Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án d...

Tài liệu Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
77
155
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIỀU DIỄM NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIỀU DIỄM NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học được trình bày trong luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác Tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM .................... 8 1.1. Tổng quan về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự và vị trí, chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm ............................................................................................................. 8 1.2. Khái quát quá trình phát triển các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm .................................................................................................................... 23 1.3. Kinh nghiệm của một số nước về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan công tố/kiểm sát trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm .. 31 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM ............................................................. 37 2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .......................................................................................... 37 2.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm ........................................... 50 Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM Ở VIỆT NAM ....................................................................... 57 3.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm..................... 57 3.2. Một số kiến nghị................................................................................................. 63 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 70 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự TA : Tòa án TAND : Tòa án nhân dân VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Khoản 1 Điều 107 quy định: “Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”; Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 tại Điều 27 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 21 quy định: “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việ dân sự kịp thời, đúng pháp luật ;Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm” Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự là một trong các nhiệm vụ thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự ở cả hai cấp xét xử là sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng Tòa án ở các nước thực hiện hai cấp xét xử. Sau khi xét xử lần đầu (sơ thẩm) nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án thì đương sự có quyền kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để Tòa án có thẩm quyền xét xử lại (phúc thẩm) bản án, quyết định đó. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay và cần được thi hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án lại không đúng với bản chất của sự việc hoặc có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng… do đó cần phải có một thủ tục đặc biệt để xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để sửa chữa những phán quyết sai lầm của Tòa án nhằm bảo quyền 1 và lợi ích hợp pháp của đương sự, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Thủ tục đặc biệt đó chính là thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm (thủ tục phá án). Ở Việt Nam thực hiện chế độ hai cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, song trên thực tế việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (xét xử giám đốc thẩm) đang bị coi là cấp xét xử thứ ba. Trong những năm gần đây Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao nhận được một số lượng đơn rất lớn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong số đơn ấy có nhiều đơn đương sự đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm có căn cứ nhưng rất nhiều đơn đương sự đề nghị theo hướng “cầu may” vì vậy làm gia tăng áp lực giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm cho cả Tòa án và Viện kiểm sát. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Đặc biệt, trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm thì Viện kiểm sát tham gia ngay từ khi nhận được đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự hoặc từ khi nhận được thông báo bằng văn bản của các cá nhân, cơ quan, tổ chức phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, qua các lần ban hành, sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự có sự thay đổi nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự (Khi thì thu hẹp phạm vi của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, khi thì mở rộng sự tham gia của Viện kiểm sát vào quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Sửa đổi Bộ luật Tố tung dân sự năm 2004 có rất nhiều ý kiến về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tiếp tục được khẳng định trong BLTTDS năm 2015. Thực tiễn trong các năm qua, khi thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự thấy rằng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm còn một số hạn chế như: quyền yêu cầu của Viện kiểm sát (đặc biệt là 2 yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát thực hiện việc kháng nghị theo thẩm quyền) còn chưa được Tòa án đáp ứng, kiến nghị của Viện kiểm sát đối với Tòa án trong việc chuyển hồ sơ vụ án đã được Tòa án tiếp thu song việc thực hiện kiến nghị còn chậm, số lượng kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát so với đơn đề nghị kháng nghị của đương sự còn khiêm tốn, do đó việc nghiên cứu các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ở trình tự này là hết sức cần thiết 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm là vấn đề pháp lý tương đối hep, do đó trong khoa học luật tố tụng dân sự chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Có một số công trình nghiên cứu về Bộ Luật tố tụng dân sự ít nhiều đề cập một số khía cạnh của vấn đề này; đó là: Đề tài khoa học cấp bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), “Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm đối với các vụ án dân sự, vụ án hình sự” [31]; "Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14 và 16 năm 2008 [4]; Đề án của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014) “Vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” [33]; Đề tài khoa học cấp bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) “Viện kiểm sát nhân dân cấp cao trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân mới” [34]; Đề án của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), “Quy trình, kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới”[35]. Một số các chuyên đề nghiệp vụ như: “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm pháp tòa án nhân dân tối cao trong tố tụng dân sự”’ của Tiến sỹ Nguyễn Văn Quảng (2014)[10]; “Công tác kháng nghị giám đốc 3 thẩm trong lĩnh vực thừa kế” của Tiến sỹ Lê Thành Dương (2015) [6]. Một số các bài viết trên tạp chí Kiểm sát, Thông tin Khoa học kiểm sát, các chuyên đề bồi dưỡng chuyên sâu cho công chức ngành Kiểm sát : “Những nội dung mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” của Tiến sỹ Hoàng thị Quỳnh Chi trên Thông tin Khoa học kiểm sát số 3 và số 4 năm 2016; “Kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa án” của Tiến sỹ Lê Thành Dương (2017) [7]; “Kỹ năng thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị trong giải quyết các vụ việc dân sự” của Tiến sỹ Vũ thị Hồng Vân (2017) [23]; “Kỹ năng kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và lao động; của thạc sỹ Phương Hữu Oanh (2017) [9]... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã ít nhiều đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên vấn đề nghiên cứu đặt ra có phạm vi tương đối hẹp (chỉ ở thủ tục giám đốc thẩm) trên cơ sở kế thừa, tiếp thu chọn lọc có bổ sung để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, tác giả mong muốn Luận văn này trở thành một tài liệu tham khảo tương đối đầy đủ và toàn diện, giải quyết được triệt để và thấu đáo vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn là nhằm góp phần hoàn thiện lý luận, hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục giám đốc thẩm góp phần giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng và đúng pháp luật. Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ : Nghiên cứu những đề lý luận cơ bản nhiệm vụ vủa Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục GĐT. Nghiên cứu các quy định của một số nước như: Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc, Mỹ, Úc, Nhật Bản… về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm 4 sát/Viện công tố trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam. Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm. Đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để đánh giá một cách đầy đủ, về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Luận văn nghiên cứu các quy định của một số quốc gia về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát/Viện công tố cũng như thực tiễn áp dụng các quy định đó. Bên cạnh đó Luận văn cũng nghiên cứu, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ để khẳng định vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Theo quy định của BLTTDS năm 2015, Tòa án và Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự và các yêu cầu dân sự (vụ án dân sự và việc dân sự); đồng thời khái niệm “dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn chỉ đề cập đến việc giải quyết các vụ án dân sự quy đinh tại Điều 26 và Điều 28 BLTTDS năm 2015. Luận văn nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong thủ tục xét xử các vụ án dân sự ở giai đoạn giám đốc thẩm từ khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực thi hành từ tháng 6 năm 2015 (thành lập thêm một cấp kiểm sát mới có nhiệm vụ giám đốc thẩm) và Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016; do đó số liệu về thực tiễn 5 thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện trong thời gian từ 01/6/2015 đến 30/11/2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác- Lê nin về nhà nước và pháp luật, dựa trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế và cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phân tích, so sánh, bình luận, trao đổi, thống kê… - Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm. - Nghiên cứu pháp luật của một số nước quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố/Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục giám đốc thẩm. - Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm trong thời gian qua. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm và về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập môn Luật tố tụng dân sự, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, cơ chế xét xử vụ án dân sự và các môn học về luật tổ chức hệ thống tư pháp… tại các cơ sở đào tạo luật và cơ sở đào tạo của ngành. 6 - Luận văn là công trình nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự. - Luận văn chỉ ra được sự khác biệt trong quy định của pháp luật một số nước trên thế giới thuộc các truyền thống pháp luật lục địa và án lệ về vấn đề nghiên cứu; những yếu tố tiến bộ và phù hợp mà Việt Nam có thể tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của mình về vấn đề này. - Luận văn khảo sát, đánh giá được thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương Chương 1: Những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm. Chương 2: Thực trạng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM 1.1. Tổng quan về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự và vị trí, chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm 1.1.1. Khái quát chung về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm, bản chất của thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự *Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm Thủ tục tố tụng được hiểu là toàn bộ các trình tự, thủ tục, cách thức, thời hạn tiến hành …của một số các cơ quan để có được một phán quyết về một vấn đề tranh chấp. Tùy thuộc vào mỗi loại tranh chấp, yêu cầu của người giải quyết tranh chấp sẽ có các thủ tục tố tụng khác nhau. Nếu căn cứ vào tính chất của chủ thể ra phán quyết có thể chia thành thủ tục tố tụng Tòa án và thủ tục tố tụng tại các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các tranh chấp. Thủ tục tố tụng Tòa án được hiểu là toàn trình tự, thủ tục, quy định việc giải quyết một vụ án hình sự, dân sự hoặc hành chính. Thủ tục tố tụng này thường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính… hoặc thủ tục tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm (thủ tục sơ thẩm), thủ tục tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm (thủ tục phúc thẩm), thủ tục tố tụng tại Tòa giám đốc thẩm Một số các quốc gia khác (thường là các nước theo truyền thống thông luật lại không áp dụng chế độ hai cấp xét xử. Nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án, đương sự có quyền kháng cáo nhưng tại mỗi cấp Tòa án khác nhau, pháp luật lại quy định các căn cứ kháng cáo khác nhau. Ở các 8 quốc gia này, không có khái niệm bản án, có hiệu lực pháp luật, bản án chung thẩm vì vậy không có thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật mà các nước theo truyền thống dân sự gọi là thủ tục phá án hoặc thủ tục giám đốc thẩm. Các nước này thường quy định thủ tục tại Tòa sơ thẩm hoặc Tòa kháng cáo (Appeal Court). Tại mỗi Tòa kháng cáo cũng có những căn cứ, thủ tục khác nhau: Ví dụ Nhật Bản mặc dù không phải là quốc gia điển hình theo truyền thống thông luật song pháp luật tố tụng Tòa án của Nhật Bản có khá nhiều điểm tương đồng với pháp luật các nước này. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Quy chế số 5 ngày 17 tháng 11 năm 1996 của Tòa án tối cao Nhật Bản, chế độ xét xử được thực hiện theo ba cấp: Cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm koso, cấp phúc thẩm Jokoku, Kokoku, hoặc tái thẩm. Trong các thủ tục này, phúc thẩm Jokoku có tính chất gần giống với tính chất của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng Tòa án của Việt Nam, Liên bang Nga, Trung Quốc hoặc thủ tục phá án theo pháp luật của cộng hòa Pháp và một số nước khác trên thế giới. Sở dĩ pháp luật tố tụng ở Nhật Bản gọi thủ tục này là thủ tục phúc thẩm vì theo quan điểm lập pháp và theo pháp luật hiện hành thì không có khái niệm “bản án có hiệu lực pháp luật” (thực chất là hiệu lực thi hành) như các nước khác. Sau khi phúc thẩm Koso (có tính chất tương tự như phúc thẩm ở nước ta), nếu thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật thì đương sự có quyền kháng cáo Jokoku và bản án chưa được thi hành [32]. Ở những nước thực hiện chế độ hai cấp xét xử (thường là các nước theo truyền thống luật dân sự và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam…sau khi xét xử lần đầu (sơ thẩm) nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án, đương sự có quyền kháng cáo để Tòa án có thẩm quyền xét xử lại (phúc thẩm). Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm mà không có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của VKS trong thời hạn pháp luật quy định thì phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật và phán quyết đó phải được thi hành. Tuy nhiên trong trường hợp phán quyết của Tòa 9 án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sai lầm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự và các chủ thể khác thì pháp luật các nước đều cho phép kháng cáo để xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực đó với các tên gọi khác nhau như: thủ tục phá án, thủ tục giám đốc thẩm… để hạn chế đến mức tối đa những phá quyết sai lầm của Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà nước, các đương sự và các chủ thể khác [32]. Hệ thống xét xử của Toà án nhân dân ở nước ta gồm hai cấp: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Hệ thống xét xử hai cấp được hiểu là bản án sơ thẩm (chưa có hiệu lực pháp luật) còn có thể bị cấp phúc thẩm xét xử lại trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc xét xử hai cấp không có nghĩa là cấp sơ thẩm xét xử xong là mặc nhiên đến cấp xét xử phúc thẩm xử lại. Nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì Toà án cấp phúc thẩm phải tổ chức xét xử phúc thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm mà Toà án cấp sơ thẩm mắc phải, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, về nguyên tắc bản án, quyết định của Toà án luôn phải đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ, do đó, việc xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định không những được thực hiện trước khi chúng có hiệu lực pháp luật, mà ngay cả sau khi chúng có hiệu lực pháp luật. Như vậy, những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện thấy những vi phạm thì sẽ bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Khi đó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn: một là yêu cầu về tính bắt buộc phải thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hai là, yêu cầu về nguyên tắc pháp chế trong tố tụng dân sự đòi hỏi các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng vi phạm pháp luật phải hủy bỏ. Giải quyết không đúng mâu thuẫn này hoặc sẽ làm xáo trộn thêm các quan hệ dân sự vốn đã bị xáo trộn bởi tranh chấp, bởi vi phạm trước đó hoặc sẽ phải chấp nhận hiện tượng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự không được bảo vệ thoả đáng. Hậu quả là 10 trong cả hai trường hợp, uy tín và hiệu lực xét xử của Toà án đều bị giảm sút. Để khắc phục tình trạng này, pháp luật tố tụng dân sự nước ta đã quy định một thủ tục đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện thấy sai lầm. Đó là thủ tục giám đốc thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự được quy định khá sớm và không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với tổ chức của các cơ quan tư pháp nói chug và hệ thống Tòa án nói riêng đồng thời phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Trong nhiều năm qua các quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục giám đốc thẩm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Giám đốc thẩm” là Tòa án có thẩm quyền xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện có sai lầm trong quá trình điều tra, xét xử vụ án” Theo cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học”, “Giám đốc thẩm” là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị vì phát hiện có vi phạm trong việc xử lý vụ án” Tại Điều 325 BLTTDS năm 2015 quy định “GĐT là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị GĐ Tkhi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này” Các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm: “a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; 11 c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”. Như vậy rõ ràng, GĐT là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự trong đó Toà án cấp trên xét lại vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị do phát hiện thấy những sai lầm. GĐT là một thủ tục đặc biệt bởi lẽ đối tượng bị kháng nghị là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Xét lại là kiểm tra xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tính hợp pháp của bản án, quyết định thể hiện ở chỗ nội dung của nó phải phù hợp việc quy định của pháp luật dân sự và về hình thức phải phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Tính có căn cứ thể hiện ở chỗ, kết luận trong bản án, quyết định phải phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án. Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm với giám đốc việc xét xử. Trước đây hai khái niệm này đều được dùng với một ý nghĩa. Theo thông tư 06/TC ngày 23/7/1964 của Toà án nhân dân tối cao thì: "Trình tự giám đốc xét xử (tức trình tự giám đốc thẩm) là trình tự tố tụng áp dụng trong việc xét xử lại những vụ án đã có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm”. Hiện nay, giám đốc xét xử và giám đốc thẩm là hai khái niệm khác nhau. Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự trong đó Toà án cấp trên xét lại vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị do phát hiện thấy những sai lầm hoặc vi phạm pháp luật. Giám đốc xét xử là sự kiểm tra hoạt động xét xử của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới, thông qua đó mà đề ra các biện pháp sửa chữa, hủy bỏ những sai lầm đảm bảo cho bản án, quyết định của Toà án đã tuyên là hợp pháp và có căn cứ. Giám đốc xét xử bao gồm nhiều hoạt động như kiểm tra, 12 phát hiện thiếu sót, sai lầm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và của công dân về các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; tổng kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn Toà án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật; kháng nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, giám đốc xét xử là hoạt động quản lý về công tác xét xử của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới, không lệ thuộc vào có hay không có kháng nghị. 1.1.1.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là cá cá nhân, tổ chức tham gia vào qua hệ pháp luật tố tụng dân sự, bao gồm: Cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án, Viện kiểm sát); người tiến hành tố tụng (Chánh án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thứ ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên). Người tham gia tố tụng, bao gồm đương sự (nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong giải quyết vụ án dân sự và những người tham gia tố tụng khác (Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người đại diện của đương sự). Tuy nhiên việc xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, do đó chủ thể tham gia giải quyết vụ án ở giai đoạn này thông thường chỉ là cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; chỉ trong những trường hợp xét thấy cần thiết Tòa án mới triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác. a. Về cơ quan tiến hành tố tụng, gồm: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: Trước ngày 01/7/2016, theo quy định Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ 13 sung năm 2011, thẩm quyền giám đốc thẩm thuộc về TAND tối cao, VKSND tối cao, TAND cấp tỉnh, VKSND cấp. Theo đó TAND tối cao và VKSND tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm các các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp trừ quyết định GĐT của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; TAND cấp tỉnh và VKSND cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện (Điều 285 BLTTDS sửa đổi 2011). Việc xét xử GĐT thuộc về Tòa chuyên trách TANDTC, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hoặc Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh. Hiện nay, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án và Viện kiểm sát cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện mà thẩm quyền này được giao cho Tòa án nhân dân cấp cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao - Một cấp Tòa án và Viện kiểm sát mới được thành lập từ năm 2015, đồng thời việc giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh cũng được giao cho cấp này. Toà án nhân nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp cao và Tòa án khác khi cần thiết; trừ quyết định GĐT của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, b. Về người tiến hành tố tụng, gồm: - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao: đây là người được bầu hoặc được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, có một số nhiệm vụ quyền hạn trong quá trình xét xử giám đốc thẩm các vụ án dân sự. - Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao: đây là các chức danh tư pháp được Quốc hội hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm chuyên làm nhiệm vụ xét xử các vụ án. 14 - Thẩm tra viên: là một chức danh tư pháp mới được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thẩm tra viên thẩm tra hồ sơ vụ án dân sự, báo cáo Chánh án về kết quả thẩm tra, đề xuất phương án giải quyết đồng thời hỗ trợ Thẩm phán một số hoạt động tố tụng khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân sân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: Là người được bầu hoặc được bổ nhiệm là người lãnh đạo Viện kiểm sát; Viện trưởng có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự. - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và kiểm sát viên cao cấp: đây là các chức danh tư pháp do Chủ tịch nước hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án. - Kiểm tra viên: Giống như thẩm tra viên, kiểm tra viên là chức danh tư pháp mới được quy định từ năm 2014, có nhiệm vụ giúp Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, đề xuất phương án giải quyết vụ án, hỗ trợ Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm. 1.1.1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bản án, quyết định dân sự sơ thẩm khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại các Điều 273, Điều 280, Điều 322 BLTTDS năm 2015) thì có hiệu lực pháp luật và phải được thi hành, còn bản án quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án và cũng cần được thi hành (Điều 313 BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên trong một số trường hợp khi đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan