Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình s...

Tài liệu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự việt nam

.PDF
150
430
112

Mô tả:

Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Trí Chinh Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2010 Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Trí Chinh Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Lợi Hà nội - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật 8 hình sự Việt Nam 1.1. Khái niệm về môi trường 8 1.2. Khái niệm tội phạm về môi trường 10 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật hình sự 13 1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam 27 1.4.1. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985 29 1.4.2. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1999 31 1.5. Những quy định về tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 36 1.5.1. Pháp luật của Thái Lan 37 1.5.2. Pháp luật Mailaixia 38 1.5.3. Pháp luật Singapo 40 1.5.4. Pháp luật Inđônêxia 41 1.5.5. Pháp luật Philippin 42 Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt 45 Nam và thực tiễn áp dụng 2.1. Các qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 45 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm về môi trường 46 2.1.1.1. Khách thể của tội phạm về môi trường 46 2.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường 48 2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường 52 2.1.1.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường 54 2.1.1.5. Hình phạt đối với các tội phạm môi trường 55 2.2. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường 78 2.2.1. Thực trạng, nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường 78 2.2.2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về môi trường 86 Chương 3: 100 NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường 100 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường 107 3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường 107 3.2.2. Hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm môi trường 120 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật 121 3.2.3.1. Đối với Cơ quan điều tra 121 3.2.3.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân 126 3.2.3.3. Đối với Tòa án nhân dân 129 3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm về môi trường 132 3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật về tội phạm môi trường 133 3.3.2. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực tội phạm về môi trường 134 3.3.3. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường 135 KẾT LUẬN 137 Danh mục tài liệu tham khảo 139 Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang Kết quả thực hiên kế hoạch Thanh tra môi trường của Bộ Tài 88 bảng 2.1 nguyên và Môi trường từ năm 2005 đến năm 2009 2.2 Thống kê về các tội phạm và vi phạm pháp luật về môi 92 trường từ ngày 01/12/2009 đến ngày 31/5/2010 2.3 Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử chương môi 93 trường năm 2007 - 2008 - 2009 - 06 tháng năm 2010 2.4 Thống kê số vụ án và bị cáo phạm các tội về môi trường 95 trong cả nước mà Toà án đã thụ lý và xét xử từ ngày 01/01/2001 đến ngày 31/7/2010 Danh mục các biểu đồ Tên biểu đồ Trang Mức độ tăng, giảm các vụ án, số bị can đối với các tội 93 Số hiệu biểu đồ 2.1 phạm về môi trường 2.2 Mức độ tăng, giảm các vụ án và bị cáo về các tội phạm về môi trường 95 Mở đầu 1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu được nhiều thành tựu. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này được thể hiện không chỉ ở việc các lần pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người những thảm hoạ của thiên nhiên có thể xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt... Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đã trở nên vô cùng cấp thiết được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận là môi trường nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu nhất thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà các thế hệ người Việt Nam sẽ phải gánh chịu bây giờ và trong tương lai. Đặc biệt trong thời gian gần đây các phương tiện truyền thông đã nêu tên nhiều doanh nghiệp đã vi 1 phạm nghiêm trọng pháp luật về môi trường như: Công ty VEĐAN, MIWON... Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã đề ra nhiều giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách để bảo vệ môi trường, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hoà bình tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Bảo vệ môi trường vừa là quyền vừa là nghĩa vụ và là trách nhiệm của cả cá nhân và tổ chức. Hiến pháp 1992 quy định: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường" [27]. Để cụ thể hoá quy định của Điều 29 Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp hình sự. Bộ luật Hình sự năm 1999, đã có riêng Chương XVII quy định Các tội phạm về môi trường. Việc tội phạm hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm tới môi trường quy định trong Bộ luật này đã tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm hại đến lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, do các hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm này ngày càng đa dạng, phức tạp có sự biến đổi liên tục, việc xử lý về hình sự gặp nhiều khó khăn, bất cập mà một trong những nguyên nhân chính là do những bất cập trong cấu thành của các tội phạm về môi trường, thể hiện ở chỗ cấu thành của nhóm tội gây ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có đồng thời ba yếu tố mới xử lý hình sự được: Hành vi thải chất gây ô nhiễm môi trường trước đó đã bị xử phạt hành chính; người bị xử phạt hành chính cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục; do không thực hiện biện pháp khắc phục mà gây ra hậu quả nghiêm trọng. Quy định này đã hạn chế khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm này, bởi lẽ, việc chờ cho đủ cả ba yếu tố nói trên là rất khó khăn, nhất là trong việc xác định hậu quả về môi trường. Có nhiều 2 trường hợp hậu quả không thể xảy ra ngay mà sau một thời gian dài, có thể vài chục năm sau, khi đó thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường đã hết. Ngoài ra, trong thực tiễn đã nảy sinh một số loại vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường có khả năng gây hậu quả rất lớn cho sức khoẻ, tính mạng con người, nhưng hiện vẫn chưa được hình sự hoá, chẳng hạn: hành vi mua bán, tái chế rác thải y tế hoặc rác thải công nghiệp chưa qua xử lý để sản xuất vật dụng tiêu dùng v.v... Trong nhiều vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn có ý kiễn khác nhau khi xác định về mặt tội danh đối với nhóm tội này. Thậm chí, có vụ án còn gây ra các cuộc tranh luận giữa các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu khoa học và những người áp dụng pháp luật. Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý các vụ phạm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Do đó, tôi đã chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phấn đấu đạt được mục tiêu đó, trong quá trình thực hiện phải tuân thủ các nguyên lý cơ bản và quy luật khách quan của sự phát triển bền vững: phát triển phải có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; phải quan tâm đúng mức hơn nữa các yêu cầu bảo vệ môi trường trong phát triển cho đúng với vai trò và tầm quan trọng của nó. Thực tế, vấn đề vi phạm pháp luật về môi trường đang diễn ra rất nghiêm trọng và phổ biến, gây hậu quả tiêu cực nhiều mặt đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. VÒ tội phạm về môi trường đã có nhiều bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: "Lực 3 lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường", của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an (6/2007); "Công tác phòng, chống tội phạm về môi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cÊp Nhà nước: "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phòng, chống", do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân làm chủ nhiệm (2006); Đề tài Khoa học: "Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", do TS. Phạm Văn Lợi, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp lµm chñ nhiÖm (2003); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 2002... Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về tội phạm môi trường mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể. Hơn nữa, vấn đề về tổ chức, cán bộ theo dõi, phát hiện, đấu tranh và xử lý tội phạm về môi trường cũng như lý luận các tội phạm về môi trường còn nhiều bất cập; việc phối kết hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường còn chưa chặt chẽ..., trong khi đó, tội phạm môi trường diễn biến dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích của luận văn trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự đối với nhóm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết một số vấn đề như sau: 4 - Giải quyết một số vấn đề lý luận chung đối với tội phạm về môi trường; - Phân tích cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường; - Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường, những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm về môi trường; - Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tội phạm về môi trường. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định về tội phạm môi trường trong chương XVII "Các tội phạm về môi trường" của Bộ luật Hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật Hình sự năm 1999; quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật hình sự đối với nhóm tội về môi trường và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong đề tài được viện dẫn từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường; báo cáo công tác của Cục Cảnh sỏt phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và một số báo cáo chuyên đề về môi trường. 4. Phương pháp nghiên cứu 5 Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về tội phạm, về đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và các tội phạm về môi trường nói riêng. Đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết, các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về các tội phạm về môi trường; các phương pháp mà luận văn đã vận dụng như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh; chuyên gia; khảo sát thực tế; thống kê hình sự... 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở khái quát các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường; tham khảo chính sách hình sự của một số nước về tội phạm môi trường, để từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm và hạn chế của lý luận cũng như thực trạng của công tác đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực môi trường; giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. 6. Điểm mới của luận văn Đề tài khoa học làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam. Điểm mới của luận văn gồm: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam; - Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến nhóm các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam; 6 - Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường; - Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường. 7 Chương 1 Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam 1.1. Khái niệm về môi trường Môi trường là một khái niệm có nội hàm rất rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự kiện là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại trong một môi trường. Khái niệm môi trường được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu. Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường được định nghĩa như sau: Môi trường la toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Chương trình hành động của Cộng đồng Châu Âu về môi trường định nghĩa: Môi trường là tổ hợp các yếu tố mà các quan hệ phụ thuộc, phức hợp của chúng tạo nên khung cảnh, hoàn cảnh xung quanh và các điều kiện mà cuộc sống của các cá thể và của xã hội như là chúng ta đang tồn tại hoặc như là chúng ta đang cảm thấy tồn tại. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hình thức sinh tồn của 8 chúng. Vì thế, môi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác. Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì khái niệm môi trường được hiểu như sau: Môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật". Như vậy, môi trường là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội và sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật; môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con người, là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của con người, là nơi sinh sống và phát triển của xã hội loài người. Môi trường là nơi chứa đựng những tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động sản xuất và là nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của loài người, trong đó một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái tạo được. Đồng thời, môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người. Môi trường có các chức năng cơ bản sau: - Môi trường là không gian sinh tồn của con người: con người cần một không gian để sống và những điều kiện nhất định về chất và lượng để sinh hoạt và sản xuất... Môi trường tạo ra cho con người những giá trị phúc lợi, những giá trị cảnh quan thẩm mỹ. Con người chỉ tồn tại và phát triển trong không gian, môi trường thích hợp. - Môi trường là nơi cung cấp các tài nguyên, kể cả vật liệu và năng lượng: Tài nguyên được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì có trong tự nhiên và trong xã hội có thể phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động khác của con nguời. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh 9 doanh, con người cần phải khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên có trong môi truờng. - Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải của mọi quá trình sản xuất và tiêu dùng: Mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên đến sản xuất và tiêu dùng đều có phế thải, có thể thải trực tiếp ra môi trường ở dạng rắn, lỏng, khí. Trong đó có một số chất thải có ích, có thể xử lý để tái sử dụng nhưng có những chất thải không thể xử lý để tái sử dụng mà cần phải tiêu huỷ. - Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất. - Môi trường là nơi lưu giữ và cung cấp thông tin cho con nguời. Như vậy, môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con người, là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của con người, là nơi sinh sống và phát triển của loài người. Môi trường luôn biến đổi bởi hoạt động của sinh vật và tiến hoá của tự nhiên. Trong đó, con người đang có những tác động mạnh mẽ nhất. Con người không thể bảo tồn được nguyên dạng nhưng luôn phải đảm bảo các chức năng trên để giữ vững cân bằng sinh thái môi trường. 1.2. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề của trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường là cơ sở phương pháp luận cho quá trình lập pháp đối với loại tội phạm này. Trong trường hợp không có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng được các hình thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa. 10 Trong các tài liệu nghiên cứu có một số khái niệm tội phạm về môi trường, song vẫn còn có những điểm chưa hoàn toàn rõ ràng hoặc đầy đủ. Một số tác giả cho rằng: "Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái" [24, tr. 320]. Trong khái niệm này có hai điểm chưa được rõ ràng: Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra đặc trưng hết sức quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà luật học công nhận: "tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự". Cũng chính vì lý do này nên khái niệm trªn chưa hoàn toàn chính xác. Không ai nghi ngờ "Hành vi nguy hiểm cho xã hội" là đặc trưng chung của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật v.v..., vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường. Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội và lợi ích xã hội bị xâm hại và được chỉ ra rất rõ ràng trong ĐiÒu 1 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Đối tượng của tội phạm là những vật của thế giới khách quan mà hành vi phạm tội trực tiếp tác động đến. Trên cơ sở phân tích này, có thể khẳng định "sự bền vững và ổn định của môi trường" là đối tượng chung của các tội phạm về môi trường và việc đưa đối tượng này vào khái niệm là chưa hoàn toàn xác đáng vì có thể dẫn tới đồng nhất với khách thể "các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi trường". 11 Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đã được đưa vào giáo trình giảng dạy. Giáo trình của Trường §¹i häc Luật Hà Nội cho rằng: "Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về b¶o vÖ môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường" [20, tr. 133]. Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn thêm: - Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường trong giáo trình Luật Hình sự của Trường §¹i häc Luật Hà Nội chưa tạo ra được sự khác biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Có thể khẳng định rằng: hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi trường và có khả năng gây hậu quả bất lợi cho môi trường. - Việc đưa "thiệt hại cho môi trường" vào trong khái niệm tội phạm về môi trường có thể dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố "thiệt hại" trong cấu thành tội phạm chỉ bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu thành hình thức khẳng định việc tội phạm đã được thực hiện (hoàn thành) ngay khi đã thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc "gây thiệt hại cho môi trường" trong khái niệm có thể dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: "tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất". Trên thực tế không phải như vậy, một số tội phạm về môi trường có cấu thành hình thức như: Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 185), Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên bảo vệ (Điều 190).). - Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rõ khách thể bị xâm hại. Có thể nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể giúp phân biệt với các tội phạm khác. Ngay khái niệm chung về tội phạm tại ĐiÒu 8 Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng liệt kê những khách thể mà 12 tội phạm theo luật hình sự Việt Nam xâm hại đến. Trong quá trình xây dựng khái niệm một loại tội phạm cụ thể, để đặc trưng loại tội phạm này, đồng thời xác định giới hạn, cần chỉ rõ khách thể chính. Việc xây dựng khái niệm tội phạm về môi trường phức tạp còn do cấu trúc của chế định pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường không trùng khớp với hình thức biểu hiện trong Bộ luật Hình sự. Hệ thống các tội phạm về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong Bộ luật Hình sự không hề tồn tại. Nhận định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trong chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường. Ví dụ như: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (ĐiÒu 172), Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (ĐiÒu 173), Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (ĐiÒu 174), Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (ĐiÒu 175), Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (ĐiÒu 176), được đưa vào Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế". Tuy nhiên, việc sắp xếp như nêu trên trong Bộ luật Hình sự về cơ bản cũng hợp lý vì khách thể chính của các tội phạm (từ ĐiÒu 172 đến ĐiÒu 176) là các quan hệ trong lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước. Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm đối với khái niệm tội phạm về môi trường như sau: Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về bảo vệ môi trường. Có thể coi đây là khái niệm tội phạm về môi trường theo nghĩa rộng, còn khái niệm tương ứng theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Chương XVII "Các tội phạm về môi trường". 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật hình sự 13 Thứ nhất, trong những thập kỷ gần đây vấn đề bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những vấn đề của thời đại được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt chú trọng. Đã có nhiều giải pháp mang tính tổng thể ở phạm vi quốc tế đã được đưa ra. Năm 1992 Liên hợp quốc đã thông qua "Công ước về bảo vệ môi trường", "Tuyên ngôn của trái đất" và "Môi trường trong thế kỷ XXI". Cùng với xu thế chung của nhân loại, Việt Nam ngày càng coi trọng hơn sự nghiệp bảo vệ môi trường, đã và đang thực hiện nhiều giải pháp khác nhau, vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cụ thể để bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ và đầy triển vọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng đi kèm với những thành tựu đó lại phát sinh một vấn nạn rất đáng báo động có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ổn định bền vững của đời sống kinh tế - xã hội nước ta, đó là nạn ô nhiễm môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường đã được Nhà nước quan tâm. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã ý thức ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo vệ môi trường và do vậy đã ghi nhận điều đó ở Hiến pháp năm 1992 của nước ta (Điều 29) đã quy định rõ: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường [27]. Trên cơ sở quy định hiến định đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phòng chống, xử lý triệt để các hành vi xâm hại đến môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp pháp lý hình sự. Trong Bộ luật 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan