Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Nhung gia tri my thuat thoi tran...

Tài liệu Nhung gia tri my thuat thoi tran

.PDF
37
223
135

Mô tả:

Những giá trị mỹ thuật thời Trần MỞ ĐẦU Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà Trần được thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hóa của thời Lý, nhất là về mặt kiến trúc. Mãi đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề nên đến năm 1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích,…vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý làm cơ sở, nền móng cho mỹ thuật Trần phát triển. Mỹ thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy, cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có thời gian. Sự chuyển biến về phong cách diễn ra từ từ trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn hóa nghệ thuật thời Lý. Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là nghệ thuật chạm khắc, trang trí. Những đề tài, hình tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung, đề tài quen thuộc đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim,…Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước vẫn mang tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý. Hình rồng trên viên gạch thuộc chùa Hoa Yên – Yên Tử - Quảng Ninh, vẫn mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uống lượn nhịp nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được thể hiện trong các mô típ đã được sử dụng nhiều trong mỹ thuật thời Lý như rồng châu vông sáng. Một số hoa văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như những hình lá dương xỉ trang trí trên bệ đá chùa tháp Phổ Minh(Nam Định). Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong cách mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Nhũng nét tinh hoa của văn hóa tạo hình thời Lý vẫn trở lại trên các tác phẩm mỹ thuật của thời Trần. Phải chăng đó không chỉ một đặc điểm của mỹ thuật thời Lý mà còn chính là đặc đặc điểm mang tính dân tộc đậm đà của người Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có nghĩa đồng nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần, mà trên cơ sở tinh hoa văn hóa Lý, mỹ thuật Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội có nhiều biến thiên, khác với thời Lý. Do vậy bên cạnh việc kế thừa văn hóa nghệ thuật Trang 1 Những giá trị mỹ thuật thời Trần các nghệ nhân thời Trần còn sáng tạo nhiều công trình, tác phẩm mỹ thuật đặc sắc và mang một phong cách riêng biệt của thời Trần. Mặc dù vậy những nét dân tộc vẫn được thể hiện rõ trong mỹ thuật thời Trần. Vậy mỹ thuật Việt Nam thời Trần có trình độ phát triển ở mức độ nào? Đặc trưng nào? Có giá trị lớn như thế nào? 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước trong suốt mấy nghìn năm nay. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, nhân dân ta đã tạo nên một nền mỹ thuật phong phú, đa dạng và mang đậm bản sắc dân tộc.Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc vơi 54 dân tộc anh em, trong đó mỗi dân tộc đều có những truyền thống văn hóa riêng. Kho tàng văn hóa truyền thống Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn ngàn muôn hình muôn vẻ của các dân tộc cùng sống trên dãy đất này. Trong kho tàng văn hóa đó phải kể đến sự đóng góp của các tác phẩm mỹ thuật đã và đang có mặt ở khắp mọi miền đất nước.Vì vậy lịch sử nền mỹ thuật của nước ta rất đa dạng, phong phú qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn với nhưng có đặc trưng riêng, đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng nền văn hóa, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ Quốc. Mĩ thuật Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ. Mỗi thời kỳ là một mốc đánh dấu sự phát của lịch sử mĩ thuật và được thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa…. tiêu biểu của thời kỳ đó. Do đó mỗi một thời kì phát triển của mĩ thuật Việt Nam đều có những nét đặt trưng riêng. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của các thời kì trước để lại, đồng thời sáng tạo nó phù hợp với chặng đường phát triển của mình. Trong đó mĩ thuật thời Trần được đánh giá là thời kì phát triển mạnh mẽ của mĩ thuật Việt Nam trên tất các mặt. Tìm hiểu “giá trị lịch sử mĩ thuật thời Trần” là một đề tài luôn thôi thúc tôi tìm hiểu bởi việc tìm hiểu những giá trị cũng như thành tựu nổi bật này cho tôi thấy phong cách nghệ thuật của ông cha ta. Qua đó còn nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu cũng như giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa đó. Đó là lý do tôi chọn đề tài này. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài: trình bày “Những Giá trị mỹ thuật thời Trần” 2.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về những giá trị mĩ thuật thời Trần nhưng: Như tìm hiểu về sự kế thừa những tinh hoa văn hóa Trang 2 Những giá trị mỹ thuật thời Trần thời Lý, những đổi thay và sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần qua nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa…của các tác phẩm tiêu biểu. 3. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu hệ thống cấu trúc là chủ yếu. Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp, so sánh, đối chiếu và phương pháp thống kê lựa chọn…để làm nổi bật những giá trị mỹ thuật thời Trần. 4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Mỹ thuật thời Trần là đề tài luôn nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ở tất cả các khía cạnh: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, trang trí với nhiều công trình có quy mô lớn như: Trong cuốn “lịch sử mỹ thuật Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Chỉnh có viết về giá trị của mỹ thuật thời Trần. Cuốn sách đã cho chúng ta một cái nhìn tổng quan, khái quát về lịch sử mỹ thuật Việt Nam nói chung và lịch sử mỹ thuật thời Trần nói riêng. Cuốn sách “Đại cương lịch sử Việt Nam” do Trương Hữu Quýnh chủ biên cùng các tác giả Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh đã nghiên cứu một cách tổng quan về lịch sử hình thành và phát triển của mĩ thuật Việt Nam.Và còn nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu những giứ trị của mĩ thuật thời kỳ này. Những tác phẩm nghiên cứu trên phần nào đã tìm về cội nguồn của mỹ thuật dân tộc, đã phản ánh phần nào mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật thời Trần nói riêng trên những chặng đường lịch sử dân tộc. Tuy nhiên phần lớn các công trình chỉ đi sâu vào một khía cạnh nào đó của mỹ thuật thời Trần mà chưa có sự nghiên cứu toàn diện về những giá trị của mỹ thuật thời kỳ này. Dựa trên cơ sở đã nghiên cứu, phân tích của các nhà nghiên cứu để tôi hoàn thiện đề tài này 5. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, đề tài còn có phần mục lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm 2 chương chính: Chương 1. Khái quát về thời Trần và lịch sử mỹ thuật thời Trần Chương 2. Những giá trị của lịch sử mỹ thuật thời Trần Trang 3 Những giá trị mỹ thuật thời Trần NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THỜI TRẦN VÀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT THỜI TRẦN 1.1 . Khái quát về thời Trần Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tông) nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (8 tuổi) nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (7 tuổi,1218-1227) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225. Trong khoảng 175 năm trị vì , nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên thành công vào các năm 1258 ,1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ thời Vua Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đạ suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát và yếu kém của hệ thống quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, chấm dứt 175 năm trị vì của dòng họ này . Nhà Trần thay thế nhà Lý suy tàn trong sự phát triển đi lên của phong kiến Việt Nam. Ba lần chống quân Nguyên – Mông thắng lợi, bảo tồn giang sơn đã tạo nên một hào khí oai hùng cho dân tộc và thấm đẫm trong văn học nghệ thuật, mặt khác chiến tranh nhiều lần tàn phá đất nước, hoạt động nghệ thuật bị hạn chế, cuối cùng chế độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ 14 . Mỹ thuật thời Trần với đường nét phóng khoáng, khỏe khoắn hơn thời Lý. Bố cục có phần thưa thoáng đơn giản. Đề tài phong phú hơn thời Lý, đặc biệt là trên đồ gốm xuất hiện nhiều hình ảnh con thú. Có được điều này là nhờ sự giao lưu văn hóa rộng rãi và tinh thấn thượng võ thời Trần phát triển mạnh qua ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông . 1.2. Khái quát về lịch sử mỹ thuật thời Trần Nhìn chung nghệ thuật thời Lý sang thời Trần có sự kết nối chìm và một chuyển đoạn nổi. Nghệ thuật thời Trần phát triển trên cơ sở nền móng đã có từ thời Lý. Tuy vậy, nếu nghệ thuật thời Lý đi theo hướng cách điệu cao, đường nét trao chuốt, tỉ mỉ thì mỹ thuật thời Trần lại chuyển sang hướng hiện thực, cách tạo hình đơn giản, khái quát và khỏe khoắn hơn, nghệ thuật thời Trần có một số đặc điểm sau: Trang 4 Những giá trị mỹ thuật thời Trần - Suy giảm tính cung đình và Quốc gia ở các công trình kiến trúc, hướng về thái ấp, làng xã, nghệ thuật mang tính dân gian rõ nét. - Công trình và tác phẩm thể hiện tính hồn nhiên, thực dụng. - Khuynh hương biểu cảm và hiên thực thể hiện rõ trong mỗi công trình và tác phẩm. Tất cả những điều kiện xã hội đó đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển mĩ thuật của thời Trần và nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nghệ thuật dân gian phát triển, tạo nên đặc điểm riêng biệt cho mĩ thuật thời Trần. Trang 5 Những giá trị mỹ thuật thời Trần CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ MỸ THUẬT THỜI TRẦN 2.1. Sự kế thừa những tinh hoa văn hóa thời Lý Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý.Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà Trần thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề đến năm 1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích… vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở, nền móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có thời gian. Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý. Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm khắc trang trí. Những đề tài, hình tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung đề tài quen thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim, mây, mặt trời…. Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước vẫn mang tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý. Hình rồng trên viên gạch thuộc hoa chùa Hoa Yên – Yên Tử – Quảng Ninh, vẫn mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được thể hiện trong các mô típ đã được sử Trang 6 Những giá trị mỹ thuật thời Trần dụng nhiều trong mĩ thuật thời Lý như rồng châu vông sáng. Một số hoa văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như hình lá dương xỉ trang trí trên bệ đá chùa tháp Phổ Minh (Nam Định). Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong cách mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thời Lý vẫn trở lại trên các tác phẩm mĩ thuật thời Trần. Phải chăng đó không phải là đặc điểm của mĩ thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang tính dân tộc đậm đà của người Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có nghĩa là đồng nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần, mà trên cở sở tinh hoa văn hoá Lý, mỹ thuật Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội hội có nhiều biến thiên khác với thời Lý. Do đó bên cạnh việc kế thưà về văn hoá, nghệ thuật các nghệ nhân thời trần còn sáng tạo nhiều công trình tác phẩm mỹ thuậtđặc sắc và mang một phong cách riêng của thời Trần. Mặc dù vậy, những nét dân tộc vẫn được thể hiện rõ trong mỹ thuật thời Trần . Hình tượng rồng thời Lý Hình tượng rồng thời Trần 2.2. Những thay đổi và sáng tạo trong mỹ thuật thời Trần 2.2.1. Nghệ thuật kiến trúc Kiến trúc thời Trần lúc đầu được thừa kế thành tựu kiến trúc thời Lý do đó có nhiều điểm gần với kiến trúc thời Lý. Chùa Một Cột và chùa Khai Nghiêm được xây dựng từ thời Lý đã được nhà Trần phát triển kiến trúc. Trang 7 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Chùa Một Cột Chùa Khai Nghiêm Tuy vậy từ 1262 trở đi, với kiến trúc chùa, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, chùa Thái Lạc… cùng với các tác phẩm chạm khắc trang trí trên các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ phong cách mỹ thuật của thời Trần. Sự thay đổi về quan niệm đã dẫn đến sự thay đổi về vị trí, kiểu dáng các công trình kiến trúc, cách thể hiện các đề tài trang trí mang tính hiện thực phóng khoáng và thoáng đạt hơn. Qua dấu vết còn lại của một số ngôi chùa thời Lý cho thấy các chùa thời Lý thường được xây dựng ở những nơi đất cao và có cảnh đẹp như ở chân núi, trên núi…Vì vậy mặt bằng các chùa thời Lý thường được trải dài trên ba bốn bậc cấp và cao dần. Sang thời Trần, các chùa tháp được phân bố rộng rãi trên cả nước, tuy vậy nhiều hơn cả là những công trình được dựng lên ở ven triền sông của vùng đồng bằng như Hà Tây, Hải Dương, Nam Định, Quảng Ninh… Vì lẽ đó, bố cục mặt bằng chùa thời Trần cũng có thể có nhiều kiểu. Chùa Yên Tử, trung tâm của phái Trúc Lâm tam tổ được xây dựng trên núi, do đó phải bạt núi để xây dựng thành cụm chùa riêng theo từng cấp bậc. Lối kiến trúc này gần giống với lối kiến trúc của chùa Phật Tích, chùa Dạm thời Lý. Tuy vậy, còn có thể có bố cục theo kiểu " nội công ngoại quốc" có nghĩa là 3 toà Tiền Đường,Thiên Hương, Thượng Điện được sắp xếp theo kiểu chữ công hành lang bao quanh giống như chữ quốc . Kiểu bố cục mặt bằng này sẽ gặp nhiều hơn trong kiến trúc các thời kỳ sau. Qua đó cho thấy có những thừa kế và sự sáng tạo trong phong cách mỹ thuật thời Trần. Cùng với kiến trúc thời Lý, kiến trúc thời Trần đã làm phong phú thêm, hoàn chỉnh thêm kiến trúc Phật giáo nói riêng và đóng góp cho kho tàng kiến trúc dân tộc nhiều công trình có giá trị cao. Tháp thời Trần được xây dựng theo kiểu tháp vuông 4 mặt, có nhiều tầng, nhỏ dần về phía ngọn. Tầng dưới cùng thường cao nhất có thể từ 2 đến 2,2 m. Bề ngoài thường được trang trí bằng nhiều hình tượng. Tháp có hai loại thờ Phật, thờ Tổ và tháp Trang 8 Những giá trị mỹ thuật thời Trần có đặt xá lị của các sư tổ (tháp mộ). Đứng ở dưới đất ngước nhìn lên, ngọn tháp như vươn tới trời cao. Cây tháp như nét nối giữa trời và đất. Từ đó, những điều cầu nguyện, những mong muốn sự tốt lành cho con người sẽ đến được với Đức Phật. Có thể vì lẽ đó, mà tháp thường đứng với kiến trúc chùa và có chiều cao hơn ngôi chùa rất nhiều. Căn cứ trên các ngôi tháp còn lại ở thời Trần như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… thì chiều cao của tháp thường gần bằng hoặc bằng chu vi chân tháp. Tháp Phổ Minh Cùng với kiến trúc Phật giáo, trong thời Trần hai loại kiến trúc cung đình và kiến trúc lăng mộ cũng khá triển. Năm 1289, nhà Trần cho xây dựng lại kinh thành Thăng Long. So với thời Lý, kinh thành Thăng Long thời kỳ này đựơc mở mang thêm nhiều đường phố, xây dựng thêm nhiều cung điện, lầu gác. Hoàng thành Thăng Long xưa và nay Trang 9 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Trước đó, ( năm 1253) nhà Trần cho mở Quốc Học Viện đẩy mạnh việc thi cử, học hành. Ngoài ra, ở vùng quê hương Nam Định còn xây dựng phủ Thiên Trường với quy mô tương đối lớn trong thời gian từ 1262 đến 1264. Ngày nay các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều dấu vết của khu cung điện đó. Đền và phủ Thiên Trường Ở đây có khu Trùng Quang được to lớn và đẹp đẽ được Trần Nguyên Đán ví như cung điện nhà Hán, ngoài ra còn có nhiều cung điện làm chỗ nghỉ và làm việc cho các vua, các Thái Thượng Hoàng. Nơi đây có trường học, chùa Tháp Phổ Minh… Tất cả các công trình đó làm cho phủ Thiên Trường trở thành nơi đô hội sầm uất, thịnh vượng của nhà Trần. Cuối thời Trần, lợi dụng sự suy yếu của giai cấp thống trị của nhà Trần, Hồ Quý Ly đã nuôi âm mưu cướp ngôi của nhà Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã ép vua Trần Thuận Tông dời đô về Vĩnh Lộc – Thanh Hoá và xây dựng ở đây một kinh đô mới, đó là thành Tây Đô. Năm 1400, khi đã lên ngôi, Hồ Quý Ly vẫn coi đây là kinh đô cho nước Đại Ngu của mình. Kiến trúc cung đình thời Trần có 3 công trình lớn như kinh thành Thăng Long, Phủ Tây Đô và Phủ Thiên Trường (Nam Định). Ngoài hai thể loại kiến trúc cung đình và kiến trúc Phật giáo, thời kỳ này đã bắt đầu có những kiến trúc lăng mộ của các vua hoặc quan lớn như: Trần Thủ Độ cũng được xây lăng ở Hưng Nhân (Thái Bình). Mặc dù vậy về kiểu dáng cũng chưa có gì đáng kể. Phần lớn các lăng ngày nay đã bị tàn phá, không còn được nguyên vẹn và việc xác định vị trí lăng rất khó. Tài liệu thì không còn nhiều, tuy vậy cũng có một số tài liệu nhắc đến khu lăng mộ của Trần Thủ Độ ở Thái Bình, lăng vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông ở An Sinh - Đông Triều – Quảng Ninh… Trang 10 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Thành Tây Đô (Thành nhà Hồ) Sư tử (Tượng đá – Chùa Thông, Thanh Hóa) 2.2.2. Nghệ thuật điêu khắc: Tượng xung quanh lăng Trần Hiến Tông Trang 11 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Thời kỳ này điêu khắc vẫn gắn liền với kiến trúc, đi cùng kiến trúc và mang đặc điểm phong cách phù hợp với kiến trúc. Đi với kiến trúc chùa tháp có tượng Phật, tượng sấu, tượng rồng. Với lăng mộ có tượng quan hầu, tượng thú vừa mang tính chất trang trí cho lăng mộ vừa là người canh gác, hậu cần giữ cho trang nghiêm, tĩnh lặng của ngôi mộ tạo sự bình yên cho linh hồn người đã khuất. Nếu các bức tượng phù điêu còn lại của thời Lý tập trung nhiều ở chùa Phật Tích, chùa Dạm…thì ở thời Trần các tác phẩm tìm được lại tập trung ở các khu lăng mộ là chính. Trong số những tác phẩm điêu khắc còn lại của thời Trần có rất nhiều tượng đá. Tượng Phật thì hầu như chưa tìm được tác phẩm nào, nhưng bệ đá hoa sen thì lại tìm được khá nhiều như bệ đá chùa Ngọc Đình (1374), chùa Bối Khê (1382)… Tượng người quỳ đỡ tòa sen (Tượng gỗ - Chùa Thái Lạc) Theo nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật thì những bệ đá hoa sen có thể là bệ tượng Phật hoặc để bày đồ lễ và thường được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong chùa. Bệ đá hoa sen thường được thể hiện là một khối chữ nhật, phần trên cùng chạm hai lớp cánh sen, phần tiếp theo thu nhỏ lại, bốn góc tạo hình bốn con chim thần. Các mặt chia ô chạm rồng, mây, hoa, lá… Trong một số lăng mộ của vua quan thời Trần có những con vật gần gũi với đời sống người dân như con trâu, con chó… bên cạnh những đề tài chính thống khác như tứ linh… Mặc dù vậy ngay cả trong những pho tượng thể hiện đề tài chính thống vẫn bắt gặp những nét dân gian, chất hiện thực sinh động và biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ. Trang 12 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Trên các pho tượng thời Trần, trang trí hoa văn đơn giản và bớt đi nhiều so với thời Lý. Các tác phẩm chạm khắc, trang trí vẫn thể hiện những đề tài quen thuộc như : rồng, mây, sông nước, hoa lá… Tuy vậy cũng có một số thay đổi như đề tài thể hiện tổng hợp: đầu rồng, sừng tê, ngọc báu… Tiên nữ đầu người mình chim dâng hoa (Chạm khắc gỗ - Chùa Thái Lạc) Hình tượng các cô tiên dâng hương, dâng hoa đều thể hiện trong hình thức nửa người, nửa chim rất phong phú và sinh động. Hình tượng này gặp nhiều trong các trang trí ở chùa Lạc Thái – Hải Hưng. Mật độ các hoa văn trang trí thoáng hơn, đường nét bớt sự đều đặn và phóng khóang hơn. Trang trí các đề tài mang đậm chất dân gian như tác phẩm: "Dê,hoa, lá" ở bệ tượng phật chùa Bối Khê (1382) – Hà Tây. Hình tượng rồng mặc dù về cơ bản vẫn giữ nhiều nét kế thừa rồng thời Lý song trong cách thể hiện lại có nhiều sự thay đổi. Các uốn khúc không còn đều đặn, thanh thoát mà khúc doãng, khúc mau tạo sự sống động và hiện thực cho con rồng thời Trần. Những nét mềm mại trong con rồng thời Lý bớt đi nhiều, thay vào đó là nét mập mạp, khoẻ khoắn và cứng cáp hơn. Một vài chi tiết như chân, đầu móng rõ ràng khúc chiết hơn. Có thể so sánh ở nhiều tác phẩm, nhiều thể loại nghệ thuật để thấy rõ sự thay đổi trong phong cách sáng tạo của thời Trần dựa trên những cơ sở tinh hoa nghệ thuật được tiếp thu của thời Lý. Đặc điểm này bộc lộ rất rõ trong mỹ thuật thời Trần. Trang 13 Những giá trị mỹ thuật thời Trần 2.2.3. Nghệ thuật hội hoạ: Khung cảnh đoàn người đến đónphật hoàng Trần Nhân Tông Bên cạnh những tác phẩm chân dung mang tính chất lý tưởng như bức tranh chân dung 72 người học trò của Khổng Tử, thời Trần còn có bộ tranh chân dung của những người có công trongcuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Những bức tranh đó được tập trung trong bộ " Trung hưng thực lục". Trong đó có ghi rõ tiểu sử, chép truyện và vẽ hình. Đây là một bộ sách có giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật cao. Song rất tiếc là đến nay vẫn chưa tìm thấy được tranh, mà chỉ lưu truyền những câu thơ vua ban khi tặng tranh. Qua đó chúng ta biết được một di sản văn hoá của dân tộc rất quý giá mặc dù không thể thưởng thức trực tiếp được. Những bài thơ đó chứng tỏ một điều rất rõ ràng là cùng với sự phát triển của kiến trúc và điêu khắc thời Trần cũng có nhiều tác phẩm đánh dấu sự phát triển của hội hoạ. Cuối thế kỷ XIV, tình hình suy yếu của nhà Trần làm nảy sinh mưu đồ phản loạn, vì thế vua Trần cho vẽ tranh "tứ phụ" nêu gương bốn người có công giúp vua dựng nghiệp lớn như: Tô Hiến Thành, Chu Công Hoắc Quang và Gia Cát Lượng . Năm 1394, vua ban tặng cho Hồ Quý Ly và mong Hồ Quý Ly sẽ noi theo tấm gương của những trung quân này. Bộ tranh chân dung này có lẽ cũng được vẻ theo lối tượng trương, mang tính lý tưởng hóa . Tiền giấy lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta năm 1936 Năm 1396, nhà nước cho ban hành tiền giấy. Trên các đồng tiền giấy đầu tiên có vẽ hình công, sóng nước, mây, phượng, rồng, tuỳ theo giá trị tiền từ 10 đồng đến 1 Trang 14 Những giá trị mỹ thuật thời Trần quan tiền. Điều này cũng phần nào cho biết rõ thêm về hình vẽ thời Trần.Bởi vậy, nếu phong cách mỹ thuật thời Lý bộc lộ rõ tính tư tưởng hoá, mẫu mực, đường nét mềm mại, nhịp nhàng, chau chuốt thì mỹ thuật thời kỳ Trần mang đậm nét hiện thực, sống động, khoẻ khoắn, đơn giản. Mặc dù vậy, cả hai thời kỳ Lý và Trần mĩ thuật Phật giáo đều tiêu biểu. Do đó, dù có sự khác nhau về phong cách mỹ thụât của hai thời kỳ này cũng có nhiều nét tương đồng, biểu hiện nét mỹ thuật dân tộc 2.3. Những tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu của thời Trần 2.3.1. Chùa, tháp Phổ Minh (Lộc Vượng – Nam Định ) Chùa Phổ Minh mở đầu cho kiến trúc Phật giáo thời Trần nằm tọa lạc tại thôn Tức Mạc – xã Lộc Vương ngoại thành Nam Định. Xung quanh ngôi chùa nổi tiếng này còn nhiều bí mật chưa được khám phá. Theo biên niên sử, chùa Phổ Minh được vua Trần Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1262 ở phía Tây cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường. Nhưng theo các bản khắc trên bia cho biết chùa có từ thời Lý, được mở rộng với quy mô lớn vào thời Trần. Trải qua nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần. Các công trình kiến trúc và chạm khắc trong chùa còn giữ được dấu ấn của thời Trần và thời Mạc như: bộ cánh cửa bằng gỗ lim chạm rồng ở nhà bái đường, tháp Phổ Minh, đôi sấu ở tam quan, rồng ở thành bậc tiền đường, tháp và tượng Bà chúa Mạc… Trước đây, chùa có một chiếc vạc lớn bằng đồng đặt ở sân trước được coi là một trong bốn bảo khí quốc gia (vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm). Chùa Phổ Minh được xây dựng vào 1262 phía Tây cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường Trang 15 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Tháp Phổ Minh – ngọn tháp chùa bằng gạch cao nhất Việt Nam Nhắc đến chùa Phổ Minh không thể không nhắc đến ngọn tháp nổi tiếng tháp Phổ Minh. Tháp được xây dựng vào năm 1305 gồm 14 tầng, cao 21,2 m. Trung tâm Sách kỉ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục đây là ngôi tháp chùa bằng gạch cao nhất Việt Nam. Cả chùa và tháp Phổ Minh đều được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Những công trình kiến trúc, nét chạm khắc hoa văn ở ngôi chùa Phổ Minh linh thiêng đều chứa đựng những thông điệp của riêng nó. Chúng khơi gợi trí tò mò khám phá cho những ai một lần đến tham quan ngôi chùa. 2.3.2. Tháp Bình Sơn (thuộc địa phận thôn Bình Sơn, xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) Tháp Bình Sơn Trang 16 Những giá trị mỹ thuật thời Trần Huyện Lập Thạch (nay tách thành hai huyện Lập Thạch và Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) có Tháp Bình Sơn độc đáo nằm trong khung cảnh "bóng người sầm uất bến Then". Tháp Bình Sơn (Tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then), được xây dựng từ thời Trần, nằm trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô. Ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý Trần ở Việt Nam dùng đất nung đời Trần xây cao nhất còn lại đến nay. Với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí hài hòa, là di tích lịch sử và nghệ thuật vào bậc nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Tương truyền, tháp có 15 tầng, trên nóc tháp còn có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát. Tháp hiện chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp đã bị vỡ, có chiều cao đo được 16,5 mét. Tháp cấu tạo hình vuông, nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ phần còn lại của tháp, căn cứ vào thống kê phân loại, cho thấy tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung. Trong lòng tháp là khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn. Thân của tháp Bình Sơn được cấu trúc bằng hai lớp gạch: gạch khẩu chịu lực có nhiều kích cỡ để trơn được sử dụng xây bệ, xây bên trong tháp và giật cấp làm mái phân tầng. Xung quanh tháp được ốp một lớp gạch vuông, phủ kín thân tháp. Mặt ngoài của gạch ốp này đều có hoa văn phong phú. Các nghệ nhân khi xây dựng tháp đã dựa vào tầm nhìn của người chiêm ngưỡng mà trang trí hoa văn tinh xảo, tỉ mỉ. Đẹp nhất là từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kĩ lưỡng, phức tạp mà nổi bật nhất là những hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu" v.v... Những tầng trên trang trí thưa dần và hình dáng cũng đơn giản hơn như hoa chanh, lá sòi (hoa dấu phảy) v.v… Nhiều truyền thuyết liên quan đến tháp Bình Sơn, cho thấy vị trí đặc biệt của tháp trong văn hóa tâm linh và ý thức cộng đồng của người dân bản địa, như truyền thuyết về xuất xứ, vốn là một tháp lớn dựng trong vườn tháp ở giữa cánh đồng Nẫu, xã Tứ Yên, Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô), sau một đêm mưa bão nhảy về vị trí hiện nay; truyền thuyết về chiếc giếng bên cạnh tháp với con vịt bằng vàng, là dấu tích nền móng một cây tháp khác có màu xanh bên tháp Bình Sơn, đã bay lên trời; Trang 17 Những giá trị mỹ thuật thời Trần truyền thuyết về ông Ngụy Đồ Chiêm thủ lĩnh địa phương, con một người đàn bà bán quán nước chân tháp, đã ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất khi bị quân triều đình đến đánh dẹp v.v... Năm 1969, nước ngập chân móng đến 60 cm, buộc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Vĩnh Phúc phải dựng một khung sắt và dùng vành đai thép để ghì chống cho tháp. Nhu cầu phục dựng tháp cấp thiết được đặt ra trong bối cảnh chiến tranh miền Bắc vẫn đang trong giai đoạn quyết liệt. Tháng 5 - 1972, dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa, xưởng phục chế tháp Bình Sơn được lập tại thị trấn Hương Canh, có sự hợp tác của Xưởng phục chế di tích của Bộ Văn hóa, Trường Cao Đẳng Mĩ thuật Công nghiệp Trung ương, Hợp tác xã gốm sành Hương Canh, Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phúc, cùng nhiều nghệ nhân, kĩ thuật viên, các chuyên viên về sành gốm góp sức nhằm bảo đảm tháp được dựng đúng từng chi tiết, phục chế đúng nguyên tác. Các kĩ thuật viên trường Cao đẳng Mĩ thuật Công nghiệp dựng lại hình những viên gạch bằng thạch cao lành lặn và các nghệ nhân Hương Canh chỉ việc theo mẫu những viên thạch cao, làm thành những viên gạch nung có mộng mang cá, có họa tiết đúng như bản gốc và phiên bản. Việc phục chế từng viên gạch với kích thước, đường nét hoàn toàn khác nhau, đòi hỏi người tạo tác phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẫn nại. Người ta dùng đất đỏ lấy ở gò Vườn Sui để chống co ngót, dùng đất sét xanh ở Đầm Mát có sự kết dính và mịn mặt, dùng đất Móng Trâu ở Quất Lưu làm nguyên liệu chính, tạo thành hợp chất chế tác gạch hoa văn của thế kỉ XIII, bổ sung cho những phần bị vỡ nát của tháp Bình Sơn. Công nhân phải làm tới 100 viên gạch phơi mới có một viên đúng mẫu và sau khi nung hầu như cứ 48 viên mẫu mới được một viên gạch đạt quy cách. Việc làm gạch để thay thế và bổ sung những chỗ bị vỡ trên tháp, bị nát, bị khuyết, bị lũ quét, phải kéo dài đến hai năm. Khi gắn lắp lại tháp, người ta phải căn cứ vào khuôn in thạch cao, đồ họa và ảnh chụp ban đầu, theo số mục đánh dấu trên từng viên gạch và thứ tự của từng kho dựng gạch. Tháp Bình Sơn ngày nay đang trở thành một di tích văn hoá cổ quý giá của vùng Trung du Bắc Bộ và cả nước Trang 18 Những giá trị mỹ thuật thời Trần *Trong thời Trần còn có nhiều ngôi chùa khác cũng nổi tiếng: Chùa Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) Chùa Bối Khê (Tam Ưng – Thanh Oai – Hà Tây) Chùa Thái Lạc (Lạc Hồng – Văn Lâm – Hưng Yên). Ngoài ra trong kiến trúc tôn giáo thời Trần còn có hệt hống chùa là trung tâm phái Trúc Lâm Tam Tổ ở vùng Yên Tử – Quảng Ninh. Nơi đây ngày nay đã trở thành một di tích văn hoá nổi tiếng thu hút nhiều khách tới tham quan, chiêm ngưỡng tài năng kiến trúc cổ của ông cha ta. Các chùa kể trên đều có bố cục mặt bằng theo kiểu Trang 19 Những giá trị mỹ thuật thời Trần nội công ngoại quốc và đến nay di tích còn lại của thời Trần rất ít. Trong số các ngôi chùa này có hai ngôi chùa thờ Pháp Vân, một trong cụm chùa tứ pháp, một trong thứ tôn giáo thờ các lực lượng thiên nhiên của các cơ dân nông nghiệp trồng lúa nước. Hai cụm chùa còn lại thờ các tổ của phái thiền Trúc Lâm. Như vậy, bên cạnh tôn giáo đạo phật từ nước ngoài truyền vào, ở thời Trần có một hệ thống Phật giáo mang tinh thần dân gian, dân tộc nghệ thuật rất phát triển. Bên cạnh những ngôi chùa do nhà nước xây dựng như chùa tháp Phổ Minh còn có một hệ thống chùa làng xã hội do dân chúng bỏ tiền ra xây dựng. Những công trình kiến trúc với quy mô vừa phải đã gắn bó với đời sống cộng đồng dân cư, giúp dân chống giặc ngoại xâm, cầu mưa thuận gió hoà cho đời sống nhân dân dễ, dàng thuận lợi. 2.3.3. Đền An Sinh VÀ Lăng mộ nhà Trần Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nắm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20km để thờ “Bát Vị Hoàng Đế “ thời Trần. Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam và đã được bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử . Được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn , quần thể di tích gồm một đền và tám lăng mộ . Khu đền Sinh thuộc thôn Nghĩa Hưng là nơi thờ chung tám vị vua nhà Trần và lăng mộ của Trần Thái Tông , Trần Thánh Tông và Giản Định Đế . Lăng mộ Trần Anh Tông ở khu trại lốc , lăng Trần Minh Tông ở khu Khe Gạch , lăng Trần Hiến Tông ở khu Ao Bèo , Lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn ,lăng Trần Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ . Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thồ cúng , triều đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều tòa điện miếu lớn để làm nôi tế lễ bái yết và cắt cử các quan về trông coi cẩn thận . toàn bộ khu vực này trở thành thánh địa tôn nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn . Đền Sinh gồm ba tòa nhà rộng , kết cấu hình chữ tam , tiền đường thờ Triều Trần, bái đường thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo , hậu cung thờ tám vua Trần : Thái Tông , Chánh Tông ,Anh Tông , Minh Tông ,Hiến Tông , Dụ Tông , Nghệ Tông và hoàng đế hậu Trần là Giản Định Đế (Trần ngồi ). Ở phía sau đền có 3 lăng các vua :Thái Tông, Thánh Tông và Giản Định Đế . rải rác ở suốt dãy núi còn có lăng các vua Anh Tông (còn gọi là Đồng Thái hoặc Thái Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan