Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII...

Tài liệu Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII

.PDF
133
629
77

Mô tả:

§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X¡ HéI Vµ NH¢N V¡N --------------------*--------------- NGUYÔN V¡N CHUY£N NH÷NG NG¦êI N¦íC NGOµI ë TH¡NG LONG - KÎ CHî THÕ Kû XVII LUËN V¡N TH¹C SÜ LÞCH Sö Hµ NéI - 2013 1 §¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC X· HéI Vµ NH¢N V¡N --------------------*--------------- NGUYÔN V¡N CHUY£N NH÷NG NG¦êI N¦íC NGOµI ë TH¡NG LONG - KÎ CHî THÕ Kû XVII Chuyªn ngµnh: LÞch sö ThÕ giíi M· sè: 60 22 50 LUËN V¡N TH¹C SÜ LÞCH Sö Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn M¹nh Dòng Hµ Néi –2013 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 Chương 1. THĂNG LONG - CƠ SỞ, ĐỘNG LỰC THU HÚT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI .................................................................................................... 16 1.1. Đặc thù của Thăng Long- Kẻ Chợ ...................................................... 16 1.2. Người nước ngoài ở Thăng Long trước thế kỷ XVII .......................... 28 1.3. Nhân tố mới Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII ................................ 36 Tiểu kết ..................................................................................................... 44 Chương 2. HOẠT ĐỘNG CỦA THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI Ở THĂNG LONG - KẺ CHỢ THẾ KỶ XVII ....................................................... 46 2.1. Hoạt động buôn bán của người Hoa ................................................... 47 2.2. Hoạt động của người Nhật ................................................................. 54 2.3. Hoạt động của người Bồ Đào Nha ...................................................... 58 2.4. Hoạt động của người Hà Lan ............................................................. 62 2.5. Hoạt động của người Anh .................................................................. 71 2.6. Hoạt động của người Pháp ................................................................. 77 Tiểu kết ..................................................................................................... 81 Chương 3. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC GIÁO SĨ KITÔ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở THĂNG LONG - KẺ CHỢ THẾ KỶ XVII ..................................................................................................... 83 3.1. Hoạt động truyền giáo và đời sống của giáo sĩ Kitô ........................... 83 3.2. Đời sống văn hóa - xã hội người Hoa, người Nhật và người phương Tây ............................................................................................. 100 Tiểu kết ................................................................................................... 109 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 114 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Trong dòng chảy lịch sử mỗi dân tộc, không có quốc gia nào phát triển mà không có mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Tiếp xúc và giao lưu đã trở thành một quy luật tất yếu, nhưng ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau, mức độ và cường độ tiếp xúc là không giống nhau. Việt Nam từ sớm đã có mối quan hệ kinh tế, văn hoá với các quốc gia láng giềng trong khu vực. Thế kỷ XVII, quan hệ khu vực và quốc tế được mở rộng, những người ngoại quốc từ những khu vực khác nhau trên thế giới đến nước ta. Sự hiện diện cùng với những hoạt động của họ đã tác động không nhỏ tới tình hình kinh tế - xã hội Đại Việt, minh chứng rõ nhất là sự hưng thịnh của những đô thị tiêu biểu như Thăng Long- Kẻ Chợ, Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An. Thăng Long- Kẻ Chợ trong so sánh với các đô thị khác ở Đàng Ngoài và Đàng Trong vẫn là một đô thị lớn nhất, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với các thương nhân ngoại quốc, các nhà truyền giáo. Sự hiện diện của những người nước ngoài không chỉ góp phần làm thay đổi diện mạo kinh tế, những giá trị văn hóa ở kinh đô mà còn tạo ra một hiệu ứng mạnh mẽ tới các vùng xung quanh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu, cho tới nay số lượng công trình còn tương đối hạn chế, nhiều vấn đề chưa sáng rõ, nhất là việc tổng hợp và hệ thống hóa toàn bộ bức tranh đời sống của những người nước ngoài ở đây. Với hy vọng đóng góp phần nghiên cứu của mình trong lĩnh vực này, tác giả lựa chọn đề tài Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII làm luận văn tốt nghiệp cao học. Nghiên cứu này có mục đích cơ bản sau: Thứ nhất, cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn về những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ trong một thế kỷ tiếp xúc Tây – Đông diễn ra mạnh mẽ. Họ cần gì, đã làm những gì và làm như thế nào tại mảnh đất kinh kỳ. Thứ hai, thế kỷ XVII cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn diễn ra tàn khốc và kéo dài. Tuy nhiên, trên phương diện kinh tế, thương nghiệp và thủ công nghiệp đạt nhiều thành tựu. Sự phát triển về kinh tế góp phần ngăn 6 chặn sự suy thoái của chế độ phong kiến Việt Nam. Thành tựu kinh tế thế kỷ XVII là kết quả phát triển nội tại trong nước từ thời kỳ nhà Mạc trước đó và bối cảnh mới của thời đại, trong đó có sự đóng góp đáng kể của những người nước ngoài. Nghiên cứu này cho phép chúng ta đánh giá được những đóng góp của họ trong kinh tế, văn hoá ở Thăng Long - Kẻ Chợ nói riêng Đàng Ngoài nói chung. Thứ ba, những người nước ngoài ở Thăng Long- Kẻ Chợ hẳn nhiên có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách đối ngoại của triều đình Lê- Trịnh. Vì vậy, việc tìm hiểu những người nước ngoài sẽ cung cấp những cơ sở cho phép chúng ta đánh giá chính sách thương mại, chính sách tôn giáo, nói rộng hơn là chính sách đối ngoại của chính quyền Lê- Trịnh thế kỷ XVII. Đề tài Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII có những ý nghĩa cơ bản sau: Thứ nhất, bổ sung cho nhận thức của chúng ta về mối quan hệ giữa Đại Việt với thế giới bên ngoài giai đoạn thế kỷ XVII, trong đó Thăng Long- Kẻ Chợ là trường hợp cụ thể và tiêu biểu. Kết quả đó đóng góp nhất định vào lĩnh vực nghiên cứu tiếp xúc và giao lưu giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài trong lịch sử. Thứ hai, tiếp xúc và giao lưu là một quy luật tất yếu, quá trình này để lại những hệ quả trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Hiểu được quy luật chung của lịch sử, hiểu được hệ quả của của tiếp xúc và giao lưu sẽ giúp ta nhìn nhận đúng đắn hơn về quá trình hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá của Việt Nam với thế giới, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, kết quả nghiên cứu hoạt động của các nhóm thương nhân, hoạt động truyền giáo, cũng như đời sống của những người nước ngoài trong các mối quan hệ đa dạng và đa chiều đem lại những bài học quý giá cho thương nhân, công tác tuyên truyền, đồng thời cũng gợi ra những vấn đề nên chú ý cho nhà cầm quyền hiện nay. 7 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Kinh đô Thăng Long là đối tượng đặc biệt hấp dẫn đông đảo giới nghiên cứu. Cho đến nay đã có hàng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ tái hiện nhiều lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Tuy nhiên, nghiên cứu về những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII còn tương đối hạn chế, những công trình nghiên cứu mới nhìn chung chỉ dừng lại ở mức độ tiếp cận từng nhóm đối tượng nhất định. Ở trong nước, từ những năm 60 thế kỷ XX xuất hiện một số công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu trên một số lĩnh vực. Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX của tác giả Thành Thế Vỹ (1961) được coi là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống về ngoại thương Việt Nam. Tác phẩm đề cập tới một số vấn đề cơ bản của ngoại thương Việt Nam, các nhóm thương nhân ngoại quốc, phân tích những mặt tích cực của việc thành lập các thương điếm của người phương Tây, quan hệ của họ với chính quyền sở tại. Nghiên cứu về lịch sử thương mại Viêt Nam trong thời gian gần đây được các nhà khoa học chú trọng và quan tâm hơn. Năm 2008, tác phẩm Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI – XVII ra đời. Tác phẩm là tập hợp nhiều bài viết của các tác giả khác nhau, tái hiện và phân tích nhiều mặt của ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVI-XVII. Gần như song song với một số nghiên cứu về kinh tế đối ngoại, từ cuối những năm 50 thế kỷ XX xuất hiện một số công trình nghiên cứu trên lĩnh vực văn hoá, đặc biệt là Kitô giáo ở Việt Nam như: Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam (tập 1: các Thừa Sai Dòng Tên 1615-1665) của Linh mục Nguyễn Hồng (1959), Việt Nam giáo sử của Phan Phát Huồn (1965), Lịch sử địa phận Hà Nội 1626-1954 của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên (1994), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam của Trương Bá Cần (2008). Những công trình nghiên cứu này đã phản ánh khá rõ về quá trình du nhập của Kitô giáo, hệ quả đối với văn hoá. Đặc biệt, công trình Lịch sử địa phận Hà Nội 1626-1954 của 8 Nguyễn Khắc Xuyên đã phác dựng lại quá trình du nhập của Kitô giáo vào vùng đất Thăng Long - Hà Nội. Năm 2010, nhân dịp kỉ niệm Đại lễ nghìn năm Thăng Long- Hà Nội, một loạt tác phẩm viết về Thăng Long- Hà Nội ra đời. Đề cập tới quan hệ đối ngoại có công trình Hoạt động đối ngoại trên đất Thăng Long – Hà Nội do PGS.TS. Phạm Xuân Hằng chủ biên. Công trình đã khái quát lịch sử đối ngoại của chính quyền Thăng Long với các nước trong khu vực, thế giới và hoạt động đối ngoại trên mảnh đất Thăng Long- Hà Nội. Viết về văn hóa có Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long – Hà Nội của GS.TS. Đỗ Quang Hưng. Dây là công trình nghiên cứu đề cập tới đời sống tín ngưỡng của người dân đất kinh kỳ qua nhiều thế kỷ, hiển nhiên trong đó có đề cập tới hoạt động của các giáo sĩ Dòng Tên và hoạt động của Hội Truyền giáo ngoại quốc Paris ở Thăng Long thế kỷ XVII. Bên cạnh những công trình nghiên cứu kể trên còn có một số công trình vừa mang tính chất nghiên cứu vừa có phần mang tính chất tập hợp tư liệu được xuất bản. Nổi bật là Tư liệu các Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII của TS. Hoàng Anh Tuấn. Cuốn sách gồm 3 phần, phần 1 tác giả cung cấp cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về lịch sử mối quan hệ của hai Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh với chính quyền Lê - Trịnh ở Kẻ Chợ và Đàng ngoài trong thế kỷ XVII. Phần 2 và 3 là tập hợp tư liệu của Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII. Đây là những tư liệu phong phú và sinh động sau nhiều năm tìm tòi và tuyển lựa của tác giả. Ở ngoài nước, tư liệu đề cập tới người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ phong phú và sinh động hơn tư liệu trong nước. Tuy nhiên, đó không phải là những công trình nghiên cứu mà là những ghi chép tồn tại dưới dạng nhật ký, hồi ký, báo cáo hay văn thư ngoại giao của những người đương thời: Bản tường trình về xứ Đàng Ngoài của Baldinotti viết bằng tiếng Ý năm 9 1626; Hành trình và truyền giáo của Alexandre de Rhodes (2007); Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài của Jean-Baptiste Tavernier, v.v. Năm 1920, xuất hiện công trình nghiên cứu đầu tiên - Những người phương Tây ở nước An Nam của Ch. B. Maybon. Cho tới nay, đây vẫn là công trình quan trọng bậc nhất của học giả quốc tế viết về người ngoại quốc trên đất Việt Nam. Cuốn sách gồm hai chuyên luận: Những người phương Tây ở nước An Nam và Thương điếm Anh ở Đàng Ngoài. Trong tác phẩm, tác giả đã dựng nên một cách khái quát về sự có mặt và hoạt động của các giáo sĩ và thương nhân phương Tây trong hai thế kỷ XVII, XVIII. Ngoài ra, chúng ta còn thấy những nghiên cứu sử học, văn hoá khác có đề cập tới những thông tin về người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng, những nghiên cứu về người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII còn tương đối ít ỏi, chưa cung cấp một cái nhìn hệ thống và toàn diện. Luận văn Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII đi vào phân tích đặc thù của vùng đất Thăng Long, khái lược những người nước ngoài trước thế kỷ XVII và những nhân tố mới ở Thăng Long thế kỷ XVII với tư cách là cơ sở, động lực thu hút những người nước ngoài. Quan trọng hơn, luận văn phác họa lại hoạt động của thương nhân, giáo sĩ Kitô và đời sống của chính họ tại Thăng Long- Kẻ Chợ trong các mối quan hệ đa dạng, đa chiều. 3. Nguồn tƣ liệu Mặc dù nghiên cứu về những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII còn tương đối hạn chế nhưng thông tin đề cập đến lĩnh vực này có từ rất sớm, với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng ba nhóm nguồn tư liệu chính sau: Thứ nhất, các cuốn sử và các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký tục biên, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hồng Đức thiện chính thư, Lê triều chiếu lệnh 10 thiện chính… Những tư liệu này ghi lại đôi nét về hành trạng của các sứ thần Trung Hoa đến sắc phong cũng như các sứ thần các quốc gia lân bang đến triều cống, đồng thời đề cập tới mối quan hệ giữa chính quyền Lê - Trịnh với những người nước ngoài trên phương diện văn hóa, phong tục cũng như những quy định đối với người ngoại quốc khi đến kinh thành. Thứ hai, những cuốn nhật ký, hồi ký, du kí, báo cáo và những văn thư ngoại giao của thương nhân, giáo sĩ, nhà du hành phương Tây. Thế kỷ XVII, tiếp xúc Tây - Đông diễn ra thường xuyên, trên nhiều lĩnh vực, thương nhân, giáo sĩ, nhà du hành… có mặt ở phương Đông, Đàng Ngoài và Thăng Long, họ đã để lại những cuốn nhật ký, du kí, báo cáo và những văn thư ngoại giao ghi lại những điều mắt thấy tai nghe về đất nước, con người sở tại cũng như những công việc và trải nghiệm của chính mình. Những ghi chép đó chứa đựng thông tin sinh động, khách quan, có độ tin cậy cao. Đây là nguồn tư liệu đương đại, đặc biệt quý giá. Phần lớn nguồn tư liệu đó đã được dịch sang tiếng Việt, tiêu biểu như Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của A. de Rhodes; Một chuyến du hành tới Đàng Ngoài năm 1688 của nhà hàng hải, thương nhân người Anh William Dampier; Thương điếm Anh ở Đàng Ngoài (được trích ra từ tác phẩm Lịch sử cận đại xứ An Nam viết năm 1920) của Ch. B. Maybon; Tư liệu các Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII của TS. Hoàng Anh Tuấn và Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội tuyển tập tư liệu phương Tây do PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ chủ trì. Nguồn tư liệu này khá phong phú và cũng là nguồn tư liệu chính luận văn sử dụng. Thứ ba, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tiêu biểu như: Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX của tác giả Thành Thế Vỹ, Những người phương Tây ở nước An Nam của Ch. B. Maybon, Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam (tập 1: các Thừa Sai Dòng Tên 1615-1665) của Linh mục Nguyễn Hồng (1959), Việt Nam giáo sử của Phan Phát Huồn (1965), Lịch sử địa phận Hà Nội 1626-1954 (1994) của Nguyễn 11 Khắc Xuyên, Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam do Trương Bá Cần chủ biên (2008). Hoạt động đối ngoại trên đất Thăng Long – Hà Nội do Phạm Xuân Hằng chủ biên, luận án Tiến sĩ Quá trình xâm nhập của Pháp vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX- nguyên nhân và hệ quả của Nguyễn Mạnh Dũng, luận văn tốt nghiệp đại học Hoạt động của thương nhân phương Tây ở Thăng Long thế kỷ XVII của Phạm Ngọc Trang… Những công trình kể trên có đề cập tới quan hệ thương mại, ngoại giao giữa chính quyền Thăng Long với thương nhân khu vực và quốc tế. Đồng thời, những công trình này cũng phản ánh khá rõ về quá trình du nhập của Kitô giáo vào Việt Nam, trong đó có đề cập tới công cuộc truyền giáo ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số công trình sử học như: Lịch sử Thăng Long –Hà Nội, Lịch sử Việt Nam, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Đại cương lịch sử Việt Nam; một số cuốn sách thuộc lĩnh vực khác như Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, v.v. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII phân theo nghề nghiệp gồm: giáo sĩ, thương nhân, thủy thủ, thợ thủ công, binh lính và một số người làm công tác phục vụ; phân theo nguồn gốc họ đến từ hai khu vực chính: Đông Bắc Á (Người Nhật, Người Hoa), phương Tây (người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp); dựa theo thời gian lưu trú bao gồm những người định cư và tạm trú. Phạm vi nghiên cứu: Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII có quy mô tương đối rộng lớn, tương đương với khu vực nội thành Hà Nội ngày nay. Tuy nhiên, phạm vi không gian được xác định khá tương đối, gắn liền với môi trường chính trị, không gian kinh tế, văn hoá, xã hội kinh thành. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 12 Phương pháp lịch sử: Là đề tài lịch sử, phương pháp chủ đạo của Luận văn là phương pháp lịch sử, thể hiện qua việc trình bày nội dung theo trình tự thời gian, phân giai đoạn, khai thác, xử lý những tư liệu lịch sử. Phương pháp mô tả: Phương pháp này được sử dụng nhằm tái hiện bức tranh toàn cảnh về những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ về vị trí, diện mạo cơ sở kinh doanh và cư trú của những người nước ngoài. Phương pháp phân tích: Đối với nguồn tư liệu đương đại như những cuốn du ký, hồi kí, văn thư ngoại giao, những bản báo cáo hay nhật ký ghi chép của người đương thời là bộ phận tư liệu quan trọng được tác giả tập trung phân tích để thấy được các khía cạnh khác nhau của vấn đề. Đây là phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn. Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để thấy được những điểm chung, điểm riêng, điểm mạnh, điểm yếu giữa các nhóm đối tượng người nước ngoài trong lối sống, phương thức hoạt động kinh doanh…Qua đó lý giải sự lớn mạnh, thành công hay thất bại. Đồng thời, phương pháp này còn cho phép chúng ta đánh giá được vai trò của các nhóm người ngoại quốc trên mảnh đất Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII. Phương pháp liên ngành: Phương pháp này được sử dụng xuất phát từ mục tiêu tiếp cận những người nước ngoài trên nhiều phương diện: hoạt động kinh tế, văn hoá, đời sống tâm lý…Từ đó cho phép ta thấy được các mối quan hệ lôgíc, tính phức tạp của vấn đề. Tiếp cận khu vực: Xuất phát từ thực tế những người nước ngoài ở Thăng Long- Kẻ có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khu vực khác. Tiếp cận khu vực cho phép nhìn nhận, lý giải về những quan hệ đó. 6. Đóng góp của đề tài Thế kỷ XVII là thế kỷ thế giới có những biến chuyển to lớn, tiếp xúc giữa các khu vực trên thế giới diễn ra thường xuyên trên nhiều phương diện đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế thương mại và tư tưởng tôn giáo. Thăng Long- Kẻ Chợ với tư cách là một kinh đô lớn, đông dân, có sức hấp dẫn đặc 13 biệt đối những thương nhân khu vực và thế giới, giáo sĩ Kitô và những nhà du hành từ phương Tây xa xôi. Đề tài nghiên cứu Những người nước ngoài ở Thăng Long- Kẻ Chợ thế kỷ XVII có những đóng góp cơ bản sau: - Phân tích cơ chế vận động làm cho Thăng Long trở thành nơi hội tụ của cả nước- điều kiện quan trọng nhất hấp dẫn người ngoại quốc. - Lược thuật những người nước ngoài ở vùng đất Thăng Long trước thế kỷ XVII. - Cung cấp một cái nhìn toàn diện về những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ trên những phương diện cơ bản như: quá trình thiết lập quan hệ với chính quyền Thăng Long; cơ sở kinh doanh và cư trú; hoạt động kinh tế và truyền giáo, đời sống văn hoá xã hội của các nhóm đối tượng trong các mối quan hệ đa dạng, đa chiều. - Góp phần làm sáng tỏ vai trò, vị trí của Thăng Long trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Đàng Ngoài và Đại Việt. 7. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, Luận văn được chia thành 3 chương. Chương 1. Thăng Long- cơ sở, động lực thu hút những người nước ngoài. Nội dung chương này đề cập tới những điểm đặc thù của Thăng Long cả về yếu tố tự nhiên, vai trò trung tâm của kinh đô Thăng Long, phân tích cơ chế làm Thăng Long trở thành nơi hội tụ tinh hoa của cả nước, là một phần cơ sở cho sự hiện diện những người nước ngoài với nhiều nhóm đối tượng khác nhau, lược thuật những người nước ngoài ở Thăng Long trước thế kỷ XVII, đồng thời phân tích những yếu tố mới về chính trị, xã hội trong nước và khu vực với tư cách là cơ sở, động lực thu hút những người nước ngoài đến Thăng Long thế kỷ XVII. Chương 2. Hoạt động của thương nhân nước ngoài ở Thăng Long- Kẻ Chợ thế kỷ XVII. 14 Chương này tái hiện lại quá trình hình thành những nhóm cộng đồng, việc thiết lập cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh tế, chủ yếu là hoạt động thương mại của những những nhóm người nước ngoài: người Hoa, người Nhật, người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Anh và người Pháp. Chương 3. Hoạt động của giáo sĩ Kitô và đời sống của những người nước ngoài ở Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII Chương này gồm hai nội dung chính. Thứ nhất tái hiện lại công cuộc truyền giáo của các giáo sĩ Kitô tại kinh đô Thăng Long và đời sống văn hoá xã hội của họ. Thứ hai, trình bày đời sống văn hoá xã hội của người Hoa, người Nhật và người phương Tây trong các mối quan hệ đa dạng, đa chiều của họ ở Thăng Long- Kẻ Chợ. 15 Chương 1 THĂNG LONG - CƠ SỞ, ĐỘNG LỰC THU HÚT NGƢỜI NƢỚC NGOÀI 1.1. Đặc thù của Thăng Long- Kẻ Chợ * Nơi hội tụ các điều kiện tự nhiên thuận lợi Thăng Long (vùng nội thành Hà Nội ngày nay) nằm trong đồng bằng sông Hồng. Theo kết quả nghiên cứu địa chất, vùng đất này trải qua nhiều biến động với những giai đoạn lịch sử biển tiến biển lùi khác nhau. Sang kỷ Đệ tứ (cách ngày nay khoảng vài ba triệu năm) quá trình địa chất, địa mạo tạo lên bộ mặt địa hình của vùng đất Hà Nội. Cách ngày nay 20.000 đến 18.000 năm, mực nước biển ở độ sâu từ 90 đến 130m so với mực nước biển hiện nay. Thời đó, bờ biển lùi rất xa, vùng Hà Nội cho đến vịnh Bắc Bộ là một đồng bằng rộng lớn. Biển lùi hình thành bề mặt thềm sông khá rộng cùng với quá trình bóc mòn do nước chảy, chia cắt bề mặt thềm, tạo nên địa hình gò đồi dạng tuyến thoái. Đợt biển tiến Flandri sau đó đạt mức cực đại cách ngày ngay 6.000 đến 5.000 năm, biển dâng cao 4-5m so với mực nước biển hiện nay, lấn sâu vào lục địa và toàn bộ vùng Hà Nội ngập chìm trong nước, vùng Hà Nội trở thành vịnh biển Hà Nội. Cách nay khoảng 4000 năm biển rút, bắt đầu quá trình bồi tụ lấp dần vũng vịnh biển Hà Nội, các dòng sông hình thành vùng thượng châu thổ sông Hồng. Thời kỳ này, quá trình lịch sử của vùng đất Thăng Long- Hà nội mới thực sự diễn ra, đất châu thổ hình thành. Đất châu thổ hình thành tới đâu quá trình di cư của con người từ các vùng đồi núi, chân núi xung quanh xuống khai phá lập ra các xóm làng tới đó. Cùng với sự di cư, định cư ở vùng đồng bằng là quá trình hình thành phát triển của cây lúa nước. Vùng đất Thăng Long nằm trong phạm vi đồng bằng châu thổ sông Hồng sớm trở thành một vùng kinh tế phát triển, một trung tâm nông nghiệp lúa nước phồn thịnh, mở ra nền văn minh sông Hồng với dòng chảy liên tục từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên tới nay. 16 Đồng bằng sông Hồng là nơi đón nhận các dòng chảy từ phía tây bắc đổ về với một mạng lưới sông ngòi chằng chịt gồm hai hệ thống sông chính: hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình. Miền đất Thăng Long được nuôi dưỡng trực tiếp do sự bồi tụ phù sa của sông Hồng – con sông khởi nguồn từ hệ núi Tây Tạng, chảy qua vùng đồi núi tây bắc Việt Nam. Sự thay đổi về mặt địa mạo của miền đất Thăng long gắn liền với những biến động của hệ thống sông đồng bằng Bắc Bộ. Thăng Long trở thành nơi hội tụ các yếu tố tự nhiên thuận lợi nổi bật khi so sánh với các khu vực khác có lẽ bắt đầu diễn ra vào khoảng thế kỷ VI, VII. Trong bài viết Địa lý miền lịch sử Hà Nội trước thế kỷ XI, Giáo sư Trần Quốc Vượng có phân tích sự biến đổi của các nhánh sông Hồng làm cho Tống Bình (Thăng Long- Hà Nội) trở thành nơi hội tụ những điều kiện thuận lợi, thay thế vị trí của Cổ Loa và Long Biên1 trước đó. Sự thay đổi của trung tâm chính trị có liên quan tới sự thay đổi của các nhánh sông. Theo tài liệu địa lý xưa nhất ghi chép về sông ngòi nước ta là sách Thuỷ Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên thế kỷ thứ VI. Sông Diệp Du (sông Hồng) chảy qua phía bắc huyện Mê Linh quận Giao Chỉ, chia làm năm dòng sông phân tán khắp quận Giao Chỉ, đến cõi phía nam thì hợp làm ba sông rồi chảy về phía đông vào biển. Dòng sông Hồng trước đây chỉ là một nhánh phụ của hệ thống sông Hồng. Các ngành chính của sông Hồng ở tả ngạn là sông Cà Lồ, sông Thiếp và sông Đuống. Sông Đuống là ngành chính của sông Hồng thời xưa. Sông Cà Lồ do nhiều suối ở phía nam sơn hệ Tam Đảo đổ về, gặp nhau ở khoảng hai làng Nam Viên và Khả Do (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) rồi chia hai nhánh, một chảy vào sông Hồng, một chảy về phía sông Cầu. Sông Hồng chảy theo hướng tây bắc- đông nam, đến Việt Trì sông Hồng đã nhận nhiều nước và phù sa của sông Lô nhất là vào mùa mưa nên đã trở thành một con sông lớn. Sông Lô đã ảnh hưởng đến chiều hướng 1 Long Biên không phải là vùng đất Thăng Long, Long Biên xưa kia đại để là ở khoảng đất giới hạn bờ sông Cà Lồ (ở phía bắc), sông Cầu (ở phía đông), sông Thiếp (ở phía nam), núi Tiên Du (ở phía tây). Để hiểu rõ xin xem thêm Trần Quốc Vượng, Địa lý miền lịch sử Hà Nội (trước thế kỷ XI) trong Thăng Long – Hà Nội tuyển tập công trình nghiên cứu lịch sử, Tập 1, NXB Hà Nội-2010. 17 của sông Hồng, nó làm cho sông Hồng tuy nói chung vẫn theo hướng tây bắcđông nam nhưng đã phải uốn cong về phía tây nam. Và vì lòng sông ngày càng cong về phái tây nam nên phù sa của sông hồng đã bồi thành những bãi cát ở phái đông bắc và những luồng nước ở sông này dần dần bị cạn. Sự thay đổi đó là hiện tượng bình thường, những con sông lớn thường đổi dòng trên những đồng bằng do phù sa của chính những con sông ấy bồi đắp. Những luồng nước ở phía bắc sông Hồng dần dần bị bỏ, cửa sông Cà Lồ, sông Thiếp ngày càng phải chạy dài về phía nam để đuổi theo luồng chính của sông Hồng song đã đuổi không kịp, dần dần bị bỏ lại và bị cát bồi lấp dần. Đó là lý do vì sao sông Cà Lồ, sông Thiếp đã dần dần bị cạn. Giao thông trên các sông đó bị cản trở. Vì vậy, Tây Vu (Cổ Loa nằm trên sông Thiếp), Long Biên đã dần dần mất vai trò. Địa thế những nơi đó không còn thuận lợi cho việc giao thông vận tải hàng hoá và việc hành binh vì vậy chúng đã mất vai trò là một trung tâm chính trị của đất nước. Một trung tâm chính trị mới hưng khởi: đó là Tống Bình [44, tr.202-204]. Đặc thù, thế mạnh về mặt địa lý của vùng đất Thăng Long được tổng kết trong chiếu dời đô như sau: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sau sông trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội của quan yếu bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” [39, tr.241]. Nét địa lý trường tồn của nghìn xưa Thăng Long và Hà Nội hôm nay là cái đặc trưng của thành phố sông hồ. 18 Nguồn: Hồng Đức bản đồ, kí hiệu A2499, tư liệu Viện Hán Nôm) Xem trên các bản đồ xưa cho đến giữa thế kỷ XX cho thấy Thăng Long - Hà Nội là một thành phố sông hồ nửa đất, nửa nước. Quy hoạch kinh thành Thăng Long là nương theo và thích ứng tối đa cái hình thế tự nhiên sông hồ đó. Kinh thành Thăng Long thời Lý được xác định trong ba vòng thành, ngoài cùng là thành Đại La. Vòng thành có bốn mặt giáp sông, phía đông là sông Nhị (sông Hồng), phía bắc và tây là sông Tô Lịch, phía nam là sông Kim Ngưu. Yếu tố nước được thể hiện tập trung ở Cửa ô, “Cửa ô xưa đều là những cửa nước ở nơi giao hội (ngã ba) các sông (đúng nghĩa Watergate [44, tr.42]. Cửa ô là nơi gặp gỡ của hai môi trường trên cạn và dưới nước, nơi giao lưu kinh tế văn hoá giữa nội thành với ngoại thành. Yếu tố nước đậm nét tạo ra một cảnh quan riêng biệt của vùng đất Thăng Long với 19 một diện tích mặt nước rộng lớn được tạo lên bởi các đầm hồ. Hồ Tây, Hồ Gươm đã trở thành biểu trưng của kinh thành Thăng Long, của vùng đất kinh kỳ. Địa mạo của Thăng Long dường như ít biến đổi trong một thời gian dài, môi trường sông nước giúp cho kinh thành Thăng Long vừa đóng vai trò của một quân cảng vừa đóng vai trò là một thương cảng. Đó là yêu cầu không thể thiếu để chính quyền có thể bảo vệ và phát triển đất nước của mình trong điều kiện thời đại bấy giờ. Vị trí và môi trường thuận lợi đó làm cho Thăng Long trở thành một kinh đô có sức sống lâu dài, rực rỡ nhất so với tất cả các kinh đô khác ở Việt Nam. * Thăng Long - kinh đô lâu đời, nơi tập trung tài lực, hội tụ tinh hoa cả nước Trước khi trở thành kinh đô của nhà nước độc lập, Đại La đóng vai trò là trị sở của chính quyền phong kiến phương Bắc (thế kỷ VII – IX). Năm 1010, Lý Công Uẩn - vị vua sáng lập vương triều Lý sau khi lên ngôi tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) đã rời đô ra thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, mở ra thời kỳ mới của vùng đất này. Thăng Long là một kinh đô lớn với 61 phố phường phát triển rực rỡ qua hai triều đại Lý-Trần với một hệ thống thành quách, cung điện nghi nga lộng lẫy.Tuy nhiên, vị trí và sự thịnh suy của Thăng Long gắn chặt với vận mệnh của quốc gia dân tộc, cuối thời Trần và dưới thời Hồ (1400 – 1407) do những biến động về chính trị trong nước và yêu cầu tập trung tài lực chống giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly đã rời đô về Thanh Hoá (1397) kinh thành Thăng Long xưa trở thành một mắt xích trong hệ thống phòng tuyến quân sự. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Thăng Long trở thành nơi đồn trú của giặc Minh (1407 – 1427), khi ấy gọi là Phủ thành Giao Châu hay thành Đông Quan (vì thành nằm trên địa bàn huyện Đông Quan). Sau khi Lê Lợi hoàn thành sự nghiệp bình Ngô, lập lên triều Lê, đổi Đông Quan thành Đông Kinh và Đông Kinh trở thành kinh đô trong suốt thời Lê Sơ (1428-1527). Sau khi nhà triều Lê Sơ sụp đổ, Thăng Long tiếp tục giữ vai trò kinh đô qua 65 năm 20 Thời Mạc (1527 – 1592), gần hai trăm năm thời Lê Trung Hưng (1593 – 1788). Dưới thời Tây Sơn (1788-1802), nhà Nguyễn, Thăng Long mất vị trí kinh đô nhưng là thủ phủ miền Bắc. Thời Pháp thuộc, vùng đất Thăng Long (khi đó là Hà Nội) trở thành Thủ phủ Đông Đương. Cách mạng tháng 8 thành công (1945), Thăng Long- Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam. Thăng Long mang đặc trưng chung của đô thị Việt Nam cũng như đặc trưng chung của đô thị phương Đông trung đại. Bên cạnh đó, Thăng Long có những điểm riêng biệt khi so sánh với nhiều đô thị khác. Khác biệt lớn nhất, trở thành xuất phát điểm cho những khác biệt khác là vị trí trung tâm chính trị, hành chính quốc gia. Vị trí đó quy định diện mạo của Thăng Long, biểu hiện trước hết qua việc quy hoạch kiến trúc thành quách, cung điện. Sự nguy nga tráng lệ của các cung thời Lý được mô tả trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: “phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi trầu, bên trái dựng điện Tập Hiền, bên phải dựng điện Giảng võ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh, đều có thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thuỵ làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau dựng hai cung Thuý Hoa, Long Thuỵ làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở 4 cửa: phía Đông gọi là Tường Phù, phía Tây gọi là Quảng Phúc, phía Nam gọi là Đại Hưng, phía Bắc gọi là Diệu Đức. Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và Tinh lâu, Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm” [39, tr.241]. Đoạn văn trên cho thấy đó là cả một hệ thống các công trình được dựng nên để đáp ứng nhu cầu phòng thủ, nơi làm việc, sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng của kinh thành trong đó nổi bật hơn cả là hệ thống các cung điện, lầu gác. Xây dựng, tu sửa thành trì là công việc bất cứ triều đại nào, triều đình có Bộ Công để đôn đốc công việc này. Số lượng các cung điện, lầu gác ở mỗi điểm tuy có 21 khác nhau nhưng diện mạo vật chất của chốn kinh kỳ hiện lên rõ nét. Sử đã ghi chép ở Hoàng thành Thăng Long có 36 cung, 49 điện thuộc thời Lý; 22 cung, 13 điện thuộc thời Trần; 6 cung, 32 điện thuộc thời Lê [72, tr.34]. Xây dựng thành quách, cung điện ở kinh đô là công việc lớn đòi hỏi một nguồn trí lực, vật lực khổng lồ của nhiều bộ phận, địa phương trong cả nước. Kết quả nghiên cứu di vật khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu (Ba ĐìnhHà Nội) đem lại những bằng chứng xác đáng cho nhận định trên. Di vật gạch, ngói có chữ Hán ghi rõ phiên hiệu và xuất xứ cho phép chúng ta hiểu được phần nào quá trình kiến thiết xây dựng tại kinh thành Thăng Long. Thời Lý phát hiện gạch in chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (nghĩa là gạch xây quân thành nước Đại Việt) gợi ý cho chúng ta rằng phải chăng Lý Thái Tổ đã điều thợ sản xuất gạch từ cố đô Hoa Lư ra kinh thành Thăng Long. Thời Trần, gạch “Vĩnh Ninh Trường” cho biết đó là gạch được sản xuất tại trường đóng gạch Vĩnh Ninh, thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hoá tỉnh Thanh Hoá; gạch “Đại Thông độ” (bến Đại Thông), địa chỉ này gần bến Tế Giang, nay thuộc phần đất huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; gạch in chữ “Thu vật huyện Thu Vật hương” là sản phẩm của người hương Thu Vật huyện Thu Vật, nay thuộc tỉnh Tuyên Quang. Viên ngói có chữ “Hoàng Môn Thự dận giám tạo”. Hoàng Môn thự là một cơ quan kề cận nhà vua cho thấy sự góp sức của cơ quan này trong việc xây dựng kinh thành. Sang thời Lê Sơ, việc xây dựng và kiến thiết kinh đô cũng là công việc chung của cả các đơn vị quân đội ở kinh thành và một số đơn vị địa phương. Gạch in chữ “Trung Oai quân”, “Tam tự quân”, “Huyền Qua quân là dấu ấn của Đông phủ; Gạch in chữ “Thần Dực quân”, “Tráng Phong quân”, “Vũ Kỵ quân” mang dấu ấn của Nam quân phủ; Gạch in chữ “Oai Hổ quân”, “Hùng Hổ”, “Thần Hổ” là quân hiệu của các sở Oai Hổ, Hùng Hổ và Thần Hổ, thuộc sở quân thuộc vệ Phủ Thần của Trung quân phủ, đóng ở Nghệ An, Thanh Hoá ra xây dựng kinh đô [72, tr.116-123]. 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan