Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh trong một số trường trung học phổ thôn...

Tài liệu Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh trong một số trường trung học phổ thông huyện đan phượng hà nội

.PDF
115
59
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC BÙI THỊ THOA NHU CẦU ĐƯỢC TRỢ GIÚP TÂM LÝ CỦA HỌC SINH TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN ĐAN PHƯỢNG – HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGHÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THU DUNG TS. BÙI THỊ THÚY HẰNG HÀ NỘI - 2012 1 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1 ACA Hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ 2 ASCA Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ 3 ĐTB Điểm trung bình 4 HS Học sinh 5 HĐTGTLHĐ Hoạt động trợ giúp tâm lý học đường 6 SLC Số lực chọn 7 THPT Trung học phổ thông 8 TLHĐ Tâm lý học đường 9 TVTL Tư vấn tâm lý 10 TVTLHĐ Tư vấn tâm lý học đường 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 2.Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 3.Đối tượng và khách thể nghiên cứu ......................................................... 4.Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 5.Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6.Phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 7.Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8.Cấu trúc luận văn ..................................................................................... Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .............. 1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường ..................................... 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại nước ngoài ...................... 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại Việt Nam......................... 1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài .......................................... 1.2.1. Một số lý thuyết nghiên cứu về nhu cầu ........................................... 1.2.2.Khái niệm nhu cầu ............................................................................ 1.2.3. Khái niệm tâm lý học đường............................................................ 1.2.4. Khái niệm “trợ giúp tâm lý học đường” ........................................... 1.2.5. Khái niệm nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh. 1.2.6. Một số đặc điểm tâm – sinh lý cơ bản của học sinh trung học phổ thông .............................................................................................. 1.2.7.Những khó khăn tâm lý mà học sinh trung học phổ thông thường gặp ..... 1.2.8. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT .................................. 1.3.Các tiêu chí để đánh giá nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh ................................................................................................. Kết luận chương 1 ....................................................................................... Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu .......................................................... 2.2. Quy trình nghiên cứu ........................................................................... 2.3. Các phương pháp nghiên cứu .............................................................. 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ...................................................... 4 1 2 3 3 3 4 4 4 5 5 5 8 13 13 18 22 25 28 28 34 36 37 39 40 40 40 43 43 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ................................................... Kết luận chương 2 ....................................................................................... Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 3.1. Thực trạng những khó khăn tâm lý mà học sinh trung học phổ thông gặp phải trong cuộc sống .................................................................. 3.1.1. Thực trạng những khó khăn tâm lý của học sinh .............................. 3.1.2. Các phương thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh .............. 3.2. Nhận thức của học sinh THPT về hoạt động trợ giúp tâm lý học đường ..... 3.3. Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh THPT ............ 3.3.1.Nhu cầu của khách thể đối với các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường nói chung ......................................................................................... 3.3.2. Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh đã sử dụng dịch vụ....... 3.3.3. Nhu cầu của học sinh về nội dung trợ giúp tâm lý học đường ......... 3.3.4. Nhu cầu của học sinh về hình thức trợ giúp tâm lý học đường ........ 3.3.5. Mong đợi của học sinh đối với các chuyên gia tâm lý ..................... KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 1. Kết luận ................................................................................................... 2. Khuyến nghị ............................................................................................ TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ PHỤ LỤC 5 43 46 47 37 37 69 73 79 79 81 83 88 92 94 94 96 98 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu dần dần được khắc phục. Đời sống vật chất, tinh thần của mọi người, mọi nhà đang từng bước được cải thiện. Song xã hội càng phát triển thì những vấn đề của đời sống tâm lý, tình cảm cũng càng nảy sinh phong phú, đa dạng và bức xúc hơn. Các hoạt động tham vấn tâm lý xuất hiện và ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là ở những đô thị đông dân. Tham vấn tâm lý được ứng dụng ở nhiều loại hình tham vấn khác nhau, trong đó trợ giúp tâm lý học đường đang trở thành một nhu cầu cấp bách của xã hội cần được đáp ứng kịp thời. Hoạt động trợ giúp tâm lý học đường không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với học sinh, sinh viên mà nó còn rất cần thiết cho giáo viên, phụ huynh học sinh – những người có liên quan đến sự nghiệp “trồng người”. Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội, các yêu cầu ngày càng cao của nhà trường và cả những điều bất cập trong thực tiễn giáo dục; thêm vào đó là sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ, thầy cô đang tạo ra những áp lực rất lớn và gây căng thẳng cho học sinh trong cuộc sống, trong học tập và trong quá trình phát triển. Mặt khác, sự hiểu biết của học sinh về bản thân mình cũng như kỹ năng sống của các em vẫn còn hạn chế trước những sức ép nói trên. Thực tế cho thấy, học sinh trong nhà trường phổ thông có thể có những rối loạn về phát triển tâm lý, rối loạn phát triển các kỹ năng nhà trường (như đọc, viết, tính toán…), những rối loạn về cảm xúc như lo âu, trầm cảm hay những rối loạn về hành vi (như vô kỷ luật, bỏ học, trốn học, trộm cắp, hung bạo…). Theo số liệu điều tra, tỷ lệ có dấu hiệu rối nhiễu tâm lý trong trẻ em ở tuổi học đường là khoảng 20% (Hà Nội và các tỉnh lân cận, theo điều tra năm 1999 của Bệnh viện Nhi Trung ương là 10 – 24% và năm 2003 là 20 – 30%; tại Biên Hòa, theo điều tra của sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai, năm 2000 là 10 – 24%; tại Hà Nội ở 1023 học sinh tiểu 1 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi học và trung học cơ sở là 19,46% theo điều tra năm 2005 của Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương). Hậu quả là ngày càng có nhiều học sinh gặp không ít khó khăn trong học tập, tu dưỡng đạo đức, xây dựng lý tưởng sống cho mình cũng như xác định cách thức ứng xử cho phù hợp trong các mối quan hệ xung quanh. Vì vậy, những học sinh này rất cần được sự trợ giúp của các nhà chuyên môn, của thầy cô giáo và cha mẹ. Đứng trước thực trạng trên cho thấy rất cần có những hoạt động trợ giúp tâm lý học đường cho học sinh. Việc xây dựng các hoạt động trợ giúp tâm lý cho học sinh trong nhà trường sẽ giúp cho giáo viên và học sinh hiểu biết rõ hơn về những vấn đề liên quan tới sự hình thành và phát triển nhân cách của các em, để giúp đỡ và hướng cho các em phát triển một cách đúng đắn, lành mạnh, hiểu về bản thân và người khác tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, các hoạt động trợ giúp tâm lý trong trường học còn chưa được thực hiện một cách phổ biến; một số trường phổ thông ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) có lập các phòng tư vấn nhưng hoạt động chưa có hiệu quả cao. Riêng ở huyện Đan Phượng – thành phố Hà Nội, hiện nay chưa có trường phổ thông nào trên địa bàn huyện thành lập phòng tham vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh; tổ chức hoạt động trợ giúp tâm lý cho học sinh tại các trường phổ thông còn rất ít. Các em chưa được biết, chưa được tiếp cận nhiều với các hoạt động trợ giúp tâm lý. Vì vậy việc tìm hiểu nhu cầu trợ giúp tâm lý trong trường học của của học sinh là rất cần thiết, trên cơ sở đó đánh giá nhu cầu trợ giúp tâm lý theo các mức độ khác nhau để từ đó xác định phương hướng tổ chức các hoạt động trợ giúp tâm lý nhằm đáp ứng nhu cầu của các em. Từ lý luận và thực tiễn trên chúng tôi chọn đề tài: “Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh trong một số trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng – thành phố Hà Nội” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông nhằm đề xuất một số kiến nghị về việc triển khai các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường tại trường học. 2 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1.