Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hôn nh...

Tài liệu Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
72
148
128

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ ĐÔNG NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 8 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu HÀ NỘI – 2018 Lêi cam ®oan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác T¸c gi¶ luËn v¨n Nguyễn Thị Đông MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH .......................................................................................... 7 1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình .........................................................................................................................................7 1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân, gia đình ............................................................................................................. 10 1.3. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự .......... 12 1.4. Khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong TTDS qua các thời kỳ ..... 17 1.5 Pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình .................................................................................................................... 22 Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................ 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thanh Oai và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai ................................................................................................ 36 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân, gia đình huyện Thanh Oai ......... 37 2.3. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong áp dụng các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân, gia đình huyện Thanh Oai ...................................................................................................... 49 2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong TTDS cũng như trong các vụ án hôn nhân gia đình ................. 52 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 65 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, xung quanh vấn đề vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và vị trí pháp lý của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình nói riêng luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đều có quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và kiểm sát việc giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói riêng của Viện kiểm sát cũng đạt được kết quả nhất định, góp phần giải quyết các vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật; qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong tố tụng dân sự nói chung cũng như trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân gia đình nói riêng. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua hơn 60 năm. Bước sang thế kỳ thứ XXI, tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND trong đó có Kiểm sát viên trong lĩnh vực dân sự đã được tiến hành ngày càng sâu rộng. Ngày 12/3/2014, Ban chấp hành trung ương đã ban hành kết luận số 92KL/TW của Bộ chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị khoá IX và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và điều chỉnh một số nội dung về quan điểm và nhiệm vụ cải các tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị như sau: bổ sung nội dung “kiểm soát” vào 1 quan điểm 2.1 của Nghị quyết số 49-NQ/TW và viết lại “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhàn nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Về tổ chức Viện kiểm sát “ tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [9]. Như vậy, kết luận trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói riêng trong tố tụng dân sự. Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự nhưng tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 hạn chế phạm vi tham gia phiên toà của VKS đối với vụ án dân sự. So với BLTTDS 2004, sửa đổi 2011 thì BLTTDS năm 2015 quy định phạm vi VKS tham gia phiên tòa đã mở rộng hơn: Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng...; Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2015 cho thấy các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên còn có vướng mắc, bất cập; chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án còn có mặt hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. 2 Từ những lý do nêu trên, Là một cán bộ đang công tác trong ngành kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Oai), qua nghiên các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn tại địa phương, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội" để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… có liên quan đến nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên cũng như VKSND trong tố tụng dân sự như: Luận án tiến sĩ "Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", của tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học "Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010,"Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008... Có thể thấy có khá nhiều các công trình khoa học nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự mà hầu như không có công trình nào nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình hoặc có công trình, bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên 3 cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2015 đã đi vào cuộc sống nhiều quy định mới, do đó tác giả đã lựa chọn đề tài này để tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình; đánh giá tính có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. 3.2. Nhiệm vụ Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình. - Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ, đặc biệt là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành từ đó xác định những hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình trong thời gian tới, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình theo yêu cầu cải cách tư pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội; việc tổ chức thực hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề nêu trên. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, thời điểm lấy số liệu từ năm 2013 đến nay. 5. phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức hoạt động của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5 Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội nói riêng, từ đó góp phần tiếp tục đổi mới nhiệm vụ, quyền hạn và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của VKSND trong tố tụng dân sự. - Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật. - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình Chương 2: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình Hiến pháp năm 2013, BLTTDS 2015, Luật Tổ chức VKSNDTC đã khẳng định Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong VKSND, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự (trong đó có các vụ án hôn nhân và gia đình), phiên họp giải quyết việc dân sự. Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong BLTTDS, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Trong khoa học pháp lý, "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" "thẩm quyền", là các khái niệm khác nhau. Thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do pháp luật quy định [41, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền" bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn 7 quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động); trong khi đó, “nghĩa vụ” là việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không được phép thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Theo Đại Từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì "nhiệm vụ" được hiểu là "công việc phải làm, gách vác" [45, tr. 1384]; Ngoài ra theo cách giải thích của tác giả Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng năm 2006 thì "nhiệm vụ" là "công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định" [17]. Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của Kiểm sát viên là những hoạt động cụ thể của Kiểm sát viên được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong một thời gian nhất định của Kiểm sát viên. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự nói chung và trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói riêng là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTDS, Pháp lệnh Kiểm sát viên và các văn bản pháp luật khác mà Kiểm sát viên phải thực hiện bằng những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là: - Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời. - Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật. 8 - Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời. Như vậy, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình là những công việc cụ thể do pháp luật quy định đối với kiểm sát viên trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng các vụ án hôn nhân, gia đình (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng. Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép [45]. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật [41, tr. 651]. Quyền hạn thông thường sẽ gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự phải xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên hoặc do pháp luật quy định. Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng mà BLTTDS quy định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không chính xác. Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện với một chủ thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất. Pháp luật quy định nhiệm vụ của Kiểm sát viên phải thực hiện những công việc gì, đồng nghĩa là pháp luật trao cho Kiểm sát viên những quyền hạn để thực 9 hiện nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên nói chung được quy định trong Luật tổ chức VKS và Pháp lệnh Kiểm sát viên. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định cụ thể trong BLTTDS và các văn bản pháp luật tố tụng dân sự có liên quan. Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói riêng là quyền quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa giải quyết vụ án hôn nhân gia đình) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng. 1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân, gia đình Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên do pháp luật quy định, Kiểm sát viên không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Đây chính là nội dung trong nguyên tuân thủ pháp luật trong TTDS (Điều 3 BLTTDS 2015) - nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc hiến định được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp hành các quy định của Hiến pháp, của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân. Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ án hôn nhân gia đình khách quan, công bằng, đúng pháp luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên việc chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. 10 Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải quyết vụ án hôn nhân, gia đình của Tòa án nhân dân (TAND), Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa án có đúng quy định của BLTTDS hay không... Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. Là người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với vị trí pháp lý hoàn toàn khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự. Khi tham gia phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên đại diện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật tố tụng dân sự quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia tố tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là kiểm sát viên. Trong tố tụng dân sự, VKS là chủ thể đặc biệt. Khi thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại phiên tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên phải tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được thực hiện thông qua chính hoạt động của Viện trưởng VKS (trong một số vụ án, Viện trưởng VKS cũng tham gia với tư cách là Kiểm sát viên). Đứng đầu VKS là Viện 11 trưởng VKS. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Viện trưởng VKS có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự; quyết định phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát viên khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự tân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục, cũng như nội dung; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch... 1.3. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên cần dựa vào những yếu tố như: vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát; tính chất của vụ việc dân sự; việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án. 12 1.3.1. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự quy đinh về sự tham gia của Viện kiểm sát trong các vụ án dân sự tại phiên Tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Sự tham gia của Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND không thực hành quyền công tố, không khởi tố vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa TAND và VKSND. Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật,Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương 13 sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này,Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.Cụ thể, vai trò của viện kiểm sát nhân dân được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bao gồm:Việc tham gia phiên tòa, phiên họp: Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;Việc phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. (Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015). 1.3.2. Việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự ảnh hưởng đến quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên là Nhà nước, đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội do đó, trong đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị cáo. Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các đương sự. Mục đích trực tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi ích tư 14 của các đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho đương sự quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc tham gia tố tụng của Kiểm sát viên nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự. Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải quyết tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, thương lượng, trọng tài đều được khuyến khích. Trong trường hợp không thỏa mãn với những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc phiên tòa, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tranh tụng, việc thực hiện nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ nhất định. Đó là trường hợp đương sự không được thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội dung, hình thức và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các quy định pháp luật hoặc không tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó, khi xây dựng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của 15 Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự như quyền kháng nghị, kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt của đương sự. 1.3.3. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án Số lượng các vụ việc dân sự (trong đó có các vụ án hôn nhân và gia đình) mà ngành Tòa án thụ lý giải quyết ngày càng tăng (trong 3 năm 20132016, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý tăng từ 118.582 vụ việc lên 163.365 vụ việc [33]), tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân sự: Tòa án cấp phúc thẩm sửa 2.164 vụ án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới; hủy 1.424 vụ án do cấp sơ thẩm sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới [33]. Điều đó cho thấy sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do đó, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong khi đó hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao (đặc biệt là một bộ phận người dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Do đó, để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử, Kiểm sát viên cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Tòa án. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan