TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
TRẦN THỊ HÀ
NHẬT KÝ CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM
TỪ ĐIỂM NHÌN THỂ LOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
HÀ NỘI, 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
TRẦN THỊ HÀ
NHẬT KÝ CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM
TỪ ĐIỂM NHÌN THỂ LOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học
ThS. HOÀNG THỊ DUYÊN
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo – Thạc sĩ Hoàng
Thị Duyên đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lý luận văn học – Trường
Đại học Sư phạm Hà nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong 4 năm học nói
chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng song trình độ và kiến thức còn hạn chế của
người viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô và các bạn sinh viên để
bài khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Trần Thị Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập nghiên
cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo –
Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên.
Trong quá trình làm khóa luận tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự
trùng lặp với khóa luận khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Trần Thị Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÝ ............. 6
1.1. Các quan niệm về nhật ký .......................................................................... 6
1.2. Đặc trưng của thể loại nhật ký ................................................................... 7
1.2.1. Tính xác thực ............................................................................................ 7
1.2.2. Tính chất cá nhân riêng tư...................................................................... 9
1.2.3. Tính chất biên niên ................................................................................ 11
1.3. Phân loại nhật ký ...................................................................................... 13
CHƯƠNG 2: NHẬT KÍ CỦA CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM TỪ ĐIỂM
NHÌN THỂ LOẠI .......................................................................................... 14
2.1. Đặc trưng về nội dung của nhật ký các nhà văn Việt Nam...................... 14
2.1.1. Nhật kí ghi lại hiện thực đời sống của các nhà văn .............................. 14
2.1.1.1. Bức tranh về cuộc sống đời thường ................................................... 15
2.1.1.2. Những trải nghiệm thực tế nơi chiến trường ...................................... 19
2.1.1.3. Nhật ký ghi lại đời sống văn nghệ ..................................................... 24
2.1.2. Nhật ký ghi lại hiện thực tâm trạng của các nhà văn ............................ 28
2.1.2.1. Trăn trở của nhà văn về cuộc sống..................................................... 28
2.1.2.2. Hoài bão, lí tưởng sống của các nhà văn............................................ 34
2.2. Đặc trưng nghệ thuật của nhật ký các nhà văn Việt Nam........................ 39
2.2.1. Ngôn ngữ nhật ký .................................................................................. 39
2.2.1.1. Ngôn ngữ đời thường, tự nhiên .......................................................... 39
2.2.1.2. Kết hợp linh hoạt giữa tự sự và trữ tình ............................................. 41
2.2.1.3. Ngôn ngữ giàu tính nghệ thuật và tính biểu cảm. ................................ 43
2.2.2. Người trần thuật trong nhật ký .............................................................. 45
2.2.2.1. Người trần thuật ở ngôi thứ nhất ........................................................ 45
2.2.2.2. Người trần thuật là người trực tiếp nếm trải cuộc sống. .................... 46
2.2.2.3. Lập trường thái độ của người trần thuật............................................. 48
2.2.3. Giọng điệu trần thuật............................................................................. 49
2.2.3.1. Giọng điệu trữ tình, mượt mà ...............................................................49
2.2.3.2. Giong điệu suy tư, triết lý................................................................... 51
2.3. Giá trị của nhật ký các nhà văn Việt Nam ............................................... 52
2.3.1. Cuốn tư liệu về lịch sử .......................................................................... 52
2.3.2. Nhật ký mang giá trị nghệ thuật ............................................................ 54
2.3.3. Nhật ký mang giá trị giáo dục ............................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhật ký là thể loại đã không còn xa lạ với cuộc sống thường nhật nói
chung và đời sống văn học nói riêng. Những năm gần đây, khi mà ý thức cá
nhân được đề cao, con người có xu hướng ghi chép lại những gì đã nếm trải
hay những gì đã diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời, cùng với sự
bùng nổ của công nghệ thông tin ngày càng có nhiều trang mạng xã hội phục
vụ cho nhu cầu ghi chép cá nhân riêng tư và thể hiện tình cảm như facebook,
yahoo, zalo, blog... Đây cũng được coi là một dạng của nhật ký giúp lưu giữ
những tình cảm, cảm xúc khó giãi bày trực tiếp, phần lớn mọi người đều sử
dụng loại nhật ký này. Không những vậy, sau “cơn sốt” nhật ký, nhiều cuốn
nhật ký viết trong thời chiến liên tiếp được công bố và nhận được sự đón nhận
với thái độ hết sức trân trọng từ đông đảo bạn đọc. Đặc biệt, hai cuốn Nhật
ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mươi khi xuất bản đã tạo nên hiệu
ứng xã hội rộng lớn. Từ đó, có thể thấy thể loại nhật ký ngày càng gần gũi và
chiếm một vị trí quan trọng trong lòng bạn đọc.
Căn cứ vào thực tế cho thấy, nhật ký không đơn thuần chỉ là những ghi
chép cá nhân, ghi lại những suy nghĩ, tâm sự khó giãi bày với người khác. Mà
nhật ký còn được nhìn nhận như một thể loại văn học bởi nó mang những đặc
trưng của thể loại và giá trị từ các cuốn nhật ký đem lại vô cùng lớn. Với giá
trị về mặt tư liệu, sức mạnh về giáo dục và những đóng góp về mặt nghệ thuật
nhật ký đã và đang trở thành một thể loại đầy hứa hẹn, có đóng góp đáng kể
cho văn đàn Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về thể loại nhật ký có ý nghĩa lý
luận đồng thời mang tính thực tiễn sâu sắc.
Tuy nhiên, trong tiến trình văn học, nhật ký là thể loại khá thưa thớt cả
về mặt xuất bản cũng như sự nghiên cứu, tổng kết về mặt lí luận. Cho đến nay
1
chưa có công trình nào nghiên cứu về thể loại này một cách bài bản và quy
mô. Vì vậy, chọn và nghiên cứu về đề tài “Nhật ký các nhà văn Việt Nam
từ điểm nhìn thể loại” trong đó chúng tôi khảo sát 5 cuốn nhật ký: Nhật ký
Nguyễn Huy Tưởng; Nhật ký Nguyễn Ngọc Tấn; Nhật ký Vũ Tú Nam; Nhật
ký Lưu Quang Vũ; Nhật ký chiến trường của Dương Thị Xuân Quý. Chúng
tôi nghĩ đây là điều kiện để đi sâu phát hiện những đặc trưng độc đáo của thể
loại nhật ký trong những cuốn nhật ký cụ thể của các nhà văn Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhật ký là một thể loại khá đặc biệt trong nền văn học Việt Nam. So
với nhiều thể loại khác, nhật ký tuy xuất hiện muộn nhưng đã có bước phát
triển và đạt được những thành tựu riêng đáng chú ý.
Trước năm 2005, số lượng các tác phẩm nhật ký xuất hiện trong văn
học Việt Nam rất ít. Vì tác phẩm ít nên nhật ký chưa nhận được sự thu hút,
quan tâm của người đọc và các nhà nghiên cứu. Nhật ký chỉ được đề cập một
cách sơ lược, chỉ được giới hạn trong một vài mục nhỏ của các bài viết, các
công trình nghiên cứu... chưa trở thành đối tượng nghiên cứu của các công
trình nghiên cứu độc lập.
Vấn đề nghiên cứu nhật ký các nhà văn Việt Nam từ điểm nhìn thể loại
cũng chưa có công trình nào nghiên cứu. Nhưng bắt đầu từ năm 1986, đặc
biệt là từ năm 2005 với sự xuất hiện đầu tiên của cuốn Nhật ký Đặng Thùy
Trâm, một loạt các cuốn nhật ký thời chiến được xuất bản, tạo ra một cơn sốt
trong văn học thì nhật ký dần dần được quan tâm nhiều hơn của đọc giả cũng
như các nhà nghiên cứu. Nhật ký đã và đang được tìm hiểu, nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều giáo trình viết về đặc trưng của thể loại
nhật ký như giáo trình lí luận văn học phần “Tác phẩm và thể loại” do giáo sư
Trần Đình Sử chủ biên: “Nhật ký là một thể loại văn học mang tính chất riêng
tư, đời thường nhiều nhất"
[19, tr.239]. Tuy vậy, cuốn giáo trình này cũng
2
chỉ khái quát được một vài đặc điểm của thể loại nhật ký, chưa đi sâu phân
tích những đặc điểm cụ thể về đặc trưng cụ thể của thể loại này. Về cơ bản
đặc trưng chung nhất mà giáo trình đề cập đến là: ghi chép sự việc, suy nghĩ,
cảm xúc hàng ngày của chính người viết và mang tính chân thực, độ chính
xác cao. Trong “Từ điển văn học” (bộ mới), Lại Nguyên Ân cho rằng: Nhật
ký là “Loại văn ghi chép sinh hoạt thường ngày. Trong văn học, nhật ký là
hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất số ít, dưới dạng những ghi chép có đánh
số ngày tháng… bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã
nếm trải, thể nghiệm, nó ít hồi cố, được viết ra cho bản thân người ghi chứ
không tính đến việc công chúng tiếp nhận.”
Bên cạnh đó, thể loại nhật ký còn được nhắc đến trong một số bài viết
và các công trình nghiên cứu khác. Trong cuốn “Văn học Việt Nam thế kỷ
XX”, tác giả Phan Cự Đệ cũng nhắc đến nhật ký với tư cách như một tiểu loại
của loại hình ký. Trong cuốn “Từ điển văn học” của tập thể tác giả Đỗ Đức
Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá cũng nói vài nét về
đặc trưng của thể loại nhật ký “Trong văn học, nhật ký là hình thức trần thuật
ngôi thứ nhất số ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đánh số ngày
tháng…Nhật ký là thể tài độc thoại nhưng lời độc thoại của tác giả nhật ký có
thể mang tính đối thoại bên trong, do chỗ phải tính đến ý kiến của người khác
về cuộc đời và về bản thân mình” [7, tr.1257]. Trong cuốn “Từ điển văn học”
này, tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở định nghĩa về thể loại nhật ký một cách
khái quát, chưa đi sâu cụ thể. Trong bài nghiên cứu “Đặc trưng của nhật ký
văn học” của ThS. Hoàng Thị Duyên (tạp chí khoa học – số 39 (10/2015) _
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2) đã tiếp cận nhật ký từ góc nhìn thể loại,
đề cập đến những đặc trưng nổi bật của nhật ký văn học như: tính chân thực,
tính cá nhân, tính biên niên.
3
Nhìn chung qua khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi thấy các công trình, bài
viết nghiên cứu về nhật ký khá nhiều nhưng hầu hết sơ sài, chỉ đi vào một
khía cạnh. Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu, khái quát đặc trưng của
thể loại nhật ký trong những cuốn nhật ký cụ thể của các nhà văn Việt Nam.
Hiện nay, nhật ký đang là thể loại thu hút được sự quan tâm của bạn
đọc, các nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học. Cho nên việc đi sâu nghiên
cứu nhật ký các nhà văn Việt Nam từ điểm nhìn thể loại làm phong phú thêm
những đặc trưng của thể loại này là việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng tới mục đích tìm ra đặc trưng độc đáo của thể loại
trong các cuốn nhật ký của các nhà văn Việt Nam. Từ đó khẳng định giá trị
của các cuốn nhật ký và tài năng của tác giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm ra các đặc trưng của thể loại nhật ký và điểm khu biệt của các
tiểu loại của nó.
- Xét các đặc trưng của nhật ký trong các cuốn nhật ký của các nhà văn
Việt Nam: Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Lưu Quang Vũ, Nhật ký Vũ
Tú Nam, Nhật ký Nguyễn Ngọc Tấn, Nhật ký chiến trường của Dương Thị
Xuân Quý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các cuốn nhật ký của các
nhà văn Việt Nam, bao gồm:
* Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng 3 tập (của Nguyễn Huy Tưởng)
* Lưu Quang Vũ di cảo (Nhật ký, thơ) (của Lưu Quang Vũ)
* Nhật ký chiến trường (của Dương Thị Xuân Quý)
* Nhật ký Nguyễn Ngọc Tấn (của Nguyễn Ngọc Tấn)
4
* Nhật ký Vũ Tú Nam (của Vũ Tú Nam)
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu đối tượng theo quan điểm hệ thống
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp so sánh hệ thống
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn khóa luận sẽ mang đến cho bạn
đọc cái nhìn toàn diện về đặc trưng của thể loại nhật ký ở trong những cuốn
nhật ký cụ thể của các nhà văn. Đồng thời cho thấy giá trị to lớn mà nhật ký
đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 2 chương. Cụ thể là:
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÝ
Chương 2: NHẬT KÝ CỦA CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM TỪ ĐIỂM
NHÌN THỂ LOẠI
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÝ
Dưới nhiều góc độ khác nhau của đời sống xã hội và đời sống tinh thần,
văn chương bằng thế mạnh của mình đã khai thác, khám phá làm nổi bật tất
cả những âm điệu, cung bậc cảm xúc của con người trong sự đa dạng muôn
màu làm nên sự phong phú trong tâm hồn trước hiện thực đời sống xã hội.
Với các thể loại nổi bật: thơ, tiểu thuyết truyện ngắn, kịch… văn chương Việt
Nam hiện đại đã hấp dẫn bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, với những ưu thế, đặc
thù mỗi thể loại văn học lại có sức hấp dẫn riêng. Nếu như tiểu thuyết là thể
loại “tự sự dài hơi” với dung lượng lớn về nhân vật, cốt truyện, phạm vi phản
ánh thì truyện ngắn lại là những lát cắt của cuộc sống; với thơ lại nồng nàn
say đắm tâm hồn người với nhiều cung bậc cảm xúc đi kèm hình ảnh, nhạc
điệu… Đặc biệt hơn, nhật ký xuất hiện đã khẳng định vị trí trong lòng độc giả
với những hấp dẫn riêng của nó về giọng điệu tâm tình, tiếng nói bên trong,
tiếng nói của tư tưởng tình cảm, sự bộc lộ chân thành và sâu lắng nhất cảm
xúc suy nghĩ trong tâm hồn người viết.
Nằm trong loại thể ký, nhật ký mang những đặc trưng độc đáo của thể
loại đồng thời lại có nét riêng độc đáo góp phần làm nên sự phong phú của
văn chương nghệ thuật.
1.1. Các quan niệm về nhật ký
Theo Từ điển thuật ngữ văn học [7] thì nhật ký “là một thể loại thuộc
loại hình ký”, là một dạng biến thể của ký hiện đại. So với các thể loại khác
như tiểu thuyết, thơ… thì ký xuất hiện muộn hơn, tận thế kỷ XVIII khi có sự
gia tăng chú ý đến thế giới nội tâm của con người, khi xuất hiện nhu cầu tự
bộc bạch, tự quan sát thì thể loại này mới xuất hiện ở Châu Âu và phát triển
cực thịnh vào thế kỷ XIX. Cũng như ở phương Tây, thể ký ở Việt Nam cũng
6
được coi là thể loại mở đường dẫn tới sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa hiện
thực trong văn học nghệ thuật. Qua nhiều giai đoạn lịch sử, ký cũng có những
biến thể cho phù hợp với xu thế phát triển của văn học. Nhật ký chính là một
dạng biến thể của ký hiện đại bên cạnh hồi ký, tuỳ bút, tản văn, phóng sự…
Từ điển văn học (bộ mới) định nghĩa nhật ký là “loại văn ghi chép sinh
hoạt thường ngày. Trong văn học, nhật ký là hình thức trần thuật từ ngôi thứ
nhất số ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đánh số ngày tháng (…)
bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, thể
nghiệm; nó ít hồi cố; được viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính
đến việc được công chúng tiếp nhận” [7, tr 1257]. Từ điển thuật ngữ văn học
cũng coi nhật ký là “một thể loại thuộc hình ký” hay “là hình thức tự sự ở
ngôi thứ nhất được thực hiện dưới dạng những ghi chép hàng ngày theo thứ
tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả hay nhân vật chính là
người trực tiếp tham gia hay chứng kiến” [5, tr 204]. Giáo trình lý luận văn
học, tập 2: Tác phẩm và thể loại văn học do GS.Trần Đình Sử chủ biên thì
định nghĩa như sau: “Nhật ký là thể loại ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc
hàng ngày của chính người viết, là những tư liệu có giá trị về tiểu sử và thời
đại của người viết” [19, tr 261].
Các quan niệm trên của các nhà nghiên cứu có những điểm tương đồng
và khác biệt nhưng có thể thấy họ đều chú ý đến hạt nhân cốt lõi của nhật ký
là tính cá nhân riêng tư, tính biên niên của thể loại này. Từ đó có thể nói rằng,
nhật ký chính là những ghi chép của cá nhân về những sự kiện, cảm xúc, suy
nghĩ trước những sự kiện xảy ra trong ngày hay trong thời điểm gần.
1.2. Đặc trưng của thể loại nhật ký
1.2.1. Tính xác thực
Là một biến thể của ký, nhật ký mang những nét đặc điểm chung nhất
của ký, đồng thời lại có điểm riêng biệt, làm nên sức thu hút riêng của thể
7
loại. Với thể ký - thể loại được coi là “sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào
đời sống xã hội” với đặc điểm nổi bật là sự ghi chép sự việc, thì tính xác thực
của việc ghi chép được xem là đặc trưng quan trọng nhất của thể loại. Nhật ký
cũng vậy, cho dù là nhật ký văn học hay các loại nhật ký ngoài văn học thì
đều coi trọng tính chân thực, đáng tin cậy của sự kiện được ghi chép lại, vì
một cuốn nhật ký trước hết chính là sự giao lưu của người viết với chính bản
thân họ, bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải là
yếu tố quan trọng hàng đầu, ví dụ như một cuốn nhật ký công tác hay nhật ký
khoa học đòi hỏi một sự chính xác cao, hay với nhật ký riêng tư yếu tố bí mật
là yếu tố quan trọng vì đó là những lời bộc bạch tâm sự của chủ thể không
hướng tới mục đích quảng bá nên những gì viết ra luôn chân thực.
Còn với nhật ký văn học, để mang tính hiện đại cho những vấn đề có ý
nghĩa lớn thì bản thân việc ghi chép phải có sự chân thực mới thu hút được sự
quan tâm của độc giả cũng như xã hội: Ví dụ như nhật ký “Ở rừng” của Nam
Cao là những ghi chép chân thực những ngày tháng gian khổ mà đầy ý nghĩa
trong ngày đầu hoạt động cách mạng của nhà văn, đó cũng là những gian khổ,
khó khăn, thách thức các văn nghệ sĩ trong việc “nhận đường”… Tác phẩm
thành công bởi trong nó chứa đựng những cảm xúc chân thành của người viết
thể hiện tư tưởng, tình cảm và cái nhìn bao quát mọi sự vật, sự việc. Hay tập
Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được bộ mặt
tàn ác của nhà tù với những gian khổ, thiếu thốn đủ điều nhưng lại toát lên vẻ
đẹp tinh thần lạc quan yêu đời của người chiến sĩ - thi sĩ cách mạng. Tính xác
thực của nhật ký cũng có nét tương đồng với hồi ký, tuy nhiên nếu như hồi ký
có thể có yếu tố hư cấu những khi thể hiện thái độ, những sự việc mà nhân vật
trải nghiệm nhằm làm nổi bật hơn chủ đề của tác phẩm thì với nhật ký yêu
cầu về tính xác thực rất khắt khe.
8
Nói sự thật là vấn đề cốt lõi của nhật ký có nghĩa là nói đến tính chân
thực của thể loại này. Trần Đình Sử đã đánh giá: “Nhật ký là thể loại ghi chép
những sự việc, suy nghĩ cảm xúc hàng ngày của chính người viết (…) Giá trị
quan trọng nhất của nhật ký là tính chân thực do ghi chép sự việc đang diễn
ra”. Điều đó có nghĩa là người viết nhật ký luôn trung thànhvới hiện thực, ghi
lại một cách chân thực những diễn biến sự việc hàng ngày.
Sở dĩ nhật ký có tính chân thực là do nó viết không nhằm công bố rộng
rãi để thu hút sự chú ý mà chỉ là hình thức ghi lại của cá nhân đó đối với
chính những suy ngẫm, trải nghiệm và tâm sự của chính mình. Vậy nên người
viết luôn thành thực với đúng những gì đang xảy ra xung quanh cuộc sống
của bản thân. Thể hiện rõ đặc trưng này là những cuốn nhật ký của Nguyễn
Ngọc Tấn, Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Lưu Quang Vũ, Nhật ký Vũ
Tú Nam, Nhật ký chiến trường của Dương Thị Xuân Quý… Các tác phẩm
nhật ký bao giờ cũng hấp dẫn vì đó là câu chuyện của người trong cuộc. Nhờ
vị trí là người trực tiếp tham gia trải nghiệm mà những ngóc ngách bí mật bị
che giấu, khuất lấp được phơi ra ánh sáng. Người kể chuyện không chỉ miêu
tả, kể chuyện mà luôn luôn bày tỏ thái độ, cảm xúc đánh giá của mình trước
câu chuyện mình kể khiến cho diễn ngôn về sự thực trong nhật ký bao giờ
cũng có một giọng điệu, sắc thái nào đó. Trong các tác phẩm nhật ký, tính
chất thời sự và tính cụ thể của các nhân vật, sự kiện, không gian và thời gian
đã đem lại cho người đọc niềm tin về sự chân thực của câu chuyện.
1.2.2. Tính chất cá nhân riêng tư
Trong nhật ký, ta dễ dàng nhìn ra cái “Tôi”. Sức hút của nhật ký phụ
thuộc vào cảm xúc của cái “Tôi” trước hiện thực đời sống đang xảy ra, phụ
thuộc vào khuynh hướng thẩm mĩ cũng như đạo đức của người viết nhật ký.
Cái tôi trong nhật ký giống cái tôi trong văn học ở chỗ chúng đều phải sáng
tạo nghệ thuật, vừa đảm bảo tính xác thực của đối tượng miêu tả vừa đảm bảo
9
giá trị thẩm mĩ góp phần bồi đắp hình tượng thêm phong phú, đa diện. Mục
đích của nhật ký là giao lưu với chính mình, là tiếng nói phân thân của người
viết bởi vậy tính riêng tư là yếu tố khiến nhật ký thu hút bạn đọc.
Nhật ký chính là lời tâm sự, bộc bạch của tác giả hay nhân vật những
lúc cô đơn muốn tự chiêm nghiệm lại những gì đã xảy ra. Vì thế, có thể nói
nhật ký chính là thể loại mang tính chất riêng tư, tính chân thật và rất đời
thường. Với tư cách là những ghi chép cá nhân, trong nhật ký người viết có
thể tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm, tình cảm và thái độ trước một sự thật.
Riêng tư chính là lý do tồn tại của nhật ký, là yếu tố hấp dẫn của thể loại văn
học đặc biệt này, vì nó liên quan đến những tâm tư, tình cảm, bí mật của cá
nhân, đặc biêt là những nhân vật được xã hội quan tâm. Trong “Mãi mãi tuổi
hai mươi”, Nguyễn Văn Thạc đã quan niệm về việc ghi nhật ký : “Nếu như
người viết nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình thì đọc cuốn nhật ký đó sẽ
chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào
đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà thực sự họ có. Nhưng nếu nhật ký mà có
thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều - Họ không dám nói thật,
nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết, nói đúng
những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều
tối kị khi viết nhật ký. Nó sẽ dạy cho người viết tự lừa dối ngòi bút của mình,
tự lừa dối lương tâm của mình” [Tr.225].
Nhật ký là thể loại độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế ta luôn thấy
tác giả hay nhân vật của cuốn nhật ký ở ngôi thứ nhất. Nếu trong các thể loại
như phóng sự, tùy bút, bút ký… trung tâm thông tin không phải là tác giả mà
là các vấn đề xã hội thì ở nhật ký, người viết luôn là trung tâm. So với các thể
loại khác vai trò của cái tôi trần thuật trong nhật ký bao quát, xuyên suốt toàn
bộ tác phẩm. Tác giả không ngần ngại xuất hiện trong từng chi tiết nhỏ nhất
và chính sự góp mặt của cái tôi ấy đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra
10
niềm tin của công chúng vì họ tin rằng đang được nghe những sự thật mà tác
giả là người đã trực tiếp chứng kiến. Tuy nhiên, có những khi lời độc thoại
của tác giả hay nhân vật chính là lời đối thoại ngầm với người khác về con
người và cuộc đời nói chung, về bản thân mình nói riêng. Cũng bởi tính cá
nhân mà trong thể loại nhật ký từ cách xưng hô, cách viết tắt đều được quy
ước ngầm mà bản thân người viết là người hiểu rõ nhất.
Chính vì viết cho mình nên trong nhật ký người viết có thể thoải mái
công nhiên bày tỏ những suy nghĩ cá nhân của mình. Ta có thể bắt gặp những
trăn trở về chính sách, những băn khoăn về xã hội, thậm chí cả những bí mật
chính trị… trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng. Những trang nhật ký của ông
trải dài bộc lộ những tâm tư cảm xúc đối với thực trạng xã hội lúc bấy giờ.
Hay ta cũng có thể bắt gặp những cảm xúc rất thực, tình yêu cháy bỏng mà
Nguyễn Ngọc Tấn dành cho bà Bình Trang. Tình yêu ấy được nhà văn ghi lại
bằng cả trái tim mình qua những trang nhật ký. Tất cả những suy nghĩ về xã
hội, thậm chí những vấn đề nóng, nhạy cảm của văn hóa văn nghệ, những tình
cảm, cảm xúc của chính mình đều được các nhà văn ghi lại một cách chân
thực nhất.
Tính chất cá nhân riêng tư được xem là đặc điểm quan trọng giúp ta
phân biệt nhật ký với các thể loại văn học khác. Bởi nhật ký là thể loại mang
tính cá nhân riêng tư nhiều nhất. Riêng tư là hình thức tồn tại của nhật ký.
Tính riêng tư cũng là điều hấp dẫn của nhật ký bởi tính chất cá nhân và cả
những bí mật ít được tiết lộ luôn là tâm điểm thu hút sự tò mò của độc giả.
1.2.3. Tính chất biên niên
Hình thức kết cấu của nhật ký là theo thời gian tuyến tính, theo trình tự
về ngày, tháng, năm và bao giờ khoảng thời gian ghi chép giữa các ngày
tháng cũng được ghi rất rõ: Ngày...tháng...năm bằng số. Người viết nhật ký
bao giờ cũng tôn trọng trật tự biên niên của sự việc ghi chép nhật ký. Sự việc
11
hay hiện tượng được ghi lại trong nhật ký được sắp xếp theo đúng trình tự về
thời gian mà người viết lần lượt được chứng kiến hay tham gia. Theo Trần
Đình Sử: “Nhật ký ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng có thể
liên tục nhưng có thể ngắt quãng”. Điều đó có nghĩa là thứ tự ngày tháng có
thể đúng thứ tự liên tục nhưng cũng có thể ngắt quãng nhưng vẫn theo trình tự
trước sau.
Khi tiếp nhận một tác phẩm nhật ký, bao giờ ta cũng thấy nổi lên trên
bề mặt của nó là một lớp thông tin, sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian cụ
thể, đơn nhất, có thể coi là lớp từ vựng của sự thực. Lớp thông tin sự kiện này
được mã hóa thành những danh từ riêng, những con số, ngày tháng… xuất
hiên với mức độ dày đặc trong nhật ký. Bên dưới lớp thông tin sự kiện này, ta
có thể dễ dàng nhận thấy một nguyên tắc tổ chức tất cả các yếu tố trên theo
logic của cái thực, có thể coi là lớp ngữ pháp của sự thực. trong tác phẩm nhật
ký, bao giờ cũng có sự xuất hiện của một người trần thuật xưng “tôi” với tư
cách là người chứng kiến, ghi chép, luận bàn hay có thể nói, là một chủ thể
nói sự thực. Những yếu tố này khiến cho trong nhật ký bao giờ cũng có một
lớp nghĩa chỉ vật, một bức thông điệp về cái có thật.
Có thể nói, kết cấu của sự kiện trong các tác phẩm nhất ký thường tuân
thủ trật tự tuyến tính của thời gian, làm nổi bật logic của cái thực, và vì thế tạo
nên độ tin cậy cho câu chuyện được kể. Các sự kiện trong nhật ký thường
được cụ thể hóa bằng những địa danh, ngày tháng, số liệu cụ thể. Bởi nhật ký
là một thể loại ghi chép sự thực, cho nên, những thông tin về sự kiện là một
phần không thể thiếu.
Cũng chính nhờ tính chất biên niên mà nhật ký được coi là một trong
những thể loại văn học bám sát hiện thực đời sống một cách nhanh nhạy, kịp
thời và chính xác nhất. Nó ghi lại những gì nóng hổi xảy ra trong ngày nên
giá trị sự thật đáng tin cậy hơn hẳn lối ghi chép hồi cố về kí ức trong hồi ký.
12
1.3. Phân loại nhật ký
Về phân loại, tuỳ vào tính chất, mục đích mà người ta phân loại theo
những thể khác nhau của nhật ký. Rõ ràng nhất là sự phân chia nhật ký văn
học và nhật ký ngoài văn học. Các loại nhật ký ngoài văn học như: nhật ký
riêng tư, nhật ký khoa học, nhật ký công tác… không nhằm công bố rộng rãi,
chỉ viết dành cho mục đích cá nhân; đơn thuần chỉ ghi chép lại những sự việc
xảy ra với cá nhân chứ không quan tâm đến những vấn đề; những sự kiện xảy
ra với ý nghĩa xã hội rộng lớn, ý nghĩa nhân bản… Vì thế, nhật ký ngoài văn
học thường không thu hút được sự quan tâm của đông đảo người tiếp nhận
cũng như giới nghiên cứu văn học, không có tầm ảnh hưởng lớn. Còn nhật ký
văn học thường hướng tới các chủ đề nhất định và có sự ưu tiên chú ý đến thế
giới nội tâm của tác giả hoặc của các nhân vật trước những sự kiện lớn có ý
nghĩa không chỉ với cá nhân mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội; nhật ký
văn học thường được viết ra nhằm hướng tới sự đông đảo công chúng và
không chủ định xây dựng hình tượng văn học, song một khi nó “thể hiện được
một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình của cá nhân, tác giả
giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại” thì nó đã mang trong
mình phẩm chất văn học.
13
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG CỦA NHẬT KÝ CÁC NHÀ VĂN
VIỆT NAM
2.1. Đặc trưng về nội dung của nhật ký các nhà văn Việt Nam
2.1.1. Nhật ký ghi lại hiện thực đời sống của các nhà văn
Nhật ký là một thể loại đặc biệt, nó có những nét khu biệt riêng. Ngay
từ khi xuất hiện, nhật ký đã phát huy được ưu thế cuả mình. Nhật ký ghi lại
một cách rất chân thực hiện thực cuộc sống của chính tác giả viết nó. Các nhà
văn Việt Nam không chỉ tài năng trong việc sáng tác ra những tác phẩm để
đời, rất nhiều nhà văn luôn giữ thói quen viết nhật ký. Những cuốn nhật ký ấy
đã ghi chép lại một phần trong cuộc đời của các nhà văn, ghi lại những điều
chân thực giản dị diễn ra xung quanh cuộc sống hàng ngày mà họ đã trải qua.
Nhiều nhà văn đã xung phong trở thành chiến sĩ tham gia vào cuộc
chiến tranh khốc liệt của dân tộc. Tại nơi chiến trường cam go khốc liệt ấy họ
viết báo, sáng tác để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho các chiến sĩ. Và không ít
những sáng tác ra đời trở thành kiệt tác văn chương: Tây tiến (Quang Dũng),
Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang
Sáng)... Không chỉ sáng tác mà rất nhiều nhà văn đã ghi lại tất cả bức tranh
nơi chiến trường qua những trang nhật ký. Bằng việc viết nhật ký các nhà văn
đã ghi lại một cách chân thực cuộc sống nơi chiến trường mà chính họ là
những người trực tiếp chiến đấu. Đó là những khó khăn, thiếu thốn đủ đường,
những cơn đói, cơn rét… cuộc sống của họ luôn trong ranh giới giữa sự sống
và cái chết. Ở nơi chiến trường cam go khốc liệt ấy không chỉ có những đau
thương mất mát mà còn là những kỉ niệm vui buồn bên bạn bè đồng chí, sự
đùm bọc của đồng bào... Và còn là nỗi nhớ nhà, nhớ người thân... Những
cuốn nhật kí được viết không nhằm để công bố nên độ chân thực và tính chính
xác cao. Vì vậy có thể ví các cuốn nhật ký viết về chiến tranh như những
thước phim quay chậm về chiến trường. Nó trở thành nguồn tư liệu vô cùng
14
- Xem thêm -