người học như: yếu tố công nghệ,
yếu tố xã hội, yếu tố văn hoá, yếu tố kinh tế…
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng và thì tiếng Anh
là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế và xã hội. Chính vì
vậy, ở Việt Nam chúng ta có khá nhiều đề tài nghiên cứu và bài viết bàn luận về
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh viên luôn được sự
tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu nói chung và đặc biệt là các nhà nhà nghiên
cứu về giáo dục nói riêng. Những công trình nghiên cứu ở nhiều đối tượng khác
nhau như: Tác giả Vũ Thị Phương Anh và Nguyễn Bích Hạnh với công trình nghiên
cứu “Năng lực tiếng Anh của sinh viên các trường đại học trên địa bàn Tp. HCM
trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: thực trạng và những giải pháp” (20012004) cho thấy thực trạng sinh viên của chúng ta có trình độ tiếng Anh rất thấp, thể
hiện qua các mức trình độ đạt được qua bài kiểm tra, thậm chí chưa đủ trình độ để
được xét tham gia chương trình tiếng Anh dự bị đại học ở một nước bản ngữ trình
độ đầu vào rất chênh lệch của sinh viên, đòi hỏi phải có một cách quản lý phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của từng trường và nhu cầu và trình độ của từng người học,
và một bên là cách quản lý cứng nhắc mang nặng tính hành chính, trong đó tất cả
mọi sinh viên với trình độ rất khác nhau (và thuộc các trường, các ngành học khác
nhau) đều trải qua một thời lượng như nhau, cùng áp dụng một chương trình học có
mục tiêu và cấu trúc tương tự như nhau.
Luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục của Lâm Hữu Tài (2003-2004), “Một số
giải pháp đổi mới quản lý quá trình dạy – học ngoại ngữ trong trường ĐH dân lập
Văn Lang TP. HCM” đề ra một số giải pháp cơ bản như mở thêm nhiều trường tư
thục, mở rộng đầu vào thắt chặt đầu ra, tăng học phí để đầu tư chất lượng, đặt ra yêu
cầu cao ở trường đại học, đổi mới chương trình dạy học, tăng cường tính tự chủ của
trường đại học, tăng cường chất lượng quản lý, thuê chuyên gia giáo dục nước ngoài
tư vấn, xác định mục tiêu giáo dục đại học, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học.
Kết quả một cuộc điều tra nghiên cứu của đề tài cấp đại học Quốc gia về
“Thực tế giảng dạy ngoại ngữ không chuyên tại các trường trường Đại học Khoa
Học Xã Hội và Nhân Văn, ĐHQGHN”(2005), tác giả Vũ Thị Ninh và nhóm nghiên
5
cứu cho thấy 88,8% sinh viên tham gia cuộc điều tra trả lời rằng họ không hài lòng
với kết quả học ngoại ngữ của mình. Trong 6 nguyên nhân dẫn đến kết quả ngoại
ngữ kém, 53,9% sinh viên cho biết họ còn thiếu phương pháp học. Điều này thể
hiện rõ nhất trong giờ học đọc. Do chưa có thao tác đoán nghĩa từ mới trong ngữ
cảnh nên mỗi khi gặp từ mới sinh viên thường nghĩ ngay đến việc tra từ điển. Thay
vì tìm nhanh những thông tin cần thiết để đáp ứng yêu cầu bài đọc hiểu thì họ lại
say sưa dịch toàn bộ văn bản, coi đó là việc làm không thể thiếu mà hoàn toàn
không hiểu rằng dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng mẹ đẻ là một nghề, là công
việc của các dịch giả. Bởi vậy, nó dịch rất khó, nhất là đối với sinh viên đang học
ngoại ngữ, khi vốn kiến thức ngữ pháp cũng như từ vựng của họ (cả ngoại ngữ lẫn
tiếng Việt) đều còn khiêm tốn. Thói quen bất lợi này làm mất thời gian của người
học, lại không giải quyết được vấn đề vì xét cho cùng thì học đọc (đọc hiểu) là học
cách tìm những thông tin cần thiết cho mình, chứ không phải học chỉ để hiểu một
bài khoá cụ thể.
Công trình “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh
viên trường Đại học Y tế công cộng” (2005), tác giả Nguyễn Bá Học phân tích vai
trò của việc tự học trong quá trình tiếp thu kiến thức của sinh viên (đặc biệt là học
ngoại ngữ) trong lý thuyết hoạt động dạy - tự học và phương pháp quản lý hoạt
động này, phân tích đặc điểm hoạt động đào tạo, thực trạng dạy - học ngoại ngữ,
thực trạng dạy - tự học ngoại ngữ của trường Đại học Y tế công cộng, từ đó đưa ra
những nhận xét, đánh giá về thực trạng quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh
viên cử nhân hệ chính quy ở trường Đại học Y tế công cộng, đưa ra 5 nhóm biện
pháp để quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên cử nhân Y tế công cộng
hệ chính quy trường Đại học Y tế công cộng.
Nghiên cứu về “Động cơ học của sinh viên năm nhất trường Đại học Khoa
Học Xã Hội và Nhân Văn, ĐHQGHN” (2006), của tác giả Nguyễn Thị Lệ Thu cũng
đồng tình rằng động cơ học của sinh viên cũng đóng vai trò quan trọng đối với chất
lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên, theo Hoàng Văn Vân, khoa sau Đại học,
Đại học Quốc gia Hà Nội có công trình nghiên cứu “Những yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng đào tạo tiếng Anh không chuyên ở Đại Học Quốc Gia Hà Nội” trên tạp
chí Khoa học đại học Quốc gia Hà Nội, Ngoại ngữ 24 (2008) chỉ ra mối quan hệ
6
giữa mục đích, động cơ, nhu cầu và mong muốn học tiếng Anh của sinh viên đối với
kết quả học tiếng Anh: Học tiếng Anh không phục vụ cho mục đích trực tiếp của
người học: họ không nghe giảng bằng tiếng Anh, không giao tiếp (thông thường và
chuyên môn) bằng tiếng Anh, không đọc những tài liệu chuyên môn và những tài
liệu thường thức khác bằng tiếng Anh, và không viết bằng tiếng Anh dẫn đến kết
quả là mặc dù nhu cầu, động cơ của người học có thể rất cao nhưng hiệu quả thực tế
lại rất thấp, và rút cuộc tiếng Anh vẫn chỉ là một môn học trong hệ thống các môn
học của một chương trình ở các trường đại học.
Nghiên cứu của Phạm Thị Tố Như (2010) - Trường Đại Học Đà Nẵng nghiên
cứu về “Tác động của yếu tố văn hóa xã hội đối với việc học tiếng Anh của sinh
viên năm nhất khoa Tiếng Anh - Đại Học Ngoại Ngữ - Đại Học Đà Nẵng” cho rằng
phần lớn sinh viên chọn học tiếng Anh vì nghề nghiệp và đa phần sinh viên bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố văn hóa như lối sống, phong tục của người bản xứ, do thói
quen của người Việt. Do đó việc lựa chọn giáo trình mang tính thực tế tác động
đáng kể đến động lực học tiếng Anh của sinh viên.
Cuộc điều tra “Chuẩn tiếng Anh đầu ra hệ đại học chính quy thực trạng và
giải pháp” (2014), tác giả Hà Thanh Bích Loan cho rằng do sự thiếu hiểu biết đầy
đủ về toàn bộ quá trình giảng dạy tiếng Anh của các bên có liên quan, đặc biệt là
giáo viên và học viên, dẫn đến sự thiếu thống nhất về mục tiêu và phân tán nguồn
lực vào những mục tiêu riêng lẻ. Trong tất cả sự thiếu hiểu biết đó, sự khiếm khuyết
lớn nhất nằm ở khâu kiểm tra đánh giá, khâu có tầm quan trọng mang tính quyết
định đến hiệu quả đào tạo.
Công trình nghiên cứu “Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến việc học Anh ngữ
của sinh viên khoa kinh tế và quản trị kinh doanh, Trường Đại học Cần Thơ”
(2014), tác giả Quan Minh Nhựt và Phạm Phúc Vinh, trong nghiên cứu này nhóm
tác giả tập trung phân tích và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc học lấy
chứng chỉ Anh ngữ của sinh viên Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh-Trường Đại
học Cần Thơ thông qua kỹ thuật phân tích nhân tố trên bộ dữ liệu thu thập từ 160
sinh viên theo thang đo Likert 5 cấp độ. Ngoài ra, bài viết đã cố gắng ước lượng và
phân nhóm sinh viên có sự khác nhau về việc đánh giá tầm quan trọng của các yếu
tố liên quan đến việc học - thi chứng chỉ ngoại ngữ bằng kiểm định ANOVA. Kết
7
quả kiểm định cho thấy có sự khác nhau ở 3/6 nhóm nhân tố đưa vào khảo sát. Cụ
thể, có sự khác nhau giữa hai nhóm sinh viên trong việc thể hiện mức độ quan tâm
đối với các nhóm nhân tố ứng dụng thực tiễn, sở thích và giải trí, và khó khăn trong
quá trình học, thi ở mức ý nghĩa 5%.
Một khảo sát nghiên cứu gần đây “Các yếu tố ảnh hưởng năng lực tiếng Anh
của sinh viên sư phạm tiếng Anh, trường đại học Cần Thơ” (2014), tác giả Nguyễn
Văn Lợi và Chung Thị Thanh Hằng cho thấy yếu tố quản lý thời gian học tập và đi
làm thêm có liên quan nhiều đến kết quả học tập của sinh viên sau hai năm so với
các yếu tố khác. Yếu tố quan trọng thứ hai là trình độ đầu vào, được xác định bằng
điểm TOEIC đầu vào. Phương pháp tự học, cụ thể là tự điều chỉnh chỉ có tác động
rất ít đối với kết quả học tập của sinh viên.
Như vậy, hầu hết các kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng chất lượng học
ngoại ngữ hiện nay của sinh viên còn rất thấp, bị chi phối và hạn chế bởi rất nhiều
yếu tố: động cơ học tập, trình độ đầu vào, cơ sở vật chất, quy trình quản lý giáo dục,
chương trình đào tạo, nhu cầu của người học, lối sống, sở thích, văn hoá … Ở
nghiên cứu này chúng tôi sẽ phân tích về thực trạng chất lượng học NN của SV qua:
cơ cấu, thành phần sinh viên, động cơ học tập và tính chất của môn học NN hiện
nay ở bậc ĐH. Đồng thời qua đó cũng đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
học NN của SV như: nhu cầu học NN, ý thức học NN, hoàn cảnh gia đình, giới tính,
độ tuổi và nơi học THPT của sinh viên, phương pháp dạy của giảng viên, cơ sở vật
chất và trang thiết bị của nhà trường. Từ những nguyên nhân đó, đề tài nghiên cứu
sẽ đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện chất lượng học NN của SV hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại
ngữ của sinh viên đại học ở TP. HCM. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm
giúp sinh viên học tốt hơn môn ngoại ngữ tại trường đại học ở TP. HCM hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các khái niệm của đề tài như: yếu tố ảnh hưởng, ngoại ngữ, chất lượng,
sinh viên, giảng viên, mục đích (mục tiêu) và một số khái niệm khác có liên quan.
8
Vận dụng các lý thuyết chủ yếu vào đề tài như lý thuyết chức năng, lý thuyết
tương tác biểu tượng.
Phân tích thực trạng về chất lượng học NN của SV ở bậc ĐH về: cơ cấu, thành
phần sinh viên, động cơ học tập và tính chất của môn học NN hiện nay ở bậc ĐH.
Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh viên.
Đưa ra giải pháp giúp sinh viên học tốt hơn môn ngoại ngữ. Đề tài này, chúng tôi
chỉ xay quanh nghiên cứu và phân tích các yếu tố chủ quan và khách quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh viên đại học
ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu: sinh viên học và giảng viên dạy môn ngoại ngữ.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: đề tài được nghiên cứu tại các trường Đại học ở TP HCM cụ
thể là: trường đại học Tôn Đức Thắng và đại học Sài Gòn.
Thời gian: nghiên cứu và thu thập thông tin trong năm học từ 2017- 2018.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.Câu hỏi nghiên cứu
Sinh viên học ngoại ngữ còn yếu những kỹ năng gì?
Các yếu tố chủ quan nào ảnh hưởng đến chất lượng học NN của sinh viên?
Các yếu tố khách quan nào ảnh hưởng đến chất lượng học NN của sinh viên?
Cần có những giải pháp gì để nâng cao chất lượng học ngoại ngữ cho sinh viên?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Đa số sinh viên còn yếu về các kỹ năng trong học môn ngoại ngữ, nhất là kỹ
năng giao tiếp nghe - nói.
Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh viên
như: nhu cầu học, ý thức tự học.
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh
viên như: hoàn cảnh gia đình, giới tính và độ tuổi, nơi học THPT, phương pháp dạy
của giảng viên, cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà trường.
9
Sinh viên phải xác định được mục đích học môn ngoại ngữ và ý thức học tập
của chính bản thân.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này kết hợp bằng hai dữ liệu định tính và định lượng.
5.3.1. Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập thông tin thứ cấp: các bài viết, các báo cáo nghiên cứu khoa học,
sách... Thu thập thông tin sơ cấp: quan sát, phỏng vấn sâu, điều tra bằng bảng hỏi
chọn mẫu thuận tiện (convenience sampling).
5.3.2. Thiết kế nghiên cứu và mô tả mẫu
Phỏng vấn bảng hỏi: Trong đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương
pháp chọn mẫu thuận tiện (convenience sampling), dung lượng mẫu: 200 sinh viên, thu
thập số liệu qua bảng hỏi anket, tiêu chí chọn mẫu căn cứ vào các tiêu chí như giới tính,
trường, số năm theo học tại trường. Địa điểm lấy mẫu, địa bàn tiến hành nghiên cứu là
hai trường Đại học Tôn Đức Thắng và trường Đại học Sài Gòn.
Quan sát: được thực hiện tại địa bàn trường ĐH Tôn Đức Thắng và trường
ĐH Sài Gòn về các yếu tố khi đang diễn ra tại giờ học ngoại ngữ như: cơ sở vật chất
và trang thiết bị của nhà trường, phương pháp dạy của giảng viên, thời gian đến lớp
và ý thức học tập của sinh viên.
Phỏng vấn sâu:
Thực hiện: 6 cuộc phỏng vấn sâu giảng viên trong đó: 3 GV trường ĐH Tôn
Đức Thắng và 3 GV trường ĐH Sài Gòn.
Thực hiện: 8 cuộc phỏng vấn sâu sinh viên trong đó 4 SV trường ĐH Tôn
Đức Thắng và 4 SV trường ĐH Sài Gòn.
Phƣơng pháp xử lý thông tin:
Các dữ liệu định lượng sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.
Các thông tin có được từ các hoạt động phỏng vấn sẽ được phân tích theo phương
pháp phân tích đề mục, đồng thời kết hợp với việc phân tích các tài liệu sẵn có.
Sử dụng công cụ thu thập thông tin chính yếu sau: phân tích tư liệu sẵn có,
bảng hỏi, phỏng vấn sâu và quan sát.
Mỗi công cụ thu thập thông tin có nhiệm vụ nhất định, mỗi công cụ có một
thế mạnh riêng trong việc thực hiện nghiên cứu khoa học. Vì vậy, thông tin thu thập
sẽ đầy đủ hơn, phong phú, bổ sung và mang tính kế thừa cho nhau.
10
Khung phân tích:
Nhu cầu của xã hội, nhu cầu của sinh viên,
yêu cầu và điều kiện của nhà trƣờng
Đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc và
Thành phố
Các yếu tố chủ quan
- Nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên.
- Ý thức tự học ngoại ngữ của sinh
viên.
- Phương pháp học của sinh viên.
Các yếu tố khách quan
- Hoàn cảnh gia đình của sinh viên.
- Giới tính và độ tuổi của sinh viên.
- Nơi học THPT của sinh viên.
- Phương pháp dạy của giảng viên.
- Cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà
trường.
Những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng học ngoại ngữ
của sinh viên đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Giới hạn nghiên cứu của đề tài: do thời gian nghiên cứu ngắn và nguồn
kinh phí còn hạn chế nên đề tài chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu theo các khía
cạnh trong khung phân tích, giả thuyết nghiên cứu và phần khái niệm của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: đề tài xoay quanh các yếu tố tác động đến chất lượng
học NN của SV hiện nay. Qua đó mang lại góc nhìn mới về thực trạng học NN của
sinh viên các trường Đại học hiện nay tại TP. HCM nói riêng và cả nước nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: các nghiên cứu của đề tài làm cơ sở và
làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu và các chủ đề liên quan. Đồng thời, các
kết quả nghiên cứu của đề tài cũng giúp cho các nhà quản lý giáo dục, các nhà
nghiên cứu có thêm cơ sở khoa học để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ
môn ngoại ngữ tốt hơn.
11
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn “Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh
viên đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” gồm 4 phần:
PHẦN 1: MỞ ĐẦU: Phần này luận văn trình bày những vấn đề cơ bản như:
Tính cấp thiết của đề tài, lịch sử nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu,
giới hạn của đề tài, kết cấu của đề tài.
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương này trình bày cơ sở lý luận của đề tài và địa bàn nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng chất lƣợng học ngoại ngữ của sinh viên ở bậc đại học.
Trong phần chương này luận văn mô tả đôi nét về mẫu nghiên cứu và đưa ra
một khung cảnh chung về thực trạng chung học ngoại ngữ của sinh viên ở bậc đại
học hiện nay tại TP. HCM.
Chƣơng 3: Những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng học ngoại ngữ của
sinh viên.
Luận văn đi sâu nghiên cứu về thực trạng học ngoại ngữ của sinh viên các
trường đại học hiện nay tại TP. HCM. Từ đó, xác định mục đích học ngoại ngữ của
sinh viên và đi sâu vào khả năng học ngoại ngữ của sinh viên, đặc biệt là các kỹ
năng học ngoại ngữ sinh viên còn yếu. Bên cạnh đó, đề tài còn tìm hiểu những yếu
tố tác động hay làm cản trở việc học ngoại ngữ của sinh viên như: các yếu tố khách
quan và chủ quan ảnh hưởng đến việc học ngoại ngữ của sinh viên.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Ngoài việc tóm tắt lại những vấn đề trong thực trạng cũng như là những yếu
tố tác động đến chất lượng học ngoại ngữ của sinh viên thì luận văn cũng đưa ra
một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn ngoại ngữ ở bậc đại học.
PHỤ LỤC: bao gồm tài liệu tham khảo, bảng câu hỏi, kết quả xử lý, phỏng
vấn sâu giáo viên, phỏng vấn sâu sinh viên và quan sát.
12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Các khái niệm
Yếu tố ảnh hƣởng: là một chức năng của số lượng tài liệu tham khảo cho
mỗi bài viết trong lĩnh vực nghiên cứu [35, tr. 499]. Yếu tố ảnh hưởng là số đo
trung bình số trích dẫn cho các bài báo đăng trong một tạp chí cụ thể. Yếu tố ảnh
hưởng có phải là thước đo chính xác về tầm quan trọng của một tạp chí? Khi tính
các trích dẫn, chỉ những bài báo được công bố trong hai năm qua, mặc dù nhiều bài
báo nghiên cứu có thể có ảnh hưởng trong hơn hai năm. Ngoài ra, các bài viết như
bài báo và bài xã luận mà một số tạp chí xuất bản không được tính trong mẫu số của
yếu tố ảnh hưởng, nhưng trích dẫn cho những bài báo đó có thể được đưa vào tử số,
làm tăng hệ số tác động của các tạp chí xuất bản các loại bài báo đó. [31]
Ngoại ngữ: là tiếng nước ngoài. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người, là thực hiện trực tiếp của tư duy, là cái vỏ vật chất chứa
đựng, bảo tồn vốn văn hóa của loài người nói chung và mỗi dân tộc nói riêng. Với
tư cách là phương tiện giao tiếp riêng. Với tư cách là phương tiện giao tiếp chung
của mỗi cộng đồng dân tộc, ngôn ngữ tồn tại và hoạt động thông qua từng cá nhân,
được cá nhân tiếp thu, lựa chọn, vận dụng theo cách riêng của từng người là một bộ
phận quan trọng hợp thành nhân cách và phản ánh khá đầy đủ, khá trung thực trình
độ tư duy, trí tuệ, văn hóa của người đó. Song năng lực ngôn ngữ của một người
không tự nhiên mà có. Tiếng nói được truyền lại, nuôi dưỡng và phát triển ngay từ
những lời ru đầu tiên của mẹ (nên gọi là tiếng mẹ đẻ), rồi trải qua năm tháng học
tập, rèn luyện mới trở thành phương tiện giao tiếp của từng người. Bởi vậy ngôn
ngữ trong giáo dục thế hệ trẻ được đặt vào vị trí đặc biệt quan trọng, vì nó là
phương tiện chủ yếu chuyển tải tri thức mọi mặt, là công cụ phát triển tư duy, giao
lưu tư tưởng và tình cảm của con người. Nhưng giáo dục ngôn ngữ không phải là
nhiệm vụ của một môn học, của riêng giáo viên tất cả các bộ môn, của các cơ quan
truyền thông đại chúng vv. Có điều là giáo dục ngôn ngữ ở bất cứ đâu, do bất cứ ai
13
thực hiện đều phải hướng theo những chuẩn mực ngôn ngữ của dân tộc trên tất cả
các mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, tu từ. [2, tr. 285-286]
Chất lƣợng học ngoại ngữ là một phạm trù rất khó định nghĩa và đo lường,
bởi vì không/chưa có một định nghĩa nhất quán [28, tr. 22-23]. Thật ra, ngay cả
danh từ “chất lượng” (hay quality theo tiếng Anh) trong bối cảnh giáo dục đại học
hiện nay cũng đã mù mờ. Theo các chuyên gia đầu ngành về chất lượng giáo dục,
chất lượng có thể được nhìn nhận qua năm khía cạnh: “Chất lượng được ngầm hiểu
là chuẩn mực cao (high standard), chất lượng đề cập đến nhất quán và không sai
sót trong việc thực thi một công tác giáo dục và đào tạo, chất lượng là hoàn tất
những mục tiêu đề ra trong kế hoạch của nhà trường, chất lượng là đo lường phản
ánh thành quả thu được xứng đáng với đầu tư và chất lượng là một quy trình liên
tục để khách hàng (tức SV) có thể đánh giá sự hài lòng của họ khi theo học.” [33].
Qua những cách hiểu về chất lượng như trên, chúng ta thấy kiểm định chất lượng
bằng những đo lường cụ thể không phải là một việc làm đơn giản. Ch ng hạn như
thế nào là một tiêu chuẩn cao, hay thế nào là hoàn thành những mục đích? Làm sao
để đo lường những khía cạnh trên? Hàng loạt vấn đề mang tính phương pháp học
đặt ra.
Đại học là trình độ đào tạo thuộc bậc giáo dục đại học được thực hiện từ 4
đến 6 năm học theo ngành nghề đào tạo đối vời người có bằng tốt nghiệp THPT
hoặc trung học chuyên nghiệp, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp cao đ ng cùng chuyên ngành. Người có học vấn đại học phải có kiến thức
chuyên môn và kỹ năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. Học vấn đại học có tính
chuyên nghiệp cao gồm các kiến thức khoa học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa học
chuyên ngành, những kinh nghiệm kỹ năng hoạt động nghề nghiệp, hoạt động
nghiên cứu khoa học - công nghệ trong từng ngành khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã
hội. Các cơ sở đào tạo trình độ đại học có thể là các trường đại học chuyên ngành,
đa ngành, đa lĩnh vực, có thể là học viện hoặc viện đào tạo như: Đại học Thủy lợi,
Đại học Nông nghiệp, Đại học Bách khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Xã
14
hội và Nhân văn, Học viện Hành chính, Học viện Quân y, Viện Đại học Mở vv.
Người thi đạt trình độ đại học được cấp bằng tốt nghiệp đại học với các tên gọi: cử
nhân (đối với các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế), kỹ sư (đối với các
ngành kỹ thuật), kiến trúc sư (đối với ngành kiến trúc), bác sĩ, dược sĩ (đối với
ngành y dược). [2, tr. 71]
Sinh viên là người học của một cơ sở giáo dục cao đ ng, đại học. Có thể
phân loại sinh viên đại học theo những phạm trù khác nhau. Thí dụ: sinh viên tập
trung, sinh viên chính quy, sinh viên không tập trung, sinh viên tại chức, sinh viên
tự do vv. Do nhu cầu thống kê, người ta phân biệt sinh viên thông thường và sinh
viên thuộc hệ thống giáo dục không chính quy (giáo dục thường xuyên) và có một
hệ số quy đổi từ sinh viên không chính quy sang sinh viên chính quy. [2, tr. 343]
Giảng viên là chức danh nghề nghiệp của nhà giáo trong các cơ sở giáo dục
đại học và sau đại học, dưới giáo sư, phó giáo sư và giảng viên chính. Là tên gọi
chung chỉ những người làm công tác giảng dạy ở các trường đại học, cao đ ng, các
lớp đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Giảng viên chính là chức danh nghề
nghiệp của nhà giáo trong các cơ sở giáo dục đại học và sau đại học, trên giảng
viên, dưới giáo sư và phó giáo sư. [2, tr. 103]
Giảng dạy là hoạt động truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho người học của nhà
giáo. Giảng dạy luôn đi đôi gắn liền với hoạt động học tập của học sinh và hợp
thành hoạt động dạy - học trong lĩnh vực sư phạm. [2, tr. 101]
Mục đích, mục tiêu là khái niệm được dùng trong lĩnh vực GD (giáo dục).
Hai khái niệm này cùng dùng trong một chu trình, đều nói đến kết quả mong muốn
đạt được của hoạt động GD, giảng dạy, học tập. Mục đích GD chủ yếu nói về sự
hướng tới nơi muốn đạt được trong thực tế, cho nên phải cụ thể hơn mục đích, phải
được thiết kế sao cho mục tiêu GD làm được chức năng chỉ đạo cách tổ chức thực
hiện các quy trình GD, đồng thời làm được chức năng đánh giá kết quả đào tạo một
cách chuẩn xác. Trong nhiều trường hợp mục tiêu giáo dục phải lượng hóa được,
quan sát được, thì mới làm được hai chức năng trên. [2, tr. 267]
15
Thang điểm là hệ thống phân loại các tiêu chí đánh giá về kết quả học tập và
rèn luyện của học sinh thể hiện bằng các con số thập phân từ 1 đến 100 gọi là điểm.
Ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám dùng thang điểm từ 1-20, trong những
năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc áp dụng thang điểm 1-5, còn hiện nay
đang dùng thang điểm 1-10. Tất cả đều theo giá trị tăng tiến từ 1 (thấp nhất) đến
điểm số cao nhất trong mỗi thang kể trên. [2, tr. 362]
Chứng chỉ là giấy chứng nhận trình độ văn hóa, nghiệp vụ do các cơ quan
giáo dục, đào tạo cấp cho người đã hoàn thành chương trình đào tạo bồi dưỡng từng
phần, từng chuyên đề. Chứng chỉ có hiệu lực và giá trị pháp lí hạn chế. Thí dụ:
chứng chỉ tin học, ngoại ngữ, triết học vv. [2, tr. 53]
Như vậy theo hướng nghiên cứu đề tài chúng tôi thì chất lượng học ngoại
ngữ (đặc biệt là tiếng Anh) ở đại học luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều
đối tượng dù có tham gia hoặc không tham gia vào quá trình giáo dục. Ngoài áp lực
của việc số lượng người học ngày càng tăng dẫn đến sụt giảm về chất lượng, áp lực
của xã hội đang biến đổi và quá trình cạnh tranh khiến cho những nhà tuyển dụng
luôn đòi hỏi chất lượng đầu ra của giáo dục cao (đặc biệt là sử dụng tiếng Anh trong
giao tiếp với khách hàng) để đền bù chi phí tiền lương. Chất lượng học ngoại ngữ
cũng luôn là một vấn đề đối với chính phủ và các cơ quan, nơi hoạch định các chính
sách giáo dục và nghiên cứu giáo dục. Chất lượng học ngoại ngữ (đặc biệt là Tiếng
Anh) luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các trường đại học, và việc phấn đấu
nâng cao chất lượng đào tạo (đặc biệt ngoại ngữ là Tiếng Anh) bao giờ cũng được
xem là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào. Mặc dù có
tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng học ngoại ngữ vẫn là một khái niệm khó
định nghĩa, khó xác định, khó đo lường, và cách hiểu của người này cũng khác với
cách hiểu của người kia. Nhưng theo đề tài chúng tôi chất lượng học ngoại ngữ (đặc
biệt là Tiếng Anh) được thể hiện qua một kỳ kiểm tra của Viện Khảo thí giáo dục
Hoa Kỳ (Educational Testing Service - ETS), kì thi này được lập ra nhằm đánh giá
trình độ thông thạo tiếng Anh của các đối tượng sử dụng ngôn ngữ này như một
ngoại ngữ. Trước đây, chỉ có các công ty tập đoàn mới cần đến kì thi TOEIC, nhưng
16
- Xem thêm -