Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH P...

Tài liệu NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

.PDF
137
397
51

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Hà NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Hà NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THÚY DUNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn này do tôi nghiên cứu, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu khảo sát thực trạng, thu thập và xử lý số liệu tại 3 trường THCS Đoàn Kết (Quận 6), THCS Nguyễn Văn Nghi (Quận Gò Vấp), THCS Trần Quốc Tuấn (Quận 7), tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu vi phạm người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiêm theo quy định của phòng Sau đại học – Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh Tác giả nghiên cứu 1 LỜI CẢM ƠN Cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: - Quý thầy cô giáo trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ bảo và hướng dẫn trong suốt thời gian tôi học cao học. - Quý thầy cô giáo phòng Sau đại học đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho tôi được học tập và nghiên cứu. - TS. Nguyễn Thị Thúy Dung Người hướng dẫn luận văn, đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn, động viên, khích lệ tinh thần và truyền nhiệt huyết để tôi hoàn thành được luận văn này. - BGH và các thầy cô giáo và các em học sinh trường THCS Đoàn Kết (Quận 6), THCS Nguyễn Văn Nghi (Quận Gò Vấp), Trần Quốc Tuấn (Quận 7) đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện trong quá trình nghiên cứu thực trạng. - Các anh chị và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện trong thời gian tôi học Cao học. - Các anh chị và các bạn lớp cao học Tâm lý K22 đã đoàn kết, chia sẻ kiến thức và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Xin trân trọng cảm ơn! 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 DANH MỤC VIẾT TẮT ............................................................................................. 5 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................6 2. Mục đích nghiên cứu .....................................................................................................7 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu..............................................................................7 4. Giả thuyết khoa học .......................................................................................................7 5. Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................................7 6. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................7 7. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................8 8. Kết cấu của đề tài .........................................................................................................10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................ 11 1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................11 1.1.1. Lược sử nghiên cứu ngoài nước ............................................................................ 11 1.1.2. Lược sử nghiên cứu trong nước ............................................................................ 15 1.2. Các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài ...................................................................18 1.2.1. Nhu cầu .................................................................................................................. 18 1.2.2. Tham vấn ............................................................................................................... 23 1.2.3. Giới tính ................................................................................................................. 28 1.2.4. Một số vấn đề về học sinh trung học cơ sở ........................................................... 31 1.2.5. Nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh THCS .............................................. 37 CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................................................... 40 2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu .........................................................................40 2.2.1. Khách thể nghiên cứu ............................................................................................ 40 2.2.2. Thang điểm và xử lý số liệu .................................................................................. 41 2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh một số trường THCS Tp. HCM .............................................................................................42 2.2.1. Mức độ nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh THCS.................................. 42 2.2.2. Nhu cầu về các nội dung tham vấn về giới tính của học sinh THCS .................... 50 3 2.2.3. Nhu cầu về hình thức tham vấn về giới tính của học sinh THCS ......................... 68 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh THCS .... 78 Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 89 CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NHU CẦU THAM VẤN VỀ GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 90 3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ...........................................................................................90 3.1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 90 3.1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................................... 90 3.2. Các biện pháp ............................................................................................................91 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 107 4 DANH MỤC VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ ĐTB Điểm trung bình ĐLC Độ lệch chuẩn HS Học sinh GDGT Giáo dục giới tính GT Giới tính GV Giáo viên TV Tham vấn Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh TC Thân chủ TN Thiếu niên THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông NTV Nhà tham vấn 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đang tiến dần lên Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, muốn đất nước phát triển kịp với các cường quốc trên thế giới, không còn con đường nào khác là phát triển Giáo dục. Thế hệ trẻ là mầm non của đất nước, những người sẽ nắm giữ vận mệnh của đất nước trong tương lai, đang học tập và rèn luyện trong nhà trường. Họ có nhiều ước mơ, hoài bão nhưng cũng có những nhu cầu cần được đáp ứng từ vật chất đến tinh thần. Riêng trong lĩnh vực tinh thần, ngoài nhu cầu được học tập, vui chơi giải trí, giao tiếp... họ còn có nhu cầu tham vấn về giới tính, muốn khám phá về bản thân, giới tính. Đây là nhu cầu tự nhiên và cấp thiết đối với quá trình trưởng thành và phát triển. Đặc biệt, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở vừa bước vào tuổi dậy thì và phát dục. Ngoài sự phát dục, ở thiếu niên còn có những thay đổi căn bản về hình thái và giải phẫu sinh lý khác gây mất cân bằng. Hơn nữa, đây là thời kỳ cái “tôi” hình thành và phát triển mạnh mẽ, nhằm tạo ra những phẩm chất mới, đánh dấu sự chuyển tiếp sang giai đoạn khác về chất trong sự phát triển nhân cách. Sự dậy thì đã kích thích ở tuổi thiếu niên mối quan tâm đến ngưới khác giới, làm nảy sinh những rung cảm và xúc cảm giới tính. Nhu cầu được cung cấp và chia sẻ các vấn đề về sự phát triển giới tính của các em là rất cao. Hơn nữa, giáo dục giới tính có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh ở lứa tuổi đang lớn và việc duy trì thế hệ mai sau, góp phần xây dựng một xã hội với con người phát triển toàn diện về sinh lý và tâm lý. Từ năm học 2006 - 2007, chương trình giáo dục giới tính, dân số, sức khỏe sinh sản được đưa vào chương trình học từ lớp 1 đến lớp 12… đã phần nào giáo dục, cung cấp thêm kiến thức cho học sinh về giới tính, tình bạn trong sáng, tình yêu lành mạnh, an toàn tình dục… Song tất cả các chương trình này chỉ mới dừng ở mức dạy cho học sinh những bài học vỡ lòng, vấn đề giới và giới tính chưa thực sự được đề cập nhiều trong nhà trường. Ở các trường trung học cơ sở hiện nay, những giờ học về giới tính còn mang tính hình thức, chưa sát với thực tiễn nặng về lý thuyết, chưa cung cấp đủ các kiến thức giới tính để các em bước vào đời, chưa đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về giới tính của học sinh. 6 Xuất phát từ những lí do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu là “Nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh một số trường trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh một số trường trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất các biện pháp thúc đẩy nhu cầu tham vấn về giới tính cho học sinh trung học cơ sở. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh một số trường trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Khách thể nghiên cứu - 500 học sinh của các trường trung học cơ sở từ khối lớp 6 đến khối lớp 9. - 30 Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn sinh học, giáo dục công dân và 5 chuyên viên tham vấn học đường. 4. Giả thuyết khoa học - Học sinh lứa tuổi trung học cơ sở có nhu cầu đa dạng về cả nội dung lẫn hình thức tham vấn về giới tính trong nhà trường. - Nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh THCS có sự khác biệt theo độ tuổi và giới tính. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: nhu cầu, tham vấn, ngiới tính, học sinh trung học cơ sở, nhu cầu tham vấn về giới tính của HS THCS. 5.2. Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của HS THCS. 5.3. Kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao nhu cầu tham vấn về giới tính cho học sinh trung học cơ sở. 6. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: tìm hiểu nhu cầu của học sinh trung học cơ sở về 7 + Nhu cầu của học sinh về nội dung tham vấn về giới tính + Nhu cầu của học sinh về hình thức tham vấn về giới tính + Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh - Địa bàn: tìm hiểu nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh tại 3 trường THCS Đoàn Kết (Quận 6), Trần Quốc Tuấn (Quận 7), Nguyễn Văn Nghi (Quận Gò Vấp) từ khối lớp 6 đến lớp 9. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận Quan điểm Mác xít: đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Vì vậy, khi nghiên cứu nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở cần đặt vấn đề nghiên cứu trong sự phát triển, biến đổi của đời sống về mặt kinh tế, xã hội, văn hoá để có thể hiểu được những khía cạnh khác nhau, tác động đến nhu cầu của học sinh cũng như những biến đổi trong sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi. Quan điểm thực tiễn: nghiên cứu nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Mục đích: thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Cách tiến hành: đọc, phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu để xây dựng khung lý thuyết và nội dung nghiên cứu của đề tài. 7.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi Mục đích: Bảng hỏi dành cho học sinh trung học cơ sở nhằm tìm hiểu nhu cầu về nội dung và các hình thức tham vấn, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của HS THCS. Bảng hỏi dành cho giáo viên nhằm tìm hiểu nhu cầu về nội dung và các hình thức tham vấn, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của HS THCS. Cách tiến hành: 8 - Giai đoạn 1: xây dựng bảng hỏi mở để thăm dò ý kiến của học sinh về nhu cầu tham vấn về giới tính. - Giai đoạn 2: dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và ý kiến thu được từ bảng hỏi mở, tác giả tiến hành xây dựng bảng hỏi làm công cụ nghiên cứu nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh. - Giai đoạn 3: phát phiếu để thu thập dữ liệu về vấn đề nghiên cứu. 7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Mục đích: phỏng vấn sâu học sinh để tìm hiểu những nguyện vọng tham vấn về nội dung, hình thức và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh. Phỏng vấn sâu giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, chuyên viên tham vấn học đường nhằm làm rõ các nhu cầu về nội dung và hình thức tham vấn về giới tính, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới của học sinh trung học cơ sở. Cách tiến hành: phỏng vấn sâu học sinh và giáo viên, ghi chép, phân tích và tổng hợp các ý kiến về vấn đề nghiên cứu. 7.2.2.3. Phương pháp quan sát Mục đích: tìm hiểu hứng thú, thái độ tiếp thu của học sinh qua các tiết học và qua các chương trình hoạt động ngoại khóa tìm hiểu kiến thức về giới tính nhằm làm rõ hơn mức độ nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh. Cách tiến hành: quan sát và ghi lại bằng hình ảnh, âm thanh các biểu hiện nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh qua các tiết học về giới tính thông qua các môn học: Sinh học, Giáo dục công dân, Chương trình hoạt động ngoại khóa. 7.2.3. Phương pháp chuyên gia Mục đích: lấy ý kiến chuyên gia để có thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở. Cách tiến hành: phỏng vấn các chuyên gia về tâm lý giáo dục và giáo dục giới tính. 7.2.4. Phương pháp thống kê toán học: Mục đích: xử lý, phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu. Cách thức thực hiện: số liệu thu được sẽ được xử lý bằng toán thống kê ứng dụng trong nghiên cứu. Tác giả dùng phần mềm SPSS để xử lý số liệu. 9 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 3 chương. Cụ thể, các chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Kết quả nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các biện pháp nâng cao nhu cầu tham vấn về giới tính của học sinh trung học cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Lược sử nghiên cứu ngoài nước Vấn đề giới tính, giáo dục giới tính, tham vấn giới tính đã được quan tâm và nghiên cứu từ thời cổ trung đại. Ở thời kỳ này của văn minh loài người, giáo dục giới tính được đề cập dưới dạng các câu chuyện thần thoại, kinh thánh như kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu” của Hazma,… Trong đó, các tác giả không những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức, tôn giáo cho tình yêu mà còn cung cấp các kiến thức về sinh học. Các thầy thuốc thời kỳ cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý đến những chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn của chức năng đó, đặc biệt đời sống tính dục của con người. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính được mở rộng. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học J. Bachocen (Thụy sĩ), J. Mac Lennan (Anh), E. Westermach (Phần lan)… không những gắn sự phát triển quan hệ tính dục với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã hội [22, tr 9]. Cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Karft Ebing (Áo), M. Hirschfeld và A. Moll (Đức), H. Ellis (Anh)… đã bắt đầu tiến hành công tác nghiên cứu khách quan về tính dục của con người. Họ đã miêu tả hàng loạt dạng bất thường trong tâm lý tính dục và tán thành việc xúc tiến công tác giáo dục tính dục một cách khoa học. Đầu thế kỷ XX, xuất hiện một số quan điểm về vấn đề giáo dục giới tính và có sự tham gia của các quan điểm tâm lý. Giai đoạn này chịu ảnh hưởng của thuyết Sigmund Freud. Thuyết của ông tập trung chú ý vào mối quan hệ giữa các vấn đề tâm lý nhân cách với các dạng tình dục khác nhau. Trong những năm 20 – 30 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu tính dục phát triển mạnh mẽ và gắn với phong trào gọi là “phấn đấu vì những cải cách tính dục”, đòi hỏi bình đẳng nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ, tự do ly hôn và sử dụng các biện pháp phòng tránh thai, giáo dục giới tính trên cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận trong thời kỳ này còn nặng tính tư biện, tách rời khỏi cơ sở khoa học và thực tiễn [22, tr 9]. 11 Năm 1921 tại Mỹ, một ủy ban liên nghành được thành lập để nghiên cứu các vấn đề tính dục. Ủy ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mô rộng về các định hướng tâm lý tính dục và hành vi của con người. Nối tiếp công trình của nhà nghiên cứu H. Kingsey là công trình của các nhà nghiên cứu W. Masters và V. Johnson, vào năm 1954. Các tác giả đã tập trung vào việc phát hiện các chuẩn mực trong tính dục. Công trình này được công bố năm 1966 (sau 11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lý đáng tin cậy về đời sống tính dục của con người. Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N. Zabanov và V.I. Iakovenko mang tên “cuộc điều tra tính dục” đã được tiến hành trong sự cấm đoán của Nga Hoàng. Trên 6000 bảng điều tra được phát ra nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bảng và công trình nghiên cứu được công bố năm 1992. Nhiều nhà lãnh đạo, hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của Liên Xô V.I. Lênin, Marxim Gorki, Maiacovxki, đặc biệt là A.X Makarenko và V.A. Sukhomlinxki đã đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời sống giới tính, tình yêu hôn nhân gia đình...đã quan tâm đến việc GDGT cho con người và coi đó là một nội dung quan trọng cần phải giáo dục cho HS. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, V.I. Lênin, đã nói: “cùng với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình cũng được coi là cấp bách” [22, tr11] Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y khoa, giáo dục học, tâm lý học, sinh lý học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho khoa học giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm Mác – xít. Họ đã đưa ra nhiều phương hướng quan trọng trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô. A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra nhiều vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ nam nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc giáo dục con cái. Khi giáo dục một con người, không thể quên giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội dung, phương pháp giáo dục giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục Liên Xô coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời sống gia đình là một nội dung của giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào đời sống gia đình” [22, tr 12]. Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ chức việc hướng dẫn và tổ chức giáo dục, hướng dẫn các vấn đề về giới tính, nhất là đời sống tình dục và hôn nhân. Tầm quan trọng của việc “cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung phương pháp 12 giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã được Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971 thông qua, và tại cuộc “Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hóa gia đình, giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia đình tại Varsava” năm 1977 [22, tr 13]. Ngay từ những năm 70, việc GDGT cho HS đã được đề xuất, giảng dạy ở một số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất cả các trường học trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và giáo dục giới tính tại các trường phổ thông. Một chương trình giáo dục giới tính được biên soạn tỉ mỉ. Đặc biệt, trong chương trình giáo dục từ năm 1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10. Như vậy, ở Liên Xô việc GDGT đã được quan tâm và đưa vào giảng dạy cho học sinh từ rất sớm. Ở Đức, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert, Aresin, Smolka, Hopman, Grassel. Một cuốn bách khoa toàn thư về giới tính được biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới tính cho học sinh. Ngay từ những năm 1959 nhiều tài liệu về GDGT đã được biên soạn công phu. Vấn đề GDGT được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc biệt từ những năm 70 của thế kỷ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng: “Những hiểu biết khoa học về vấn đề GDGT cần dược trang bị ngay cho cả các cô mẫu giáo, vườn trẻ. Ở đó cũng cần phải nói đến sự giáo dục về mối quan hệ đúng đắn giữa những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ và cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8 với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sách tham khảo được quy định [22, tr 14]. Tại Anh Quốc, giáo dục giới tính là không bắt buộc tại các trường học và cha mẹ có thể từ chối cho con em mình tham gia vào các buổi học này. Nội dung tập trung trên hệ thống sinh sản, sự phát triển của bào thai, và những thay đổi về cơ thể và tâm lý của thanh niên, còn thông tin về tránh thai và tình dục an toàn là tùy ý, và việc thảo luận về các mối quan hệ thường bị bỏ qua. Anh là một trong những nước có tỷ lệ mang thai thanh niên cao nhất châu Âu và giáo dục giới tính đang là một vấn đề sôi nổi tại chính phủ và trên truyền thông. Trong một cuộc nghiên cứu năm 2000 của Đại học Brighton, nhiều trẻ em 14 tới 15 tuổi nói rằng chúng thất vọng với nội dung của những bài học giới tính và cảm thấy sự thiếu tin cậy khiến thanh niên ngại hỏi giáo viên về tránh thai. Một cuộc điều tra về tình dục của Tổ chức Y tế Thế giới liên quan tới những thói quen của thanh niên châu Âu năm 2006 cho thấy tỷ lệ sinh trong thanh niên 15 đến 19 tuổi tại Anh Quốc là 27.8 trên 1,000 dân số. 13 Tại Hà Lan, được chính phủ Hà Lan trợ cấp, gói giáo dục “Lang leve de liefde” (Tình yêu dài lâu), được phát triển hồi cuối thập niên 1980, có mục tiêu tạo cho thanh niên các kỹ năng tự đưa ra quyết định về sức khỏe và tình dục. Giáo sư Brett van den Andrews, một nhà khoa học nghiên cứu ngành y tốt nghiệp từ ISHSS (International School for Humanities and Social Sciences), đã cho rằng việc cho trẻ em trong độ tuổi 4 đến 7 tiếp xúc với giáo dục giới tính có thể làm giảm đáng kể nguy cơ về mang thai sớm hay sức khoẻ trong tương lai. Tất nhiên các lý thuyết của ông đã trở thành chủ đề nghiên cứu của NIGS (Netherlands Institute of Geooracular Sciences). Quả thực, ông có danh tiếng lớn trong ngành y và đã được đề cập tới trên nhiều tờ báo y tế. Hầu như mọi trường cấp hai đều có các bài giáo dục giới tính như một phần của các buổi học sinh học và hơn một nửa các trường tiểu học có thảo luận về tình dục và tránh thai. Nội dung tập trung trên các khía cạnh sinh học của sinh sản cũng như các giá trị, thái độ, thông tin và các kỹ năng đàm phán. Truyền thông đã khuyến khích đối thoại công khai và chương trình chăm sóc sức khoẻ đảm bảo một cách tiếp cận bí mật và không phán xét. Hà Lan có tỷ lệ mang thai thanh niên ở hàng thấp nhất thế giới, và cách tiếp cận của Hà Lan thường được các nước khác coi là hình mẫu. Tại Pháp, giáo dục giới tính đã là một phần của chương trình học trong trường từ năm 1973. Các trường sẽ cung cấp 30 tới 40 giờ giáo dục giới tính, và cung cấp bao cao su, cho các học sinh ở lớp 8 và lớp 9. Tháng 1 năm 2000, chính phủ Pháp đã tung ra một chiến dịch thông tin về tránh thai với các chương trình tư vấn qua đài và phát năm triệu tờ rơi về tránh thai cho học sinh trung học. Nhiều nước như Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan....đều đã tiến hành GDGT cho học sinh Phổ thông bằng những chương trình bắt buộc. Các nước phương Tây khác như: Đan Mạch, Thụy Điển, Mỹ... đã tiến hành GDGT cho học sinh khá sớm (1966). Đặc biệt là một số nước Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latin cũng đưa GDGT vào trường phổ thông và đã đạt kết quả tốt. Ở Châu Phi, giáo dục giới tính tập trung trên việc ngăn chặn sự lây truyền bệnh dịch AIDS. Hầu hết các chính phủ trong khu vực đã thành lập các chương trình giáo dục về AIDS với sự trợ giúp của Tổ chức Y tế Thế giới và các Tổ chức Phi Chính phủ quốc tế. Các giáo viên Ai Cập dạy về các hệ thống sinh sản nam nữ, các cơ quan sinh dục, tránh thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục tại các trường công ở năm thứ hai và thứ ba của cấp hai (khi học sinh khoảng 12 – 14 tuổi). Một chương trình phối hợp giữa UNDP, UNICEF, và các bộ y tế và giáo dục đã khuyến khích giáo dục giới tính ở quy mô lớn tại các vùng nông thôn và tăng cường nhận thức về những nguy hiểm của việc cắt bộ phận sinh dục nữ. 14 Ở Châu Á, tình trạng các chương trình giáo dục giới tính đang ở những mức độ phát triển rất khác nhau. Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc có khung chính sách hệ thống về việc giảng dạy giới tính trong các trường học. Malaysia, Philippines và Thái Lan đánh giá các nhu cầu sức khỏe sinh sản thanh niên với một quan điểm phát triển giáo dục riêng biệt cho thanh niên, các thông điệp và nguyên liệu. Ấn Độ có các chương trình với mục tiêu hướng tới trẻ em từ 9 đến 16 tuổi. Ở Philippines, GDGT đã được đưa và chương trình nội khóa của trường phổ thông cơ sở và trường trung học phổ thông, và là một bộ phận của giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Nội dung GDGT đã được lồng ghép một cách hợp lý vào nhiều bộ môn văn hóa khác nhau, chủ yếu là môn kế hoạch hóa gia đình qua các giờ chính khóa và qua các hoạt động ngoại khóa, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này, việc nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học, những phương pháp và những phương tiện dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học sinh, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này cũng được mở rộng ra ngoài trường, đến các tầng lớp nhân dân khác nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong phú, qua các trung tâm tư vấn và đã được xã hội ủng hộ. Trung Quốc đã tiến hành GDGT cho học sinh từ năm 1974 và hiện nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính. Như vậy, trên thế giới việc nghiên cứu và GDGT đã có bề dày lịch sử, nhiều nước ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Á,... đã đưa GDGT vào giảng dạy từ cấp 2 và xem như là môn học bắt buộc. 1.1.2. Lược sử nghiên cứu trong nước Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, nho giáo, nên vấn đề giáo dục giới tính ở nước ta vẫn còn non trẻ, chính vì thế mà việc bàn luận một cách công khai vấn đề này cho thanh thiếu niên bắt đầu khá muộn và chậm chạp. Thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số, giáo dục giới tính đã bắt đầu được quan tâm rộng rãi. Trong chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký đã nêu rõ: “Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng chương trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ Giáo Dục đã đưa ra Chỉ thị về giáo dục dân số và GDGT trong toàn hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước [22, tr 15]. 15 Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thủy, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Nho, Bùi Ngọc Oánh,.. đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính, tình yêu, hôn nhân gia đình đã được tiến hành từ năm 1985 đến nay, bước đầu làm cơ sở cho việc GDGT cho thanh niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về vấn đề GT và GDGT ở Việt Nam. Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số, giáo dục giới tính đã bắt đầu được quan tâm rộng rãi [22, tr 15]. Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống gia đình và GDGT cho học sinh có ký hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thủy và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành thận trọng và khoa học, nghiên cứu nhiều vấn đề sâu rộng như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và GDGT của giáo viên, học sinh, phụ huynh... Ở nhiều nơi trong cả nước đã tiến hành GDGT cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12 [22, tr 11]. Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề tài nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khỏe sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời sống gia đình, Giáo dục giới tính cho học sinh. Ngoài ra c̣òn một số đề tài nghiên cứu, bài báo, tạp chí, kỷ yếu khoa học đề cập về vấn đề này như: - “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận GDGT của thanh niên học sinh” của tác giả Bùi Ngọc Oánh – Luận án phó tiến sĩ khoa học, 1991. - Kỷ yếu hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại các trường THPT tại TP Hồ Chí Minh hiện nay” (Viện nghiên cứu giáo dục, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003) bao gồm các bài tham luận, báo cáo khoa học của các nhà khoa học giáo dục, các chuyên gia tư vấn… Các bài viết đã trình bày khá rõ thực trạng nhu cầu tư vấn học đường ở trường THPT tại TP HCM, từ đó đưa ra một số nguyên nhân và các giải pháp định hướng cơ bản. - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục, lí luận, thực tiễn và 16 định hướng phát triển”, Hội khoa học Tâm lý – giáo dục Việt Nam, (2006) tập hợp nhiều bài viết có giá trị xung quanh vấn đề này. Trong đó các tác giả đã phân tích nhiều nội dung của công tác tư vấn học đường, tham vấn về giới tính, giáo dục giới tính dưới những góc độ khác nhau... - Nguyễn Bá Đạt, “Về tư vấn tâm lý – hướng nghiệp ở trường THPT”, Tạp chí giáo dục. - Nguyễn Phương Hoa, “Cần có các chuyên viên tâm lý trong trường học”, Tạp chí Tâm lý học - Viện tâm lý học, trung tâm Khoa học Xã hội – Nhân văn Quốc gia, số 9/9/2002) nêu ra một số khó khăn tâm lý mà học sinh thường gặp phải và đề suất các giải pháp cụ thể trong đó có lưu ý đến việc cần thiết phải có các chuyên viên tâm lý trong trường học nhằm giúp giải quyết thắc mắc cho học sinh. - Trần Thị Minh Đức - Đỗ Hoàng, “Tham vấn học đường - nhìn từ góc độ giới”, Tạp chí Tâm lý học, số 11- 11/2006, là một bài viết có giá trị xung quanh vấn đề tham vấn học đường nhìn từ góc độ giới tính, trong đó tác giả đã chỉ ra những nét khác biệt cơ bản trong tâm lý của học sinh nam và nữ. Và còn một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ… cũng nghiên cứu về vấn đề GDGT, nhằm tìm hiểu thực trạng về nhận thức, thái độ của học sinh với vấn đề GDGT, từ đó đưa ra một số biện pháp để đưa GDGT vào trong nhà trường một cách hệ thống, cũng như nâng cao chất lượng của công tác GDGT cho thanh niên, học sinh. Tuy nhiên, đa số các đề tài này nghiên cứu chủ yếu trên đối tượng học sinh THPT, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu trên đối tượng HS THCS. Với đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu tham vần về giới tính của học sinh một số trường THCS Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả tìm hiểu những nhu cầu của học sinh THCS về nội dung, hình thức tham vấn, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn về giới tính của HS, từ đó kiến nghị một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác tham vấn giới tính và thúc đẩy nhu cầu tham vấn về giới tính cho học sinh một cách hiệu quả, góp phần vào công tác GDGT nước ta hiện nay 17 1.2. Các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài 1.2.1. Nhu cầu 1.2.1.1. Khái niệm nhu cầu Mỗi cá thể sống để tồn tại và phát triển cần phải có phương tiện, điều kiện cần thiết từ môi trường sống mang lại. Hơn nữa, trong cuộc sống con người luôn lựa chọn những đối tượng có ý nghĩa nhất định với bản thân từ thế giới khách quan, môi trường sống mang lại để đáp ứng những điều kiện cần thiết cho bản thân. Những đòi hỏi này được gọi là nhu cầu. Có nhiều quan niệm về nhu cầu. Theo từ điển tiếng Việt, “nhu” có nghĩa là cần dùng, cần thiết; “Nhu cầu” là sự tìm kiếm đồ vật gì do sự cần dùng. Ví dụ như nhu cầu ăn, ngủ, học hành... [1]. Theo quan điểm Mac - Lênin “nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm bảo cho sự phát triển của mình” [12]. Như vậy, nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con người, là một thuộc tính tâm lý của cá nhân, là một yếu tố trong nhóm xu hướng của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng, xác định thái độ của con người đối với hiện thực đó là trách nhiệm của bản thân. Nhu cầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống và hoạt động của cá nhân. Chính vì vậy, nhu cầu chi phối rất mạnh đến đời sống tâm lý và hành vi của con người. Trong lịch sử phát triển của tâm lý học, nhu cầu là một chủ đề quan trọng được các nhà tâm lý học quan tâm. D.N. Uznatze - nhà tâm lý học Liên Xô, người đầu tiên đề cập khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu. Trong cuốn Tâm lý học Đại cương xuất bản năm 1940, ông đã chú ý tới khái niệm nhu cầu và ý nghĩa của nó đối với hoạt động của cơ thể ngoài nhu cầu của con người. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nhu cầu phát triển tương ứng với sự phát triển của con người [25]. A.G. Kovaliov khẳng định: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu do con người cảm thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động của cá nhân” [14]. Theo A.N. Leonchiev: “Nhu cầu là trạng thái của con người cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, cho con người nói chung, sống và hoạt động” [6]. Những khái niệm trên cho thấy nhu cầu thúc đẩy hoạt động tích cực của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Nếu mục tiêu là cái đích cuối cùng mà con người 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan