Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐND
Hội đồng nhân dân
HĐXX
Hội đồng xét xử
HTND
Hội thẩm nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
TCTAND
Tổ chức Tòa án nhân dân
TTDS
Tố tụng dân sự
VKS
Viện kiểm sát
0
A.LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên công dân có
quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội. Thực hiện chế độ xét xử có hội
thẩm nhân dân tham gia không những tạo điều kiện cho mọi người tham gia
vào công việc của nhà nước, đảm bảo thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự
mà còn tạo điều kiện cho tòa án giải quyết đúng vụ án dân sự. Vì vậy, thực
hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia được quy định là một
nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự. Để hiểu rõ hơn,nhóm em xin chọn vấn
đề “nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia”.
Bài làm của nhóm em không tránh được sự thiếu sót, kính mong các
thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài làm nhóm em hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn!
B: NỘI DUNG
I.LÍ LUẬN CHUNG
1.khái niệm và điểu kiện trở thành Hội thẩm nhân dân thực hiện chế độ
xét xử.
Theo Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các Văn
bản pháp luật liên quan thì Hội thẩm nhân dân là người có uy tín và tín nhiệm
trước quần chúng, đại diện và thay mặt cho nhân dân tham gia vào công tác
xét xử. Việc thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân nhằm đảm bảo dân chủ
trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hơn nữa, Theo quy định tại điều 103 Hiến
pháp 2013, điều 4 LTCTAND năm 2002 (điều 8 LTCTAND năm 2014 có
hiệu lực ngày 01/6/2015 tới đây), thì việc tham gia của HTND là bắt buộc (trừ
trường hợp khác luật định), như vậy, HTND đóng vai trò quan trọng không
thể thiếu khi xét xử.
Như vậy, quy định của Văn bản pháp quy cao nhất không quy định cụ
thể điều kiện về năng lực chuyên môn…mà chỉ quy định và đề cao tính uy tín,
tín nhiệm trước nhân dân.
Các điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm
nhân dân tham gia:
1
Về điều kiện về địa vị pháp lý của HTND: Theo quy định tại khoản 2
Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì ngoài Chánh án tòa án, Thẩm
phán, Thư ký, Viện trưởng viện kiểm sát, Kiểm sát viên thì Hội thẩm
nhân dân cũng là người tiến hành tố tụng. Và theo quy định tại Điều 11
và Điều 12 BLTTDS thì khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền
với Thẩm phán; Tòa án xét xử độc lập và quyết định theo đa số (Điều
14 BLTTDS).
Về điều kiện tuyển chọn, bầu, cử HTND: tiêu chuẩn Hội thẩm gồm:
- là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
- có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín
trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm, kiên quyết bảo vệ công
lý, liêm khiết và trung thực;
- có kiến thức pháp luật; có hiểu biết xã hội; có sức khỏe đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Về chế độ đãi ngộ đối với HTND: mức biên chế như hiện nay, mức trợ
cấp của HTND là 90.000 đồng/ngày (Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg
ngày 05/10/2012).
2.Cơ sở pháp lý
Thứ nhất, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có HTND tham gia là
nguyên tắc Hiến định, tại khoản 1, điều 103 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Việc
xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp
xét xử theo thủ tục rút gọn”. Như vậy, ta có thể hiểu, việc xét xử sơ thẩm phải
có HTND tham gia.
Thứ hai, điều 4 luật TCTAND năm 2002 quy định: “Việc xét xử của
Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, việc xét xử của Tòa án quân sự có
Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Theo điều 8 luật TCTAND năm
2014 (có hiệu lực ngày 01/6/2015) thì: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có
Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn”.
2
Thứ ba, điều 11 BLTTDS năm 2004 quy định: “Việc xét xử các vụ án
dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét
xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”. Theo quy định này thì
HTND chỉ tham gia xét xử các vụ án dân sự, còn đối với việc dân sự thì
HTND không tham gia. Nguyên tắc này được ghi nhận và thể hiện trong
BLTTDS là nguyên tắc cơ bản của TTDS.
3.Cơ sở thực tiễn
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự
2004, được hiểu là khi xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, thành phần Hội đồng
xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm nhân dân ngang
quyền với Thẩm phán. Nhìn ở góc độ bản chất Nhà nước, hoạt động xét xử
không phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt động của tập thể, không
chỉ là hoạt động của quan tòa mà còn có sự tham gia giám sát, tham gia xét xử
của nhân dân thông qua những người đại diện cho họ, đó là Hội thẩm nhân
dân. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia đã
gián tiếp thể hiện bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Trong đó, nhân dân làm chủ Nhà nước, nắm quyền
lực Nhà nước, nhân dân được tham gia vào các hoạt động của Nhà nước,
trong đó có hoạt động xét xử.
Ở khía cạnh nhân quyền và dân chủ, có thể thấy, nguyên tắc này là một
đảm bảo để các quyền cơ bản của công dân được tôn trọng. Bởi các quyền cơ
bản của mỗi con người trong xã hội chỉ được bảo đảm khi họ (đại diện của
họ) được tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động
xét xử của Tòa án. Hơn nữa, pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm nhân
dân tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực đó. HTND là người
được bầu hoặc cử tham gia vào hoạt động xét xử. HTND là người trực tiếp
làm việc, sống và tham gia sinh hoạt xã hội cùng quần chúng nhân dân, họ
đem đến phiên tòa những suy nghĩ và ý kiến của quần chúng về vụ án, góp
phần giúp Tòa án xử lý vụ án chính xác, công minh .
Tại các phiên tòa, HTND có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo tính dân
chủ trong hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án diễn ra
công bằng, chính xác, khách quan.
3
II.Nội dung nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dan
tham gia.
Từ những căn cứ nêu trên, ta có thế thấy, nguyên tắc thực hiện chế độ
xét xử có HTND tham gia được biểu hiện theo những nội dung sau:
Một là, Hội thẩm chỉ chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở thành
thành viên của Hội đồng xét xử khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Là một
trong những người tiến hành tố tụng Hội thẩm nhân dân có một vị trí pháp lý
khá quan trọng, hội đồng xét xử thường bao gồm một thẩm phán và hai hội
thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm 2/3 trong thành phần Hội đồng xét
xử sơ thẩm( trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn); đối với những vụ án
phức tạp, tính chất nghiêm trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân có thể lên đến
3 người trong tổng số 5 thành viên của Hội đồng xét xử. Như vậy, trong thành
phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân bao giờ cũng
chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Đây là một lợi thế để các Hội thẩm
nhân dân thể hiện "ngang quyền" trên tinh thần dân chủ.
Hai là, Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là Hội thẩm nhân dân cùng
với Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án, không kể vấn đề
về nội dung hay thủ tục tố tụng dân sự. Mặc dù Hội thẩm không phải là cán
bộ của Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động
xét xử của Tòa án.
Như vậy trong quá trình xét xử, khi quyết định bản án đều bỏ phiếu và
quyết định theo đa số, HTND ngang quyền với Thẩm phán trong quá trình xét
xử. Tất cả các bản án Sơ thẩm, Phúc thẩm vi phạm các yêu cầu về nội dung
hay hình thức về sự có mặt của HTND đều bị hủy bỏ để xét xử lại. Khi xét xử
vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và HTND thảo luận và thông qua tại
phòng nghị án. Với tư cách là thành viên HĐXX, HTND có quyền tiến hành
các hoạt động tố tụng, biểu quyết như Thẩm phán về tất cả những vấn đề
thuộc quyền của HĐXX theo nguyên tắc đa số.
Từ nội dung trên, Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm
nhân dân tham gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của
Tòa án nói riêng và trong hoạt động thực thi, giám sát việc thi hành pháp luật
4
nói chung. Nguyên tắc còn thể hiện ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn với vai trò
như một trong những yếu tố để ổn định trật tự xã hội và xây dựng pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
* Ý nghĩa chính trị - xã hội:
- Nguyên tắc góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình tiến hành tố
tụng được thực hiện một cách thống nhất.
- Về mặt xã hội, có ý nghĩa lớn trọng việc giữ gìn “tình làng nghĩa
xóm”, ổn định xã hội. Thực tế cho thấy, bản chất các vụ án dân sự thường
xuất phát từ các tranh chấp trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất thường
ngay của người dân. Vì thế, bằng vai trò cá nhân, Hội thẩm nhân dân khi tham
gia xét xử các vụ án dân sự sẽ có đóng góp nhất định.
* Ý nghĩa pháp lý:
- Nguyên tắc là cơ sở pháp lý quan trọng để Hội thẩm nhân dân được
tham gia xét xử và tiến hành hoạt động xét xử độc lập, khách quan, đúng pháp
luật. Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004 cùng ghi nhận nguyên
tắc này vừa là động thái hợp pháp hóa lại vừa thể hiện sự ràng buộc quyền và
nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân khi tham gia hoạt động xét xử.
- Nguyên tắc là cơ sở đảm bảo sự thực thi Hiến pháp và pháp luật trong
cuộc sống.
- Đây là nguyên tắc xuyên suốt, là tiền đề quan trọng để xây dựng các
quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của Hội thẩm nhân dân nói
riêng và hoạt động xét xử của Tòa án nói chung đã góp phần lành mạnh hóa
môi trường pháp lý, củng cố ý thức chấp hành pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Tòa án.
- Đối với việc giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của người dân: Bằng
hoạt động xét xử các vụ án dân sự, Tòa án giáo dục công dân tôn trọng pháp
luật, tôn trọng các chuẩn mực ứng xử trong xã hội góp phần không nhỏ trong
việc tăng cường ý thức pháp luật của mỗi người dân trong xã hội.
* Ý nghĩa đối với hoạt động xét xử:
Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc
tham gia của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà
còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm
5
phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một
phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ.
III.Thực tiễn thi hành quy định pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế độ
xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia
a.Những kết quả đạt được
Hiện nay, trên cả nước có trên 14.000 Hội thẩm, số lượng hội thẩm
nhân dân trung bình ở mỗi tỉnh hiện nay là khoảng 300 người , đảm bảo đủ
yêu cầu đặt ra trong hoạt động xét xử của tòa án. Trong đó, có nhiều Hội thẩm
nhân dân đã phát huy tốt vai trò của mình, thực hiện đúng các quyền và nghĩa
vụ do pháp luật quy định, góp phần quan trọng vào thành tích của ngành Tòa
án. Các địa phương đã chú trọng tới công tác bầu chọn HTND đáp ứng yêu
cầu. Tại tỉnh Quảng Ngãi, nhiệm kỳ 2011-2016, HĐND các cấp tỉnh Quảng
Nghĩa đã bầu ra 295 vị Hội thẩm, trong đó TAND tỉnh có 27 Hội thẩm,
TAND cấp huyện có 268 Hội thẩm. Hầu hết các vị hội thẩm có trình độ đại
học và trên đại học, hoạt động tại nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đầu nhiệm kỳ
đến nay, HTND trong hai cấp của tỉnh đã tham gia 4.032 lượt xét xử vụ án
các loại, đóng vai trò quan trọng trong việc xét xử và tuyên truyền pháp luật .
Với nhiều vụ án phức tạp, Thẩm phán và Hội thẩm đã chủ động tiến
hành trao đổi với nhau để chuẩn bị việc đưa vụ án ra xét xử và cùng quyết
định những vấn đề quan trọng như: đề nghị VKS điều tra bổ sụng một số tình
tiết, chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án; thay đổi biện
pháp ngăn chặn cho hợp lý; quyết định việc xét xử công khai hay xử kín; thời
gian, địa điểm mở phiên tòa cho thuận tiện cho các bên đương sự…Đây là
những vấn đề thường được HTND tham gia góp ý, đó là những vấn đề hoàn
toàn sát thực .
Qua thực tế cho thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những
người có uy tín trong xã hội, được quần chúng tín nhiệm và có ảnh hưởng
nhất định trong xã hội, họ thường là những người có lối sống gương mẫu, có
phẩm chất tốt, là tấm gương trong lao động, công tác, nhân dân tin cậy vào sự
công minh và vô tư của họ. Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của
cơ quan xét xử ngày càng được nâng cao và được nhân dân tin cậy ủng hộ,
đồng thời Hội thẩm còn đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền giáo
6
dục pháp luật. Bằng vai trò cá nhân, Hội thẩm đóng góp nhất định trong việc
giữ gìn " tình làng nghĩa xóm" ổn định xã hội, phòng chống tội phạm.
b.Một số bất cập, hạn chế
Trong tranh chấp dân sự và tố tụng dân sự, tính đúng, sai, thắng, thua
bắt buộc phải dựa trên quy định của pháp luật để phân xử; đồng nghĩa với
việc Hội đồng xét xử không thể dựa trên tính cảm quan hay niềm tin nội tâm
để phán quyết. Chúng ta không phủ nhận những kết quả đạt được trong công
tác xét xử của ngành Tòa án; nhưng đằng sau đó vẫn còn nhiều bất cập. Theo
báo cáo thì hiện nay ngành Tòa án có hàng trăm nghìn án tồn, án bị khiếu nại
(sai) và án không thể thi hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hệ lụy này và
một trong những nguyên nhân khách quan xuất phát từ nghĩa vụ, trách nhiệm
của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử.
Thứ nhất, khi Hiến pháp không đặt năng lực chuyên môn của Hội thẩm
nhân dân làm yêu cầu bắt buộc, dẫn đến việc có thể Hội thẩm nhân dân cũng
không cần kiến thức pháp lý khi tham gia xét xử, sự chênh lệch về chuyên
môn và nghiệp vụ giữa thẩm phán và hội thẩm. Hội thẩm dù có trình độ
chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp luật.Thực tế
cho thấy hiện nay đa phần các Hội thẩm nhân dân tham gia công tác xét xử sơ
thẩm trong tố tụng dân sự đều không được đào tạo qua các trường pháp lý,
không được đào tạo kỹ năng và nghiệp vụ xét xử. Một nghịch lý là khi xét xử,
Hội đồng phải căn cứ vào các văn bản pháp quy (Luật, Nghị định, Thông
tư…), nhưng hai trong số 3 người trong Hội đồng xét xử có thể không hiểu
luật; trong khi đó, tòa án lại xét xử độc lập và quyết định theo đa số.
Thứ hai, thực tế tham gia tố tụng nhiều vụ án dân sự, phải khẳng định
rằng đa phần Hội thẩm nhân dân không thể hiện được vai trò xét xử tại phiên
tòa, trách nhiệm pháp lý của HTND trên thực tế còn mờ nhạt. Mặc dù đã có
quy định trách nhiệm của hội thẩm nhân dân nhưng những quy định thực chất
là hình thức và thiếu thực tiễn. Hội thẩm gần như không phải chịu bất kỳ trách
nhiệm hành chính nào liên quan đến chất lượng xét xử. Sau khi kết thúc các
phần như xét hỏi, tranh luận thì nghị án là thủ tục bắt buộc trước khi Hội đồng
xét xử tuyên án. Các thành phần của Hội đồng xét xử sẽ thể hiện quan điểm
của mình và biểu quyết đối với quyết định của bản án. Nội dung biên bản
7
nghị án trong các vụ án dân sự tại cấp tòa sơ thẩm thể hiện tính thống nhất và
biểu quyết cao của Hội đồng xét xử; rất hiếm để thấy một biên bản nghị án có
quan điểm trái triều của Hội thẩm nhân dân.
Thứ ba, hội thẩm nhân dân còn hoạt động mang tính kiêm nhiệm. Quá
trình cơ cấu HTND theo từng lĩnh vực (kinh tế, giáo dục, lao động…) với
mục đích khi có các tranh chấp mà đương sự tại toàn có liên quan đến lĩnh
vực nào thì sẽ được mời đến tham gia nghiên cứu hồ sơ để xét xử. Thì trong
từng trường hợp, Hội thẩm sẽ am hiểu về lĩnh vực hơn Thẩm phán. Tuy
nhiên, về mặt pháp lý, trình độ chuyên môn pháp luật thì Hội thẩm lại hạn chế
hơn. Tại phiên tòa, chủ tọa hỏi là chính, HTND tham gia phiên tòa hỏi ít nói
chung họ “yên vị” trong Hội đồng xét xử. Tại phiên tòa, Thẩm phán với tư
cách chủ tọa thực hiện độc diễn từ A đến Z.Cũng vì hoạt động theo chế độ
kiêm nhiệm, thu nhập của HTND chủ yếu từ phía cơ quan nên ý thức, trách
nhiệm trong quá trình xét xử không áp dụng theo việc thi hành công vụ như
tại cơ quan, chính vì thế không phát huy được tinh thần trách nhiệm của họ
IV.Một số kiến nghị hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc thực hiện chế độ
xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia.
Trước thực trạng trên, các nhà làm luật nên xây dựng cụ thể các quy
định về Hội thẩm để nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của hội thẩm trong
quá trình tố tụng đúng như bản chất của nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân
dân tham gia. Sau đây là một số ý kiến của nhóm về vấn đề này:
Đầu tiên, Cần nâng cao trình độ pháp lý cho Hội thẩm, tạo điều kiện để
Hội thẩm tham gia vào công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án, tổ chức những buổi
hội thảo, trao đổi kinh nghiệm giữa các Thẩm phán, Hội thẩm; những chương
trình bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ xét xử, trình độ chuyên môn cho Hội
thẩm đáp ứng yêu cầu về chất lượng Hội thẩm .
Hai là, về tiêu chuẩn lựa chọn và giới thiệu người được bầu làm Hội
thẩm cần được cụ thể hơn nữa, ví dụ tiêu chuẩn kiến thức pháp lý không chỉ
yêu cầu kiến thức pháp lý chung chung mà cần quy định là có kiến thức pháp
lý được đào tạo trong hệ thống cơ sở đào tạo Luật với các hình thức khác
nhau, nhưng tối thiểu phải là có trình độ trung cấp pháp lý, ở những vùng khó
khăn có thể mở những lớp đào tạo ngắn hạn về kiến thức pháp lý, kỹ năng xét
8
xử. Những người được chỉ định là Hội thẩm trong vụ án nên được coi là
những người có hiểu biết sâu sắc về đối tượng, lĩnh vực mà các bên tranh
chấp. Hội thẩm phải được cung cấp thông tin về hoạt động xét xử và các kiến
thức pháp luật với trình độ chuyên môn về lĩnh vực nhất định.
Ba là, Về tổ chức: Đoàn Hội thẩm nên được coi là một Tổ chức xã hội
– nghề nghiệp như Đoàn Luật sư, không chịu sự quản lý của Chánh án như
hiện nay nữa mà có kinh phí hoạt động riêng, có Trưởng đoàn, Phó trưởng
đoàn, làm việc theo chế độ chuyên trách, là người trực tiếp quản lý, phân
công việc tham gia xét xử của Hội thẩm, như vậy một mặt vừa giảm bớt công
việc cho Tòa án, vừa hạn chế được tiêu cực trong Tòa án. Nên xúc tiến thành
lập một Văn phòng Hội thẩm, tạo mối quan hệ chặt chẽ với Tòa án, nhằm
nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Hội thẩm, giúp Tòa án nắm rõ lịch công
tác của Hội thẩm để có sự phân công hợp lý, đảm bảo cho các Hội thẩm phải
tham gia xét xử tránh tình trạng Hội thẩm cả năm, thậm chí cả nhiệm kỳ
không tham gia một phiên tòa nào.
Hàng năm phải tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
cho Hội thẩm, thực hiện tốt hơn nữa chế độ, chính sách đối với Hội thẩm. Bên
cạnh việc nâng cao, chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến việc thực hiện chế độ, chính sách kinh tế
nhằm động viên, khuyến khích HTND tham gia nhiệt tình với công việc của
Tòa án. tại hầu như Hội thẩm không có bất cứ trách nhiệm nào trước pháp
luật về hoạt động xét xử ngoài hình thức bãi miễn hoặc không được đề nghị
khen thưởng
Bốn là, Quy định chế định về quản lý, đánh giá giám sát HTND: Luật
quy định “khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán”, nên chăng cũng
cần quy định trách nhiệm của Hội thẩm giống như thẩm phán khi xét xử oan
sai hoặc có tiêu cực vì hiện tại hầu như Hội thẩm không có bất cứ trách nhiệm
nào trước pháp luật về hoạt động xét xử ngoài hình thức bãi miễn hoặc không
được đề nghị khen thưởng. Do đó, cần bổ sung quy định cụ thể hơn về quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm. Ngoài ra, về đạo đức Hội thẩm thì phải được hình
thành trước khi họ là Hội thẩm. Điều đó có nghĩa là những người được xem
xét đề bổ nhiệm Hội thẩm là những cán bộ có năng lực, tận tụy với công việc
và có uy tín trước quần chúng nhân dân. Thêm vào đó, cần tăng cường giáo
9
dục tư tưởng chính trị cho Hội thẩm, biểu dương những gương Hội thẩm mẫu
mực, dũng cảm có tinh thần và trách nhiệm với nghề nghiệp. Tòa án cũng cần
ban hành quy chế đạo đức Hội thẩm để có một khung tham chiếu đối với các
hành vi ứng xử của Hội thẩm, khiến cho họ có ý thức hơn với công tác Hội
thẩm của mình
III. KẾT LUẬN
Trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, một trong những
yêu cầu trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp chính là làm cho vai trò của
toà án ngày càng độc lập hơn đối với các cơ quan quyền lực khác. Ngoài
những yêu cầu thay đổi tố tụng xét hỏi bằng tố tụng tranh tụng thì một đòi hỏi
không kém phần quan trọng đó là cũng phải nhận thức và quy định lại chế
định về hội thẩm nhân dân, nghĩa là hoàn thiện chế định này theo nghĩa đây là
một chế định tham gia của xã hội vào quá trình xét xử của tòa án. Nghĩa là
phân định rõ các giai đoạn tham gia của hội thẩm nhân dân trong quá trình xét
xử vụ án. Đồng thời, yêu cầu các thẩm phán phải tự chịu trách nhiệm cá nhân
về các phán quyết của mình. Các ý kiến của hội thẩm nhân dân thực chất là
các ý kiến xã hội và họ chỉ có quyền đưa ra ý kiến chứ không có quyền đưa ra
phán quyết và họ có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án, tránh
cơ chế quyết định tập thể và không ai phải chịu trách nhiệm về các phán quyết
hội đồng đó.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2.
Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004
được sửa đổi bổ sung theo luật số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm 2011;
3.
Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân số 33/2002/QH10 ngày 02 tháng 4 năm
2002;
4.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm
2014, có hiệu lực ngày 01/6/2015;
5.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2014;
6.
Viện Nhà nước và pháp luật, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2013;
7.
Lê Thu Hà, Một số kiến nghị về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm
nhân dân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 10 năm 2009;
8.
ThS Lê Văn Quyến, Nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân trong quá
trình xét xử, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5 năm 2012.
11
- Xem thêm -