Đối tượng nghiên cứu Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông huyện Đan Phượng – thành phố Hà Nội. 3.2.Khách thể nghiên cứu Tổng số lượng khách thể nghiên cứu: 516 học sinh Trong đó: 248 học sinh trường THPT Đan Phượng 268 học sinh trường THPT Hồng Thái (Số khách thể này được lựa chọn một cách ngẫu nhiên) Tại các trường, chúng tôi lựa chọn khách thể ngẫu nhiên ở cả 3 khối: khối 10, khối 11, khối 12 để làm tăng tính khách quan và đa dạng của kết quả nghiên cứu. 4. Giả thuyết nghiên cứu - Nhu cầu trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông huyện Đan Phượng rất đa dạng và phong phú. Có sự khác nhau nhưng không nhiều về mức độ và sự biểu hiện nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường giữa các nhóm khách thể. - Học sinh trung học phổ thông huyện Đan Phượng hầu như chưa được tiếp cận với các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường vì nhiều lý do khác nhau. - Phần lớn khách thể vẫn có nhận thức chưa đầy đủ về dịch vụ trợ giúp tâm lý học đường. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu -Tìm hiểu cơ sở lý luận về nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông. -Nghiên cứu thực trạng nhu cầu trợ giúp tâm lý học đường của học sinh trung học phổ thông. -Đề xuất một số kiến nghị về việc triển khai các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường tại cơ sở. 3 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 6. Phạm vi nghiên cứu -Về địa bàn nghiên cứu: Trường THPT Đan Phượng – thành phố Hà Nội Trường THPT Hồng Thái – thành phố Hà Nội -Về thời gian nghiên cứu: đề tài được tiến hành trong khoảng thời gian từ tháng 04/2011 đến 05/2012 7. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu và thực hiện luận văn này, chúng tôi lựa chọn những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn sâu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp thống kê toán học 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 03 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu - Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu - Chương 3: Kết quả nghiên cứu 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại nước ngoài Tâm lý học đường là một nhánh của nghành Tâm lý học được ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX tại Mỹ. Hiện nay, dịch vụ này đã phát triển và rất được quan tâm tại những nước phát triển. Đây là ứng dụng thực tế của Tâm lý học vào môi trường học đường, trong đó có vận dụng các kiến thức, kỹ năng của Tâm lý học phát triển, Tâm lý học nhận thức, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học lâm sàng. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những hướng dẫn về nghề nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance) cho học sinh trường công và Frank Parsons, được xem như là cha đẻ của nghề Hướng dẫn (còn gọi là Khải đạo), khi ông giới thiệu cuốn sách “Lựa chọn một nghề” (Choosing a Vocation) (1909), trong đó ông trình bày những phương pháp kết nối những đặc điểm tính cách của mỗi cá nhân với một nghề nghiệp. Frank Parsons đã hình dung ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp có hệ thống trong trường học. Nguyên tắc của ông trong công tác hướng dẫn tư vấn nghề đã ảnh hưởng sâu sắc đến những lĩnh vực rộng lớn hơn của công tác tham vấn. Mục đích chính của Parsons đối với công tác hướng dẫn tư vấn nghề được thể hiện trong 3 quá trình: (1) Thấu hiểu một cách rõ ràng về bản thân, về khả năng thích hoài bão, nguồn lực cũng như những hạn chế của cá nhân đối với nghề, động lực thúc đẩy cá nhân chọn nghề. (2) Kiến thức về những yêu cầu, điều kiện của thành công, những thuận lợi và khó khăn, sự đền bù; những cơ hội và những triển vọng phát triển trong giới hạn khác nhau của công việc. (3) Nguyên nhân thực sự trong mối liên hệ của hai nhóm trong thực tế. 5 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Sau này, mặc dù công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp trong trường học được phát triển, song nhiều người đã tán thành việc cần có một cách tiếp cận rộng hơn với tham vấn trong trường học. Những người này cho rằng, những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp không nên chỉ tập trung quan tâm về nghành nghề mà nên chú ý đến sự khác biệt lớn trong những nhu cầu về tâm lý và giáo dục của học sinh. Nói cách khác, những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp phải là những nhà tham vấn tâm lý. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhu cầu đánh giá các cá nhân bằng trắc nghiệm xuất hiện. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, đã kéo theo những hậu quả tâm lý nặng nề làm nảy sinh nhu cầu này càng cao và nó đã tác động một cách trực tiếp đến hoạt động hướng nghiệp trong trường học [35]. Năm 1927, chuyên nghành Tâm lý học đường đầu tiên được đào tạo tại trường Đại học New York bao gồm đào tạo đại học và sau đại học. Trong những năm sau đó, tham vấn nói chung và tham vấn tâm lý học đường được nhìn nhận một cách đầy đủ và chính thống hơn. Năm 1930, lý thuyết về các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson – lý thuyết chỉ đạo cho hoạt động tham vấn ra đời. Năm 1940, Đạo luật về giáo dục hướng nghiệp (George Barden) ra đời đã đem lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển và hỗ trợ cho hoạt động tham vấn trong môi trường học đường cũng như những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn tâm lý học đường, những kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ chính thức từ chính phủ về sự quản lý, điều hành, tài chính, nhân lực…. Do đó, hoạt động này dần dần đi vào quy củ hơn. Năm 1953, Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Mỹ (ASCA) tham gia vào APGA – tiền thân của Hiệp hội tham vấn tâm lý Hoa Kỳ ACA (American Counseling Association) ngày nay. Năm 1962, trong cuốn sách của Wrenn “Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi” (The Counselor in a changing world) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học đường. 6 Năm 1964, Hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý học đường Hoa Kỳ phát triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà tham vấn tâm lý học đường. Năm 1980, các nhà tham vấn tâm lý học đường đã thay đổi chức năng và vai trò của nhà tâm lý học đường từ “đánh giá và đánh giá chuyên sâu” (assessment and placement intensive) sang “đánh giá và can thiệp sâu đối với những nhóm có nguy cơ ở trường phổ thông” (preferential assessment, interventions and at least secondary prevention for at risk groups). Những thay đổi này đã làm cho nỗ lực đáp ứng nhu cầu của sinh viên, học sinh cũng như phụ huynh học sinh, giáo viên và cộng đồng ngày được nâng cao. Đến những năm của thập niên 80, 90, nhu cầu về việc làm rõ những đặc tính và vai trò của nhà tham vấn tâm lý học đường được xuất hiện với sự “chín muồi” của những vấn đề pháp lý liên quan. Đến năm 1997, các tiêu chuẩn quốc gia dành cho các hoạt động tham vấn, hỗ trợ tâm lý học đường (National Standards for School Counseling Programs) xuất hiện. Kể từ đó, nghành tham vấn Tâm lý học đường được xem như chính thức ra đời. Hiện nay, Hiệp hội các nhà tham vấn Tâm lý học đường Hoa Kỳ (ASCA) được xem như là nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn, hỗ trợ tâm lý học đường của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA hiện là một phân hội của ACA với hơn 23.000 hội viên trên toàn thế giới. Ngày nay, các dịch vụ tham vấn, hỗ trợ tâm lý học đường đã trở nên phổ biến và không thể thiếu được trong các trường học, các cơ sở đào tạo ở Anh, Pháp, Nga, Đức…. và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Ở Nga, hoạt động trợ giúp tâm lý xuất hiện muộn hơn vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX cùng với những thực nghiệm tâm lý nhằm ứng dụng Tâm lý học vào các trường học của thành phố Mátxcơva. Tại đây, chính sự xuất hiện nhiều chương trình, nhiều phương pháp dạy học khác nhau, các cơ sở đào tạo mới ra đời và sự xuất hiện của các giá trị mới như tự do tư duy, tính tích cực…. đã thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ vừa ra đời này. 7 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tâm lý học đường tại Việt Nam Hiện nay, Tâm lý học đường trên thế giới đã có một quá trình phát triển lâu dài. Tuy nhiên, ở nước ta, Tâm lý học đường vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ. Các hoạt động tham vấn, trợ giúp tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên còn chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức. Trước đây, trong thời gian chiếm đóng miền Nam Việt Nam, Mỹ đã cho triển khai các hoạt động Khải đạo trong các trường học. Đến năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, cách thức tiếp cận với giáo dục đã thay đổi làm cho hoạt động này không còn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa của nó nữa. Năm 1984, trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ và tâm bệnh N-T do bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thành lập đã trở thành nơi đầu tiên thực hành, phát triển nghề tham vấn trong đó có lĩnh vực tâm lý trẻ em và gia đình. Phương châm nghiên cứu của trung tâm là chiết trung, không suy tôn một trường phái nào, không lấy một học thuyết nào làm chính thống. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu sâu từng trường hợp. Phương pháp này xuất phát từ quan điểm mỗi con người là thế giới riêng. Ngoài nghiên cứu ứng dụng, trung tâm còn biên soạn nhiều đầu sách, chương trình đào tạo, dịch và phổ biến một số phương pháp nghiên cứu tâm lý trẻ em.[4] Ngoài ra phải kể đến các công trình nghiên cứu của Viện tâm lý học, khoa Tâm lý – giáo dục của trường Đại học Sư Phạm, khoa Tâm lý học – trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, các tổ bộ môn tâm lý - giáo dục các trường đại học, cao đẳng sư phạm trong cả nước. Đó là những cơ sở không chỉ đào tạo nghành tâm lý, giáo dục mà còn là những cơ sở nghiên cứu về tâm lý học đường ở nước ta.Trong những năm qua, sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động giáo dục và đào tạo trong nhà trường, gia đình và xã hội. Khi đời sống kinh tế được nâng cao đã làm cho học sinh, sinh viên có điều kiện phát triển về thể lực, trí lực, về kỹ năng sống… Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi quan trọng do sự phát triển 8 kinh tế - xã hội mang lại thì nó cũng có những thách thức. Có thể thấy, trong thập niên gần đây,có khá nhiều học sinh, sinh viên trong các trường học vẫn đang phải đối mặt với các vấn đề tâm sinh lý trong tiến trình phát triển con người và vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hội nhập. Thực tế cho thấy, chưa bao giờ học sinh phổ thông lại phải chịu một áp lực học tập lớn như hiện nay bởi những kì vọng của gia đình và bối cảnh cạnh tranh gắt gao của cơ chế thị trường. Những áp lực này đã tạo nên những khó khăn tâm lý rất lớn và các em cần tới sự trợ giúp. Trong nghiên cứu “Một số yếu tố ảnh hưởng đển công tác hướng nghiệp cho học sinh trong các trường trung học phổ thông hiện nay”(Hội thảo Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO. Hội tâm lí học – giáo dục học 7/2007) tác giả Phạm Mạnh Hà đưa ra nhận định, gần 80% trẻ có rối nhiễu tâm lý có căn nguyên từ học đường. Khi khảo sát thực trạng lo âu của học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội năm 2006 người ta thấy cứ 10 trẻ đến tư vấn và trị liệu rối nhiễu tâm lý thì có 7 đến 8 trẻ có căn nguyên liên quan tới vấn đề học đường.Trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng người ta cũng cảnh bảo hiện tượng tự tử hiện nay của học sinh sinh viên cũng xuất phát từ một trong số lý do liên quan tới học tập của các em. Chính vì vậy, thông tư số 9971/BGD – ĐT, Bộ giáo dục đào tạo đã gửi các cơ sở đào tạo và trường học về việc “triển khai công tác tư vấn cho học sinh – sinh viên”, đồng thời Bộ giáo dục cũng phát động việc xây dựng “ngôi trường thân thiện, học sinh tích cực” trong trường học. Điều này chứng tỏ rằng, các cấp lãnh đạo nghành giáo dục bước đầu đã có những hoạt động quan tâm đến việc phát triển và cung cấp các dịch vụ trợ giúp tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên nhằm giúp các em ngoài việc được trang bị tốt về văn hóa, các em còn có một sức khỏe tinh thần lành mạnh. Có lẽ cũng chính vì mục tiêu đó mà nhiều trường đã kết hợp với các tổ chức, các viện, các trường đào tạo nghiên cứu về tâm lý để mở ra các phòng hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên. Ở thành phố Hồ Chí Minh, tính đến nay đã có khoảng 35 trường từ bậc tiểu học, trung học cơ sở đến phổ 9 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi thông trung học. Bắt đầu từ năm 2009, sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh sẽ tuyển tham vấn viên tâm lý. Ở Hà Nội, các phòng tham vấn của trường THPT Nguyễn Tất Thành, Trần Hưng Đạo, Lê Qúy Đôn, Trần Nhân Tông cũng bước đầu hoạt động có kết quả, do vậy, nhiều trường khác cũng đưa mô hình tham vấn học đường vào áp dụng để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên, phụ huynh. Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức nhằm xác định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ, nội dung, mô hình hoạt động….của tâm lý học đường như: - Bắt đầu từ năm 2000, một số trường học tại thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp với các chuyên viên tâm lý và các tổ chức trong và ngoài nước để triển khai các chương trình tham vấn tâm lý học đường cho học sinh và đã xây dựng được 2 phòng tham vấn tâm lý học đường. Đên năm 2005, số phòng tham vấn tâm lý học đường là 31 [36]. - Năm 2003, lần đầu tiên, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh” do Viện nghiên cứu Giáo dục - Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. - Năm 2004, Trung tâm hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) được thành lập và hoạt động tham vấn tâm lý học đường được xem là một trong những lĩnh vực hoạt động chính của trung tâm. -Năm 2005, hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình tham vấn trong trường học” do Văn phòng tư vấn trẻ em thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. - Hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý, giáo dục, thực tiễn và định hướng phát triển” do Hội khoa học tâm lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2006 - Năm 2007, hội thảo khoa học “Hỗ trợ tâm lý cho học sinh sinh viên” do Hội khoa học tâm lý Đồng Nai tổ chức. - Hội thảo “Tâm lý học đường triển khai và ứng dụng thực tiễn vào nhà trường Việt Nam” do trường Đại học sự phạm Hà Nội và Viện nghiên cứu sư phạm tiên hành, năm 2008 10 - Hội thảo khoa học quốc tế “Nhu cầu định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam” do nhiều cơ quan tổ chức nghiên cứu và đào tạo, tổ chức năm 2099 - Gần đây nhất là “Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về tâm lý học đường ở Việt Nam, thúc đẩy nghiên cứu và thực hành tâm lý học đường tại Việt Nam, do 8 cơ sở nghiên cứu và đào tạo đại học ở Việt Nam (Viện Tâm lý học, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQG Hà Nội, trường Đại học giáo dục – ĐHQG Hà Nội,….) cùng 5 trường đại học của Hoa Kỳ tổ chức tháng 01 năm 2011 tại Huế. Ngoài những cuộc hội thảo, tọa đàm về tâm lý học đường, những cơ quan, tổ chức nghiên cứu và đào tạo chuyên nghành tâm lý học cũng đã có những nghiên cứu về các vấn đề tâm lý học đường ở các cấp độ khác nhau. Có thể kể ra đây một số nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến vấn đề mà chúng tôi đang nghiên cứu như: Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mùi và cộng sự về đề tài “Nhu cầu tham vấn của học sinh một số trường trung học trên địa bàn thành phố Hà Nội” cho thấy “sự hài lòng, rất yên tâm” của các em về cuộc sống hiện tại chỉ chiếm 3,2% trong khi mức độ “hài lòng và lo lắng” pha trộn với “thường xuyên lo lắng, không yên tâm” là trên 65%. Điều này phản ánh cuộc sống của các em hiện đang có nhiều áp lực. Các em rất cần có sự trợ giúp, tư vấn kịp thời để vượt qua những áp lực, trợ ngại, những khó khăn tâm lý. Nghiên cứu về “Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh – sinh viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Bùi Thị Xuân Mai cho thấy có trên 90% số khách thể được hỏi cho là cần và rất cần có các dịch vụ tham vấn tâm lý. Nhóm khách thể ở lứa tuổi vị thành niên thì có nhu cầu tham vấn về vấn đề học tập,quan hệ bạn bè, vấn đề trạng thái tâm lý không cân bằng…. Trong khi đó, nhóm lứa tuổi thanh niên lại quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về việc làm, tình bạn, tình yêu, sức khỏe trong đó có trạng thái tâm lý không cân bằng. 11 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Nghiên cứu “Nhu cầu được trợ giúp tâm lý học đường của học sinh cuối THCS và THPT thành phố Nam Định” của tác giả Nguyễn Thị Minh Hằng, Nguyễn Thu Trang, cho thấy có đến 84,7% số học sinh được hỏi cho rằng, các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường là rất cần thiết và có 69,8% các em cho biết nếu có các hoạt động này ở trường thì các em sẽ tham gia vào các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường nói chung và sẵn sàng đến phòng tâm lý học đường khi bản thân có những khó khăn tâm lý. Ngoài những công trình nghiên cứu, các luận văn, các nghiên cứu về nhu cầu tư vấn tâm lý… ở các cơ quan, tổ chức nghiên cứu về tâm lý thì tại khoa tâm lý học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng còn có các khóa luận tốt nghiệp, luận văn khác của sinh viên, học viên cao học nghiên cứu về những khó khăn, rối nhiễu tâm lý mà học sinh thường gặp phải như: Khóa luận tốt nghiệp: “Tìm hiểu một số nguyên nhân tâm lý của hiện tượng kém thích nghi học đường ở học sinh lớp 6” của Nguyễn Thị Thúy (2002); “Bước đầu phát hiện và đánh giá rối nhiễu tăng động giảm chú ý của học sinh THCS” của Trần Quang Minh (2002); “Bước đầu tìm hiểu về rối nhiễu lo âu, trầm cảm của học sinh THPT” của Lê Thị Hà (2003); “Tìm hiểu những rối nhiễu hành vi và một số yếu tố liên quan đến rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên” của Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (2004)… Những nghiên cứu trên đây đã phần nào cho thấy những khó khăn, rối nhiễu tâm lý mà học sinh hay gặp phải là rất đa dạng. Học sinh ở bất kì cấp học nào cũng đều có nguy cơ mắc phải những rối nhiễu tâm lý. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động trợ giúp tâm lý học đường là rất cần thiết. Với những hiệu quả mà dịch vụ mang lại, chắc chắn sẽ góp phần giúp các em giải quyết các khó khăn tâm lý, hạn chế tối đa những rối nhiễu tâm lý mà các em có khả năng gặp phải, đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Như vậy, tham vấn tâm lý học đường tại Việt Nam vẫn là một trong những vấn đề mang tính thời sự cao, thu hút sự quan tâm không chỉ của các 12 nhà quản lý, các chuyên gia, các tổ chức trong nước và quốc tế mà ngay cả các em học sinh – sinh viên, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo. Tuy nhiên, để nó trở thành một hoạt động phổ biến trong trường học thì đòi hỏi phải có thời gian và sự nỗ lực lớn của không chỉ các nhà tham vấn mà còn của toàn xã hội. 1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 1.2.1. Một số lý thuyết nghiên cứu về nhu cầu Trong Tâm lý học, nhu cầu là một đối tượng được nhiều trường phái, nhiều tác giả nghiên cứu, vì vậy mà có không ít quan điểm về nhu cầu. Đầu tiên phải kể đến chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý học Mỹ J. Watson (1878 – 1958) sáng lập. Bài báo với tên gọi “Tâm lý học từ góc nhìn của nhà tâm lý học hành vi” vào năm 1913 được coi là sự công khai công bố khai sinh dòng tâm lý học này. Theo ông, tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi cơ thể. Hành vi của con người được hiểu là tất cả các cử chỉ và lời nói đã hình thành trong cuộc sống hay bẩm sinh và là những gì con người đã làm từ lúc sinh ra cho đến chết. Hành vi là tất cả các phản ứng (R) và sự đáp ứng các kích thích bên ngoài (S), gián tiếp qua đó cá thể được thích nghi [33, tr.170]. Theo Tâm lý học hành vi, mọi vấn đề tâm lý như ý thức, tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, động cơ… đều là những khái niệm mơ hồ, không ai thấy được, đo được. Vì thế chúng đều là phi vật chất và không thể quyết định được một hiện tượng vật chất. Nhưng mặt khác, ngay từ thế kỉ 19, các tác giả như Ethorndike, NE. Miller đã có những thí nghiệm nghiên cứu về nhu cầu ở động vật và khẳng định: các kiểu hành vi của con vật được thúc đẩy bởi nhu cầu, nhu cầu có thể quyết định hành vi. Sau này, các đại biểu tâm lý học hành vi mới đưa vào công thức S – R một biến số trung gian: đó là nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống,… Các tác giả này giải thích rằng biến số trung gian có tác dụng điều chỉnh đáp ứng phù hợp với các kích thích vào cơ thể. Các nhà hành vi không coi nhu cầu là thuộc về tâm lý, nhưng trên thực tế, nghiên cứu của họ cho thấy các thực nghiệm đã chỉ ra rằng các nhà tâm lý học 13 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi hành vi nghiên cứu khá rõ và kỹ lưỡng về nhu cầu, đặc biệt là những nhu cầu sinh lý. Điểm hạn chế của họ là quan niệm đồng nhất nhu cầu của con người và nhu cầu ở con vật. Thiếu sót này do các thực nghiệm mà các nhà tâm lý học hành vi dựa vào để đi đến kết luận thường là thực nghiệm trên động vật. Clark Hull (1952) với thuyết xung năng theo hướng tiếp cận sinh học cho rằng: nhu cầu sinh lý chi phối đời sống con người, thúc đẩy hoạt động của con người. ng không phủ định sự có mặt của những nhu cầu, động cơ khác nhưng theo ông, chúng kết hợp và bị chi phối bởi nhu cầu thể chất. Về bản chất, thuyết xung năng đã sinh vật hóa nhu cầu của con người, xem nhu cầu như là xung năng mang tính sinh vật, nảy sinh từ sự thiếu hụt thức ăn, nước uống, không khí… qua đó phủ nhận tính xã hội, bản chất xã hội của nhu cầu, quy gán nhu cầu nội tâm và nhu cầu xã hội đều do yếu tố sinh vật tạo ra. Một trong những học thuyết về tâm lý có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực cuộc sống và có giá trị thực tiễn cho đến ngày hôm nay là thuyết Phân tâm học. Nó gắn liền với tên tuổi của Sigmund Freud (1856 – 1939) và đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Trong quá trình nghiên cứu của mình, ông cũng đã đề cập đến vấn đề nhu cầu của cơ thể trong “Lý thuyết bản năng của con người”. ng khẳng định, Phân tâm học coi trọng nhu cầu tự do cá nhân như các nhu cầu tự nhiên, đặc biệt là nhu cầu tình dục. S. Freud cho rằng, toàn bộ sức mạnh tác động ở phía sau những nhu cầu cấp bách của của cái ấy và biểu hiện những nhu cầu thuộc loại thể chất trong tâm thần là xung lực. Theo ông, những xung lực này có bản chất sinh học và rất đa dạng. Nói cách khác, xung lực bắt nguồn từ những nhu cầu cơ thể. Trong tất cả xung lực vốn có của cá nhân, chỉ có hai xung lực cơ bản: tính dục (Eros) và phá hủy (Thanatos). Khi phân tích các xung lực Eros, ông cho rằng Eros mạnh hơn Thanatos; từ đó Freud đi đến khẳng định, nó không phải là thứ nhu cầu tính dục nói chung, mà đó là xung lực khát dục (Libido), tức là những khoái lạc tính dục của cá nhân. Theo cách hiểu của S.Freud, Libido giống như sự đói ăn nói chung. Con người đói, tức là nhu cầu tiêu thụ thức ăn cần phải 14 được thỏa mãn, cũng vậy, con người khát dục khi có nhu cầu nhục dục cần được thỏa mãn. Xung lực Libido chính là sự tạo ra khoái lạc nhục dục do nhu cầu tính dục được thỏa mãn [25, tr.259].Việc thỏa mãn nhu cầu tình dục sẽ giải phóng năng lượng tự nhiên, và như thế, tự do cá nhân thực sự được tôn trọng, kìm hãm nhu cầu này sẽ dẫn đến hành vi mất định hướng của con người. Một trong những nhà Tâm lý học nổi tiếng hiện nay theo xu hướng Freud mới là Erich Fromm (1901). E. Fromm cho rằng cơ chế tự nhiên và xã hội trong con người là vô thức, đó là cái phi lý, hạt nhân của nhân cách. Nó biểu hiện sự mong muốn vươn tới cái hài hòa toàn diện của con người. ng cho rằng nhu cầu tạo ra cái tự nhiên trong con người. Những nhu cầu đó là: 1. Nhu cầu quan hệ giữa người và người; 2. Nhu cầu tồn tại “cái tâm” con người; 3. Nhu cầu về sự bền vững và hài hòa; 4. Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, với giai cấp, với tôn giáo; 5. Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu. Những nhu cầu này là thành phần tạo nên nhân cách [1, tr.70] Tâm lý học nhân văn ra đời như là một khuynh hướng đối lập với tâm lý học hành vi và Phân tâm học. Trường phái tâm lý học nhân văn là sự tổng hợp nhiều khuynh hướng mới và nhiều trường phái tư tưởng khác nhau với các đại diện tiêu biểu như: A. Maslow, C. Rogers, G. Allport... trong đó “Thuyết thứ bậc nhu cầu” của A. Maslow (1908 – 1970) có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự thứ bậc từ cấp thiết đến ít cấp thiết hơn như sau: 15 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi =>nhu cầu tham gia các quan hệ liên cá nhân, giúp người khác tự khẳng định =>nhu cầu tự hoàn thiện, tự khẳng định => nhu cầu thẩm mỹ, vươn tới cái đẹp => nhu cầu nhận thức, khám phá => nhu cầu được tôn trọng, được biết đến =>nhu cầu được sở hữu và yêu thương => nhu cầu được an toàn => Nhu cầu về cơ thể: đói, khát, mệt Bốn nhu cầu đầu tiên (bắt đầu từ dưới chân tháp lên) Maslow gọi là nhu cầu thiếu hụt, các nhu cầu còn lại, ông cho chúng là nhu cầu phát triển. Để đi lên đến đỉnh của “chiếc thang nhu cầu” thì chúng ta phải bắt đầu từ chân thang. Mỗi nhu cầu đòi hỏi con người cần phải có những nỗ lực, cố gắng nhất định để có thể chuyển lên bậc thang cao hơn. Nếu một nhu cầu ở mức thấp không được đáp ứng thì cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bậc thang tiếp theo.[1, tr.79] Theo Maslow, sau khi các nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn thì sẽ nảy sinh đòi hỏi nhu cầu cấp cao hơn. Quan điểm này khá cứng nhắc. Để khắc phục chúng, ông đã đưa ra quan điểm linh hoạt hơn như: hành vi của con người thường không chỉ do một nhu cầu nào đó thúc đẩy mà là kết quả của nhiều tác động. Nó có thể là sự tác động tổng hợp của một số nhu cầu, cũng có thể là kết quả tác động của tập quán, sự từng trải và năng lực của con người 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng