Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những nguyên lí cơ bản chủ nghĩa mác leenin i...

Tài liệu Những nguyên lí cơ bản chủ nghĩa mác leenin i

.DOCX
11
433
140

Mô tả:

QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
A. LỜI NÓI ĐẦU Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra ttrong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kì “phủ định của phủ định”. Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật này sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. Bởi vậy trong quá trình nhận thức và thực tiễn cần phải hiểu đúng quy luật của sự thay thế đó. Cũng chính vì lí do này mà em xin lựa chọn đề tài “Quy luật phủ định của phủ định và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn”. Bài làm của em còn nhiều thiếu sót, em rất kính mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! A. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH 1.1. Phủ định, phủ định biện chứng Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Phủ định siêu hình là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, là sự phủ định sạch trơn, là sự chấm dứt của một sự vật nào đó và nó không có ý nghĩa gì đối với sự phát triển. Mọi quá trình vận động và phát triển trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những phủ định tạo tiền đề cho quá trình phát triển. Những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng được gọi là sự phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là phạm trù dung để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân lám mắt khâu trong một quá trình dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn cái cũ. Phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không chỉ sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng với hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa. Phủ định biện chứng mang tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật hiện tượng để có sự thay đổi về chất; tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân nó.Vì vậy, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định, nó diễn ra ngoài ý muốn chủ quan của con người. Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà trái lại trên cơ sở những hạt nhân hợp lí của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. Sự ra đời của cái mới giữ những cái tích cực của cái bị phủ định nhờ đó cái mới có tiền đề để nảy sinh. Chính vì vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ với cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiên tượng. 1.2. Phủ định của phủ định Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kì theo hình thức xoáy ốc. Phủ định biện chứng là một giai đoạn, một nấc thang của sự phát triển. Sau phủ định lần một cái mới ra đời chứa đựng ở trong nó những nhân tố dẫn tới sự phủ định lần hai. Sau phủ định lần hai xuất hiện cái mới phủ định cái mới ở bước trung gian, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn, thể hiện rõ bước tiến của sự vật. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng. Mỗi chu kì phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kì lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kì đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng. Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình thức con đường xoáy ốc. V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: “Sự phát triển hình như diễn ra tại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”. Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những vòng khâu của quá trình đó. Tóm lại nội dung của quy luật phủ định của phủ định bao gồm: Một là mối liên hệ tất yếu, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định. Hai là không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ hoàn toàn sự phát triển trước đó mà là điều kiện cho sự phát triển. Ba là duy trì gìn giữ những nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng ở một trình độ cao hơn. Bốn là sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc. Ph.Ăngghen đã nhận xét về vai trò của quy luật này: “…phủ định của phủ định là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và tư duy”. 1.3. Ý nghĩa phương pháp luận Quy luật phủ định của phủ định giúp ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co phức tạp, gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Chu kì sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kì trước đó. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với nhu cầu nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta trog thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng. Quy luật phủ định của phủ định giúp ta phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, đấu tranh góp phần xóa bỏ cái cũ cái lạc hậu bởi vì cái mới nhất định sẽ thay đổi cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định. Đồng thời phải chống lại tư tưởng phủ định sạch trơn bời vì cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những cái tích cực của cái cũ. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cái tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo khuynh hướng tiến bộ. CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀO VIỆC NHẬN THỨC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI CHO ĐẾN NAY 2.1. Phủ định biện chứng trong quá trình phát triển của xã hội loài người: Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Thực tế lịch sử loài người có sự xuất hiện của ba hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải xã hội là công hữu ở xã hội nguyên thủy; tư hữu ở xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản; và công hữu ở xã hội chủ nghĩa. Sự vận động thay thế nhau của các chế độ sở hữu trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình phủ định biện chứng của lịch sử tự nhiên của xã hội. Sự tác động của các quy luật khách quan như các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, tài chính, kinh tế,về truyền thống văn hoá, quan hệ sản xuất.v.v… làm các chế độ sở hữu vận động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì sự giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Nó vừa đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao – đó là con đường phát triển chung của nhân loại. 2.2. Phủ định của phủ định trong quá trình phát triển của xã hội loài người: Xã hội loài người phát triển và tồn tại dưới ba hình thức cơ bản là Chế độ công hữu (hình thái cộng sản nguyên thủy); chế độ tư hữu (hình thái chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản); chế độ công hữu (hình thái cộng sản chủ nghĩa). Như vậy con đường của sự phát triển của xã hội loài người cho đến nay không phải là một đường thẳng mà là con đường xoắn ốc từ chế độ công hữu đến tư hữu rồi lại về công hữu. Chế độ tư hữu phủ định chế độ công hữu lần thứ nhất, làm chế độ công hữu cộng sản nguyên thủy bị sụp đổ. Chế độ công hữu lần thứ hai trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phủ định chế độ tư hữu, quay trở lại chế độ công hữu nhưng không còn là chế độ công hữu ban đầu mà nó phát triển ở một tầm cao hơn, tiến bộ hơn, tích cực hơn rất nhiều. Cụ thể như sau: 2.2.1. Chế độ công hữu trong xã hội cộng sản nguyên thủy Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của lịch sử nhân loại. Xã hội nguyên thuỷ có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người thì chưa có nhận thức đúng đắn về môi trường thiên nhiên cũng như bản thân mình. Con người trong xã hội nguyên thuỷ sống dựa vào nhau để cùng lao động, cùng hưởng thụ những thành quả lao động của mình. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không có ai có tài sản riêng vì thế mà không có sự phân biệt giàu nghèo và không có giai cấp. Tổ chức thị tộc có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều tự do, bình đẳng, không có đặc quyền đặc lợi dành cho riêng một cá nhân nào. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý đơn giản các công việc của thị tộc nhưng cũng mới chỉ mang tính xã hội chứ chưa mang tính giai cấp. Quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà hoà nhập và gắn liền với xã hội, nó phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng. Hội đồng thị tộc xuất hiện để tổ chức và quản lý thị tộc. Hội đồng quyết định tất cả những vấn đề quan trọng như tổ chức lao động, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giải quyết những tranh chấp nội bộ…; quyết định của hội đồng là ý chí chung của thành viên và trở thành bắt buộc đối với mọi người trong thị tộc. Đứng đầu hội đồng thị tộc là những tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự…để thực hiện quyền lực và quản lý những công việc chung. 2.2.2. Chế độ tư hữu ra đời, phủ định chế độ công hữu lần thứ nhất: Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất tạo tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đòi hỏi sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế bằng sự phân công lao động xã hội, giúp cho năng suất lao động và số lượng sản phẩm tăng lên, vì thế mà xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã có sản phẩm dư thừa và tích luỹ. Đó là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu.Việc tồn tại các tầng lớp người khác nhau trong xã hội là tiền đề cho sự xuất hiện của một xã hội có giai cấp. Khi tồn tại xã hội có giai cấp thì nhà nước xuất hiện. Đó là một bước tiến dài trong quá trình phát triển và tiến hoá của lịch sử nhân loại. Từ những bầy người nguyên thuỷ sống hoang dã con người đã phát triển thành một xã hội có tổ chức, từ bóng tối loài người đã bước ra ánh sáng của sự phát triển và tiến bộ. Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô có quyền tư hữu cả về tư liệu sản xuất và của cải tạo ra. Đến hình thái kinh tế xã hội phong kiến có giai cấp thống trị mới là quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. Quyền tư hữu về tư liệu sản xuất và của cải tạo ra ở đây vẫn nằm phần lớn trong tay giai cấp thống trị nhưng so với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đến hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, xuất hiện đầu tiên ở châu Âu. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái này là: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của con người; cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế; gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao; bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động. 2.2.3. Chế độ công hữu lần thứ hai ra đời, phủ định chế độ tư hữu trên cơ sở tiếp thu những cái tiến bộ và phát triển cao hơn về kinh tế và xã hội Ở chế độ tư hữu, sản phẩm do người công nhân làm ra thuộc về địa chủ và nhà tư bản – những người có đặc quyền không phải lao động và ở đâu cũng đều ở trên công nhân và định pháp luật cho công nhân, bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất. Mác gọi những người này là những người sở hữu. Còn người công nhân, trong thực tế, chỉ nhận được một phần rất nhỏ bởi người công nhân không có sở hữu về tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt xã hội nên phải làm thuê để nhận một khoản tiền công ít ỏi, không tương xứng với lao động của họ. Do đó mâu thuẫn giữa lao động và tư bản xuất hiện, tạo tiền đề cho sự trở lại của chế độ công hữu. Cụ thể là trong hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa - hình thái phát triển cao nhất của xã hội, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, nền kinh tế làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu với trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Những đặc trưng cơ bản chế độ công hữu ở hình thái kinh tế xã hội này là: Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại gắn liền với lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao: năng suất lao động cao, tạo ra nhiều của cải vật chất đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa của người dân. Thứ hai là thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu: xóa bỏ những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, giúp gắn bó các thành viên trong xã hội với nhau vì lợi ích căn bản. Thứ ba là chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới: phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động và xóa bỏ tàn sư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ. Thứ tư là chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: cơ sở cho công bằng xã hội. Thứ năm là cộng sản chủ nghĩa có nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, mang bản chất nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển, người lao động cũng đồng thời là người quản lí. Như vậy cho đến nay xã hội loài người đã trải qua một chu kì từ chế độ công hữu nguyên thủy đến chế độ tư hữu rồi đến chế độ công hữu chủ nghĩa qua năm hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Đi kèm với đó là những tiến bộ về khoa học công nghệ; quan hệ sản xuất bình đẳng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu; đời sống vật chất và tinh thần ngày càng văn minh tiến bộ; mọi người trong xã hội bình đẳng trong mọi quan hệ, có quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc… Sự phát triển của xã hội đến chế độ công hữu cộng sản chủ nghĩa là kết quả sau hai lần phủ định nhưng đó không phải sự phủ định sạch trơn, bác bỏ những nền tảng của chế độ xã hội trước đó mà là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai; duy trì và gìn giữ những nét văn hóa tốt đẹp, những thành tựu kinh tế xã hội và khoa học công nghệ, những mối quan hệ xã hội tích cực ở một cấp bậc tiến bộ hơn. 2.3. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định vào việc nhận thức về quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội loài người cho đến nay Rõ ràng việc vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay giúp ta nhận thức đúng đắn về bản chất việc sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải lao động tạo ra qua các chế độ xã hội. Đồng thời cần nhìn nhận đúng tư tưởng tiến bộ về con người, xã hội…; biết tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại để đấu tranh xóa bỏ những tư tưởng, nền kinh tế lạc hậu, kìm hãm sự phát triển, quyền tự do cá nhân của con người; chống lại thái độ bảo thủ cản trở sự phát triển của một số bộ phận trong xã hội. Song song với đó là việc các nhà nước và xã hội cùng cố gắng phát triển nền kinh tế đa thành phần, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ lao động, chất lượng khoa học công nghệ, chống chiến tranh, đánh bom khủng bố… góp phần cải biến và đưa xã hội loài người đi đến những bước tiến xa hơn trong chu kì phát triển xoắn ốc đa dạng và phức tạp. C.KẾT LUẬN Quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa rất quan trọng. Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Cần vận dụng một cách hợp lí quy luật này vào cuộc sống để tìm ra, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa, kinh tế xã hội, khoa học công nghệ tiến bộ đồng thời bác bỏ, bài trừ những tư tưởng lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của con người và xã hội. Từ đó góp phần thúc đẩy xã hội loài người vươn tới những nấc thang tiến bộ, công bằng, văn minh hơn trong chu kì phát triển của nó. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2004 2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2015 3. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật, nhà xuất bản Công an nhân dân 2014 4. Wikipedia, Quy luật phủ định https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_lu%E1%BA%ADt_ph%E1%BB%A7_ %C4%91%E1%BB%8Bnh 5. Theo http://thewaytoipl.blogspot.com/ Năm hình thái kinh tế xã hội http://thewaytoipl.blogspot.com/2012/06/tan-man-tu-tuong-hcm-5-hinh-thaikinh.html 6. Công hữu, tư hữu và hình thái xã hội loài người http://bshohai.blogspot.com/2011/01/cong-huu-tu-huu-va-hinh-thai-xa-hoi.html
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng