ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
----o0o----
HOÀNG THU HẰNG
NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ TỆ NẠN MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
QUỐC DÂN VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI)
Chuyên ngành: XÃ HỘI HỌC
Mã số : 60 31 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRỊNH VĂN TÙNG
HÀ NỘI -2009
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, tệ nạn ma tuý đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu, là mối đe doạ
đến hoà bình và trật tự của loài người. Do vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đương
đầu với vấn đề này. Tệ nạn hút ma tuý đang ngày càng lan rộng. Sản xuất ma tuý khá phổ biến
khắp nơi trên thế giới. Hoạt động buôn lậu ma tuý đang hoành hành trên khắp mọi nơi. Các
nhóm tội phạm ma tuý đã mang tính chất xuyên quốc gia và liên quốc gia. Ba Công ước quốc tế
về kiểm soát ma tuý của Liên hiệp quốc (Công ước thống nhất về các chất gây nghiện năm
1961, Công ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước về chống buôn bán bất hợp
pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988) thể hiện sự đồng tâm nhất trí của
cộng đồng quốc tế trong việc phòng, chống lại hiểm hoạ ma tuý. Tháng 4 năm 2000, lần đầu
tiên vấn đề ma tuý được đưa vào trong chương trình nghị sự của Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc. Điều đó cho thấy rằng, thế giới ngày nay coi tệ nạn ma tuý là một trong những mối đe
doạ lớn đối với an ninh nhân loại.
Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực. Sự tăng trưởng kinh tế
hội nhập với thế giới, tiếp cận nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi toàn bộ đời sống của nhân
dân. Bên cạnh những thành tựu mà nền kinh tế thị trường đem lại, là hàng loạt những vấn đề xã
hội nảy sinh. Một trong những vấn đề xã hội nảy sinh mà chúng ta cần quan tâm đó là tệ nạn ma
tuý. Đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý những năm qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
chỉ đạo thực hiện. Từ năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 06/CP về tăng cường công
tác phòng chống và kiểm soát ma tuý. Ngày 01/09/1997, Chủ tịch nước ra quyết định về việc
Việt Nam tham gia ba Công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý của Liên hiệp quốc. Các chương
trình hành động phòng chống ma tuý giai đoạn 1998 - 2000 và giai đoạn 2001 - 2005 liên tục
được xây dựng và triển khai thực hiện. Luật phòng chống ma tuý được Quốc hội khoá X thông
qua và có hiệu lực từ ngày 01/06/2001 đã tạo cơ sở pháp lý để hoạt động phòng ngừa, ngăn
chặn và đấu tranh với ma tuý đạt được hiệu quả cao hơn. Trong luật phòng chống ma tuý đã chỉ
rõ: "Tệ nạn ma tuý là hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi
giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật
tự, an toàn xã hội và an ninh Quốc gia” [16,tr.7]. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố
gắng về mặt lập pháp và hành pháp, tổ chức lực lượng đấu tranh phòng chống các tệ nạn nói
chung và tệ nạn ma tuý nói riêng với những kết quả đáng khích lệ, nhưng tệ nạn ma tuý vẫn
chưa có xu hướng giảm mà lại gia tăng. Cùng với sự gia tăng của tội phạm về ma tuý, tình hình
nghiện hút ma tuý trong xã hội, đặc biệt là ở độ tuổi thanh thiếu niên có xu hướng tăng mạnh
(có khoảng 70% số người nghiện ma tuý mới ở độ tuổi thanh thiếu niên) [39] . Vì thế, đấu tranh
ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn ma tuý là một nội dung quan trọng, là một trong những mục tiêu
của Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
Để ngăn chặn hiểm hoạ ma tuý, cần phải có các giải pháp đồng bộ, huy động sức mạnh
của toàn dân. Một trong những vấn đề cốt lõi trong đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý không
chỉ dừng lại ở việc bắt và xử lý thật nhiều các đối tượng vi phạm, mà phải tích cực phòng ngừa
không để tệ nạn ma tuý xảy ra, xoá bỏ những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh tệ nạn về
ma tuý. Hay nói cách khác, dấu nhấn của công tác này cần được đặt ở khía cạnh “phòng ngừa”.
Để công tác “phòng ngừa” đạt hiệu quả cao, thì việc nắm bắt nhận thức của các tầng lớp trong
xã hội, đặc biệt là của sinh viên, để thông qua đó có những biện pháp đúng đắn hơn, thiết thực
hơn nhằm giáo dục, rèn luyện, nhận thức của họ để họ trở thành lực lượng nòng cốt, tích cực
tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống ma tuý là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Nhằm tìm hiểu thực trạng và mức độ nhận thức của sinh viên về tệ nạn ma tuý trên địa bàn
thành phố Hà nội, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài "Nhận thức của sinh viên về tệ nạn
ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay" (Nghiên cứu trường hợp trường Đại học Kinh
Tế Quốc Dân và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
2
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu nhằm vận dụng những phạm trù, khái niệm, phương pháp nghiên
cứu và các lý thuyết Xã hội học vào việc mô tả, giải thích về thực trạng nhận biết, kiến thức,
hiểu biết và tâm thế hành vi đối với ma tuý của sinh viên hiện nay.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu “Nhận thức của sinh viên về tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội
hiện nay” còn có một ý nghĩa thực tiễn hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích một cách nhìn
khoa học, chúng tôi mong muốn nắm bắt kịp thời những nhận biết, kiến thức, hiểu biết và tâm
thế hành vi đúng đắn/sai lệch về ma tuý của sinh viên và những nhu cầu của họ trong việc nâng
cao nhận thức về ma tuý. Qua đó, nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị, giải pháp thiết thực
cho việc nâng cao hiểu biết của sinh viên các trường Đại học về ma tuý
3
Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng nhận thức (nhận biết, kiến thức, hiểu biết và tâm thế hành vi) của sinh
viên về ma túy
- Đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm giúp sinh viên có những nhận thức đầy đủ và
đúng đắn hơn đối với tệ nạn ma tuý cũng như đối với cuộc đấu tranh phòng chống ma tuý
4
Đối tƣợng nghiên cứu
Nhận thức của sinh viên về tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
5
Khách thể nghiên cứu
Sinh viên hệ chính quy của các trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
6
Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Tháng 10 năm 2007 đến tháng 10 năm 2009
Địa bàn nghiên cứu:
Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm vi đối tượng: Nghiên cứu này giới hạn ở việc đo lường, đánh giá mức độ nhận thức của
sinh viên trên địa bàn Hà Nội trên cơ sở nghiên cứu hai trường Đại học đại diện. Trên cơ sở
đó, chúng tôi cố gắng tìm ra một vài nguyên nhân cốt lõi để giải thích mức độ nhận thức của
nhóm tác nhân này đứng trước một tệ nạn nghiêm trọng của Việt Nam ngày nay.
7
Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin
7.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong giai đoạn đầu của nghiên cứu trong việc
phát hiện vấn đề, lựa chọn vấn đề nghiên cứu và hình thành giả thuyết nghiên cứu, đồng thời
được sử dụng trong quá trình đọc và phân tích tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu này đã phân tích nhiều tài liệu thu thập được trong nước và ngoài nước có liên quan
đến vấn đề ma tuý nhằm so sánh đối chiếu và thu thập thêm thông tin.
7.2 Phương pháp quan sát
Quan sát thái độ của người được phỏng vấn để biết được độ tin cậy của thông tin.
Quan sát lối sống, hoạt động học tập, vui chơi giải trí của sinh viên, đặc biệt quan sát thực tế
thái độ, hành vi của sinh viên đối với những vấn đề có liên quan đến ma tuý.
7.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Trên cơ sở đề tài nghiên cứu, chúng tôi tiến hành xây dựng một khung hướng dẫn phỏng
vấn sâu để thăm dò xu hướng trả lời của các tác nhân trong nghiên cứu này. Để đảm bảo các
nhóm tác nhân đều thể hiện được biểu tượng hay hình ảnh của nhóm mình về nhận thức của
sinh viên về tệ nạn ma tuý, chúng tôi tiến hành 16 phỏng vấn sâu với cơ cấu như sau: 10 sinh
viên (05 sinh viên/trường, 02 nhà quản lí cấp trường (01 nhà quản lí/trường) và 04 đại diện tổ
chức đoàn thể xã hội gần gũi với sinh viên và gia đình).
7.4. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Kết hợp với việc đọc tài liệu ban đầu cũng như các kết quả phỏng vấn, chúng tôi xây dựng bảng
hỏi bán cấu trúc nhằm thu thập thông tin trên diện rộng về nhận thức của sinh viên đối với ma
tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt, những kết quả nghiên cứu định lượng sẽ được xử lí
trên phần mềm SPSS 15.0 để khẳng định hay bác bỏ các giả thuyết được đưa ra sau khi phỏng
vấn.
Giới thiệu mẫu nghiên cứu
- Phương pháp chọn mẫu
Mẫu được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống vì khi đo nhận thức của một lượng
khách thể lớn, chúng tôi tin rằng, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống không loại trừ cơ
hội của bất kì chủ thể nào trong nhóm lớn. Hay nói cách khác, phương pháp này đảm bảo rằng,
không sinh viên nào bị mất cơ hội có thể được lựa chọn vào mẫu.
- Kết quả chọn mẫu và cơ cấu mẫu
Cuộc khảo sát xã hội học được tiến hành chọn mẫu trên cơ sở danh sách sinh viên của hai
trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 201 sinh viên được chọn ngẫu nhiên ngẫu nhiên hệ thống bao gồm 95 nam
sinh viên và 106 nữ sinh viên, đảm bảo điều kiện các sinh viên này là sinh viên học hệ chính
quy để phỏng vấn. Vì thế 201 sinh viên này có tính chất đại diện cao cho sinh viên của hai đơn
vị đào tạo trên và thông tin thu được có tính chất khách quan.
Cơ cấu mẫu:
Tiêu chí
Tần xuất Tỷ lệ
Biểu đồ
(%)
Nam
95
47
Nữ
Biểu 1: Cơ cấu theo giới tính
106
53
Giới tính
47
53
Nam
Nữ
Nội trú
80
40
Biểu 2: Cơ cấu theo nơi ở hiện tại
Nơi ở
hiện tại
Nội trú
40%
Ngoại trú
Trường
Đại học
Khoa học Xã
hội và Nhân
văn
121
60
Ngoại
trú
60%
Biểu 3: Cơ cấu theo trƣờng
101
50
50
50
Kinh tế Quốc
dân
100
50
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Kinh tế Quốc dân
8
Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên hiện nay nói chung có nhiều thông tin về ma tuý, nhưng nhận thức của họ phần lớn
dừng lại ở mức độ cảm tính.
Nhận thức lý tính của một số sinh viên (những hiểu biết để chuẩn bị hành động) về vấn đề ma
túy còn thấp.
Môi trường thông tin về ma tuý để nâng cao nhận thức cho đối tượng sinh viên là phong phú,
nhưng vẫn chưa có một cơ chế thông tin phù hợp cho đối tượng đặc thù này.
Đặc điểm cá nhân (Giới tính) có ảnh hưởng đến nhân thức của sinh viên về ma tuý.
9
Khung lý thuyết
Điều kiện kinh tế xã
hội
Đặc điểm cá nhân
Nhận thức
Thực trạng về
của sinh viên
tệ nạn ma tuý
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1
Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1 Lý thuyết xã hội hoá
Khái niệm xã hội hoá hiện nay thường được dùng với hai nội dung: ở nội dung thứ nhất,
khái niệm này chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm của xã hội về vật chất và tinh thần đến những
vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội có trách
nhiệm quan tâm. Đó là quá trình xã hội hoá các vấn đề, sự kiện xã hội, như xã hội hoá giáo dục,
xã hội hoá y tế… Ở khái niệm này, xã hội hoá đồng nghĩa với sự tham gia ngày càng tăng của
người dân vào một sự kiện xã hội để cùng Nhà nước giải quyết một số khó khăn.
Trong nội dung thứ hai, thuật ngữ xã hội hoá được sử dụng trong xã hội học là quá trình
tương tác giữa các cá nhân và xã hội qua đó mà các cá nhân học hỏi và thực hành những tri
thức, những kỹ năng và những phương pháp cần thiết để hoà nhập với xã hội.
Hiện nay, trong khoa học xã hội có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội hoá. Dựa
vào tính chủ động của các nhân trong quá trình xã hội hoá, chúng ta có thể tạm chia thành hai
loại định nghĩa:
Loại thứ nhất, ít đề cập đến tính chủ động của cá nhân trong quá trình thu nhận kinh nghiệm xã
hội. Các cá nhân dường như bị khép vào các chuẩn mực khuôn mẫu mà không cưỡng lại được.
Loại thứ hai, khẳng định tính tích cực sáng tạo của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. Cá nhân
không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn tham gia vào quá trình tái tạo ra các kinh
nghiệm xã hội.
Dù có những quan điểm khác nhau nhưng các nhà khoa học đều thống nhất tại một điểm: xã hội
hoá là một quá trình: có khởi đầu, diễn biến và có kết thúc.
Neil Smelser, nhà xã hội học Mỹ đã viết: “Xã hội hoá là quá trình mà trong đó cá nhân học cách
thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các mô
hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình”. Theo
nghĩa này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hoá chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các
kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực. Định nghĩa này chưa đề cập tới khả năng cá nhân có thể tạo ra
những giá trị, kinh nghiệm, chuẩn mực để xã hội theo đuổi. Như vậy, theo định nghĩa này thì
dường như cá tính của con người bị tan biến vào những đặc điểm xã hội mà cá nhân tiếp thu
được.
Một nhà xã hội học khác của Mỹ có tên: Fichter đã xem xét: “xã hội hoá là một quá trình tương
tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động,
và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”. Như vậy, Fichter đã chú ý hơn tới tính tích
cực của cá nhân trong quá trình xã hội hoá đó là cá nhân không chỉ chấp nhận mà họ còn có thể
thích nghi được với những giá trị, kinh nghiệm mà anh ta tiếp thu được trong quá trình tương
tác với người khác.
Định nghĩa về xã hội hoá của của nhà khoa học người Nga G.Andreeva đã nêu được cả hai mặt
của quá trình xã hội hoá. Mặt thứ nhất của quá trình là cá nhân nội hoá các hệ giá trị của xã hội.
Đó là quá trình mà cá nhân thực hiện tương tác với xã hội nhằm thu nhận những tri thức, những
kỹ năng cho bản thân mình. Mặt thứ hai của quá trình xã hội hoá là quá trình cá nhân ngoại hoá
hệ giá trị của xã hội thông qua hành vi được xã hội chấp nhận. Mặt thứ nhất của quá trình xã
hội hoá là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội thể hiện sự tác động của môi trường tới con người.
Mặt thứ hai của quá trình này thể hiện sự tác động của con người trở lại môi trường thông qua
hoạt động của mình. Và câu hỏi mà Andreeva đặt ra đó là cá nhân bước vào xã hội để trưởng
thành thông qua các cơ chế nào? Hay đúng hơn là môi trường xã hội hoá của cá nhân sẽ được
diễn ra như thế nào?
Lý thuyết xã hội hoá cũng đề cập đến môi trường xã hội hoá, đó là nơi cá nhân có thể thực hiện
thuận lợi các tương tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội.
Dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên phù hợp, con người có thể không trở thành một nhân
cách hoàn thiện nếu không được đặt trong môi trường thích hợp.
Có nhiều cách nhìn nhận hay phân tích về các môi trường xã hội hoá cá nhân theo các nhóm xã
hội - nơi các cá nhân thực hiện hoạt động sống của mình. Các môi trường xã hội hoá chủ yếu
thường được kể đến là gia đình, trường học và các tổ chức xã hội và truyền thông đại chúng.
Gia đình, là môi trường xã hội hoá rất quan trọng của cá nhân bởi hầu hết các cá nhân
đều sinh ra và lớn lên trong gia đình. Mỗi gia đình là một tiểu văn hoá, tiểu văn hoá này được
xây dựng trên nền tảng của văn hoá chung nhưng với những đặc thù riêng của từng gia đình.
Tiểu văn hoá gia đình được tạo thành bởi nền giáo dục truyền thống gia đình, lối sống gia đình,
thói quen gia đình hay “tâm thế gia đình” (habitus) theo nghĩa của Pierre Bourdieu…Cá nhân
tiếp nhận các đặc điểm của tiểu văn hoá này. Những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử, các
giá trị…đầu tiên cá nhân nhận được từ chính các thành viên trong gia đình, từ cha mẹ, ông bà,
anh chị....
Quá trình xã hội hoá không chỉ diễn ra trong các gia đình cùng chung sống với cha mẹ,
tức là nơi họ được sinh ra và lớn lên, mà còn trong cuộc sống gia đình vợ chồng. Để có cuộc
sống hạnh phúc, các cặp vợ chồng cần thích ứng các giá trị của họ với nhau. Tức là phải có sự
tiếp nhận, học hỏi các giá trị mới hay các khuôn mẫu hành động mới. Nói cách khác, phải tiếp
tục quá trình xã hội hoá của cả hai vợ chồng.
Nhà trường nói chung, nhà trẻ, trường mầm non nói riêng là những nơi trẻ em thực hiện
hoạt động vui chơi và học tập bước đầu của mình. Thông qua hoạt động này, trẻ em chủ yếu
nhận những kiến thức ban đầu về tự nhiên và xã hội. Những trò chơi, những mối quan hệ được
hình thành tại đây giúp trẻ em hoà nhập dần vào đời sống xã hội. Các cô giáo, thầy giáo hay bảo
mẫu là những người hướng dẫn, khuyến khích những hành vi đúng hoặc điều chỉnh những hành
vi sai lệch.
Trong các trường học, hoạt động chủ đạo của cá nhân là học tập. Đây là nơi cá nhân bắt
đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã hội. Ở trường, cá nhân được tương tác với những thành
viên không phải trong gia đình mình, được dạy dỗ những điều khác với gia đình theo từng cấp
độ khác nhau. Cá nhân thu nhận kiến thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội, các kiến thức
văn hoá chủ yếu làm nền tảng cho cuộc sống sau này. Những kiến thức đó sẽ phục vụ đắc lực
cho việc thực hiện những vai trò mà cá nhân cần phải đóng trong tương lai.
Về truyền thông đại chúng, trong vài thập niên gần đây, chúng ta đã chứng kiến những
bước tiến mạnh mẽ chưa từng thấy của các phương tiện này. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong các lĩnh vực in ấn, xuất bản, truyền hình, internet… giúp cho truyền thông đại chúng xâm
nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền thông ngày nay đã vượt ra khỏi khuôn
khổ là một kênh cung cấp thông tin và kiến thức cho các cá nhân trong xã hội một cách hữu
hiệu mà còn là kênh giải trí, kênh tương tác góp phần xây dựng các khuôn mẫu và nhân cách…
Truyền thông đại chúng làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, từ cách thức tư duy, tập
quán sinh hoạt đến điều chỉnh hành vi, điều chỉnh các mối quan hệ của cá nhân trong xã hội.
Chính truyền thông đại chúng cung cấp cho cá nhân những định hướng và các quan điểm đối
với các sự kiện và những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Truyền thông là một môi
trường quan trọng không thể thiếu trong quá trình xã hội hoá của các cá nhân.
Tổ chức xã hội là các nhóm thành viên thường được hình thành theo hình thức tự nguyện gắn
với việc chia sẻ một dạng quyền lợi nào đó. Việc hình thành nên các tổ chức xã hội phải nằm
trong khuôn khổ pháp luật. Chẳng hạn, ở môi trường đại học, chúng ta có thể kể đến Đoàn, Hội
sinh viên... Các nhóm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp đỡ cá nhân thu nhận các
kinh nghiệm xã hội theo cả con đường chính thức và không chính thức. Hay nói cách khác, cá
nhân (sinh viên trong trường hợp này) không chỉ nhờ các bài giảng mà lớn lên, mà thông qua
các kênh tương từ hoạt động tập thể.
Đây là môi trường quan trọng thứ hai sau gia đình bởi vì khái niệm nhóm thành viên có nội
dung rất rộng. Mặt khác, trong xã hội, chúng ta luôn phải đóng những vai trò khác nhau ở
những thời gian và địa điểm khác nhau với những con người khác nhau. Mỗi khi chúng ta thực
hiện hành vi thuộc một vai trò nào đó tức là chúng ta đã trở thành thành viên của một nhóm
nhất định (đó có thể là nhóm thực hay nhóm quy ước).
Môi trường xã hội hoá có thể chia thành hai loại: môi trường chính thức và môi trường
không chính thức. Nếu như, trong môi trường chính thức, cá nhân thực hiện việc thu nhận và tái
tạo kinh nghiệm xã hội, học hỏi nhằm thực hiện tốt vai trò của mình theo con đường giáo dục
chính thống như bài giảng trên lớp của các thầy giáo, cô giáo, sách báo, thì môi trường xã hội
phi chính thức bao gồm toàn bộ sự dạy dỗ của xã hội đến cá nhân thông qua mọi loại tương tác
xã hội. Cá nhân thu nhận những kinh nghiệm xã hội, các giá trị chuẩn mực của các tiểu văn hoá
trong các tương tác phi chính thức.
Theo lý thuyết về xã hội hoá của nhà xã hội học và tâm lý học xã hội người Nga – G. Andreeva,
thanh niên – sinh viên là những người đang trong giai đoạn bước đệm giữa giai đoạn trước lao
động và giai đoạn lao động. Đặc thù của độ tuổi này là tính năng động, dễ thích ứng với cái mới
nhưng cũng rất bấp bênh, dễ đổ vỡ. Xét về mặt định hướng giá trị, hệ giá trị của nhóm thanh
niên – sinh viên đang trong giai đoạn định hình cũng dễ bị thay đổi [24,tr.51].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng lý thuyết xã hội hoá để tìm hiểu và lý giải những yếu
tố môi trường sống xung quanh tác động như thế nào đến quá trình hình thành và phát triển
nhận thức của sinh viên về vấn đề ma tuý .
1.1.2 Lý thuyết về ý thức tập thể, ý thức xã hội và ý thức cá nhân của Émile Durkheim.
Khái niệm ý thức tập thể hay khái niệm ý thức xã hội đóng vai trò trung tâm trong sự
nghiệp xã hội học của Durkheim. Theo Durkheim, ý thức tập thể là biểu thị sự tồn tại của một
tập hợp giá trị chung trong cùng một nhóm tác nhân. Đây chính là tập hợp những niềm tin,
những cảm giác chung cho những thành viên của cùng một xã hội. Tất cả những tập hợp đó tạo
thành một hệ thống có giá trị riêng. Chính vì thế, nó được cả xã hội thừa nhận và có tính cưỡng
chế, áp đặt đối với hành vi của mỗi cá nhân. Hơn thế, nó còn đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành các giá trị chuẩn mực hay quy định hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội.
Về vấn đề ma tuý, nhận thức được mức độ nguy hiểm của ma tuý đối với xã hội như gây
tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia
đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia... là những
nhận thức cần đạt được ở mỗi người. Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
khoá X, kỳ họp thứ 8 (năm 2000) đã thông qua Luật phòng chống ma tuý với mục đích để
phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với ma tuý. Luật phòng chống ma tuý tập
trung vào hai lĩnh vực:
Nội dung phòng ma tuý được thể hiện tập trung vào các việc sau:
Huy động rộng rãi cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức xã hội, nhà trường, quần chúng
nhân dân tham gia phòng ngừa tệ nạn ma tuý; tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma tuý.
Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý; phòng ngừa, ngăn
chặn việc lợi dụng các hoạt động này vào các mục đích trái pháp luật.
Tổ chức, quản lý cai nghiện ma tuý; giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện; phòng
chống tái nghiện.
Nội dung chống ma tuý tập trung vào các điểm sau:
Huy động rộng rãi cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia đấu tranh chống tệ nạn
ma tuý, nhất là việc phát hiện, tố giác, đấu tranh với tệ nạn này.
Phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các tội phạm về ma tuý và các hành vi trái phép khác về
ma tuý.
Xử lý các vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý [27,tr.10].
Nhà nước sử dụng Luật phòng chống ma tuý với tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ
xã hội, bằng việc mô hình hoá các khuôn mẫu hành vi xử sự hợp quy luật, không trái với chuẩn
mực giá trị của dân tộc. Nếu cá nhân hành động đúng theo các khuôn mẫu đó, đồng thời tuân
theo các giá trị đạo đức, các hành vi đó sẽ không lệch khỏi chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Trong vấn đề về ma tuý thì hệ giá trị chung mà xã hội xây dựng và huớng tới đó là một xã hội
không ma tuý. Hệ giá trị này quy định những hành động của cá nhân về vấn đề ma tuý như:
không hút ma tuý, không tham gia buôn bán, vận chuyển, tổ chức, lôi kéo xúi giục người khác
sử dụng ma tuý...
Theo Durkheim, “Khi đo nhận thức của xã hội thì không phải là phép cộng các ý thức
các nhân lại mà là xem xét cá nhân đó đã xã hội hoá được bao nhiêu trong những giá trị chuẩn
mực của xã hội” [21,tr.106-107]. Cá nhân, nếu muốn tồn tại và phát triển trong xã hội thì phải
thừa nhận và tuân theo hệ giá trị mà xã hội đó đang mang trong mình nó. Hệ giá trị này mang
tính khách quan: nó như là những tập tục tồn tại ở bên ngoài cá nhân. Với tư cách là thành viên
của xã hội, cá nhân không còn cách nào khác là phải tham gia vào quá trình xã hội hoá để có
thể nhận thức được hệ thống giá trị này. Vì thế, muốn đo nhận thức của sinh viên về ma tuý,
chúng tôi vận dụng lý thuyết này nhằm xem xét các hệ giá trị của xã hội về vấn đề ma tuý có
ảnh hưởng như thế nào đến nhận thức của sinh viên và sinh viên đó đã nhận thức như thế nào
về các nội dung liên quan đến ma tuý. Từ chỗ có nhận thức đúng về ma tuý mới có thể giúp họ
có mô hình hành vi thích hợp với mong đợi của xã hội.
1.1.3 Lý thuyết hành động xã hội
Lý thuyết xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ V. Pareto. M. Weber, F.
Znaniecki, G. Mead, T. Parsons và nhiều nhà xã hội học khác. Những lý thuyết này đều coi
hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội, là đối tượng nghiên của
của xã hội học, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội loài người.
Lý thuyết hành động xã hội ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các nhà hành vi
luận (Behaviorism) về hành động của con người. Hệ quan điểm này cho rằng, không thể nghiên
cứu được những yếu tố bên trong quy định hành vi của các cá nhân, mà chỉ có thể biết đến
những phản ứng bên ngoài.
Trong xã hội học, hành động xã hội được hiểu cụ thể hơn, thường gắn với các chủ thể
hành động là cá nhân. Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức, M. Weber, là định nghĩa được
thừa nhận khá rộng rãi về hành động xã hội. Ông cho rằng: “Hành động xã hội là một hành vi
mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định. Weber đã nhấn mạnh đến “động cơ” bên trong
chủ thể như là nguyên nhân của hành động”. Như vậy, ông cho rằng, chúng ta có thể nghiên
cứu được các yếu tố chủ quan thúc đẩy hành động, điều này khác với quan điểm của lý thuyết
hành vi.
Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành trong hoạt động sống của cá nhân. Bởi đời
sống xã hội là một tập hợp phức tạp bao gồm các hành động xã hội liên quan đến nhau, quy
định lẫn nhau hoặc thậm chí xung đột lẫn nhau.
Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực của các cá nhân. Tính tích cực này lại bị quy định
bởi hàng loạt yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể hành động. Tất cả các
yếu tố và quá trình đó chính là phương thức tồn tại của chủ thể.
T. Parsons phân biệt hành động vật lý - bản năng với hành động xã hội. Hành động vật
lý - bản năng là hành động hầu như không có sự chi phối của ý thức. Theo ông, hành động xã
hội khác với hành động vật lý, hành động bản năng sinh học trước hết ở chỗ nó có một cơ chế
biểu tượng điều chỉnh như hệ thống ngôn ngữ, giá trị... Điều này có nghĩa là các hành động xã
hội bị điều chỉnh bởi hệ thống biểu tượng mà các cá nhân dùng trong các tương tác hàng ngày.
Theo Parsons, dấu hiệu khác biệt thứ hai là tính chuẩn mực của hành động xã hội, tức là
các hành động xã hội của cá nhân phụ thuộc vào hệ thống các giá trị, chuẩn mực chính thống
của xã hội, còn các hành động vật lý - bản năng thì không.
Dấu hiệu thứ ba mà Parsons dùng để phân biệt hành động xã hội với hành động vật lý bản năng sinh học là tính duy lý của hành động xã hội. Tính duy lý này thể hiện ở chỗ, chúng ta
có những độc lập nhất định khi hành động một cách chủ quan. Tính duy lý còn thể hiện rõ ở chỗ
chúng ta căn cứ vào hệ giá trị, chuẩn mực chính thống của xã hội và các cơ chế điều chỉnh khác
mà chúng ta tiếp nhận được một cách chủ quan.
Khởi điểm của hành động xã hội là nhu cầu, là lợi ích của cá nhân, cái mà M. Weber gọi
là động cơ thúc đẩy hành động.
Những thành tố đầu tiên trong cấu trúc của hành động xã hội là động cơ và mục đích của hành
động. Nhu cầu của chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy hành động để thoả mãn nó. Động cơ này
sẽ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham gia định hướng hành động và quy định mục đích
của hành động. Các động cơ này cũng hướng các hành động xã hội đến việc đạt được những
mục đích (theo nghĩa rộng) nhất định hay đến những điều kiện sống và làm việc, điều kiện
hoạt động nói chung. Các động cơ của chủ thể hành động không chỉ liên quan đến các nhu
cầu vật chất, mà xét rộng ra các giá trị, lợi ích, lý tưởng trong xã hội đã được các chủ thể
tiếp nhận đều có thể là nguồn gốc tạo ra các động cơ hành động. Tóm lại, mọi hành động xã
hội đều được các động cơ thúc đẩy, dẫn dắt, tạo ra các định hướng nhất định để đạt được
mục đích là kết quả đã được hình dung trước.
Thành tố thứ hai trong cấu trúc của hành động xã hội là chủ thể hành động. Chủ thể hành
động có thể là các cá nhân, các nhóm, cộng đồng xã hội hay toàn thể xã hội. Để có một
hành động xã hội cần phải có tối thiểu là một tác nhân (actor).
Thành tố thứ ba trong cấu trúc của hành động xã hội là hoàn cảnh hoặc môi trường của hành
động. Đó chính là những điều kiện về thời gian, không gian vật chất và tinh thần của hành
động. Tuỳ theo hoàn cảnh hành động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án tối ưu
nhất đối với họ.
Trong khuôn khổ của luận văn này, định nghĩa sau cùng được sử dụng là:
“Hành động xã hội là biểu hiện cụ thể hay trừu tượng của một ý chí cá nhân hay tập thể trong
một tình huống xã hội” [21,tr5] .Chúng tôi sử dụng lý thuyết hành động xã hội đề giải thích
con đường từ nhận thức về ma tuý tới những hành động tích cực, hành vi đúng mức được xã
hội mong đợi sinh viên với những vấn đề về ma tuý. Vả lại, theo định nghĩa, hành động xã hội
có thể được biểu hiện một cách trừu tượng. Vậy, muốn đo và tìm hiểu nhận thức của sinh viên
về ma tuý, thì chúng ta có thể nghiên cứu những diễn ngôn của họ, những lời khai của họ
thông qua phỏng vấn hay điều tra bằng bảng hỏi. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng tôi
muốn tìm hiểu xem sinh viên đã nội hóa các lý tưởng, giá trị về một xã hội không ma túy như
thế nào trong hành động của mình.
1.1.4 Lý thuyết về thói quen và tâm thế hành vi của Pierre Bourdieu
1.1.4.1. Định nghĩa
“Habitus” là toàn thể thói quen và tâm thế hành vi của một văn hóa hoặc của một môi trường xã
hội thẩm thấu vào cá nhân trong quá trình xã hội hóa [21,tr.252].
Tác giả đưa ra thuật ngữ này nhằm giải đáp những tranh cãi giữa hai chủ thuyết khách quan và
chủ thuyết chủ quan trong xã hội học. Vậy chủ thuyết khách quan là gì và chủ thuyết chủ quan
là gì? Chủ thuyết khách quan do Émile Durkheim là đại diện và khởi xướng. Chủ thuyết này
coi “thế giới xã hội (các sự kiện xã hội = các thiết chế xã hội) như là các sự vật (tự nhiên)” .
Như vậy, nó là chủ thuyết tự nhiên hay chủ thuyết hiện thực về xã hội. Trong trường hợp này,
nhà xã hội học được coi là một thợ chụp ảnh xã hội: “hãy đi mà xem, xã hội chẳng thể là cái gì
khác ngoài những gì chúng tôi chỉ cho các anh thấy”. Muốn “chụp ảnh” xã hội, nhà xã hội học
không thể có một cái máy ảnh đủ lớn để chụp hết các góc độ của nó. Do vậy, chủ thuyết này tập
trung xây dựng các dữ liệu mang tính đại diện (có quy luật) để từ đó tìm ra các quan hệ thống
kê (Pierre Bourdieu : 1980, trang 87). Từ đó, người ta tập trung nghiên cứu định lượng thông
qua lấy mẫu xã hội và bảng hỏi cấu trúc hay bảng hỏi có định hướng (questionnary). Các lí
thuyết cơ cấu thuộc dòng chủ thuyết khách quan giả định rằng, cá nhân bị “quyết định” bởi các
mối quan hệ đã được cấu trúc hóa. Cá nhân sống trong cấu trúc nào dường như bị chi phối bởi
cấu trúc đó vì cấu trúc có “quyền lực cưỡng chế” , áp đặt lên cá nhân. Do vậy, người ta thường
nghiên cứu xã hội theo phương pháp luận tự nhiên, logic hình thức và thực nghiệm xã hội.
Hành động của cá nhân bị “xác định” bởi cấu trúc mà cá nhân sống trong đó. Có thể nói một
cách đơn giản như sau : “cấu trúc nào sinh ra cá nhân đó”. Vì vậy, ngôn ngữ thể hiện các quan
hệ xã hội là ngôn ngữ tự nhiên hay ngôn ngữ công thức (formula). Ngược lại, chủ thuyết chủ
quan tập trung giải nghĩa xã hội từ kinh nghiệm cá nhân. Các lí thuyết cá nhân thuộc chủ thuyết
này tìm hiểu và diễn giải kinh nghiệm cá nhân mà không đặt câu hỏi về những đặc thù xã hội
(đặc thù cấu trúc) trong hành động xã hội của các cá nhân ấy.
Trong lịch sử xã hội học, các tranh cãi giữa hai chủ thuyết này là vô tận : đặc biệt được thể hiện
rõ về mặt phương pháp luận (định lượng và định tính). Do vậy, thuật ngữ habitus của Pierre
Bourdieu ra đời nhằm dung hòa hai dòng chủ thuyết này. Habitus đã tạo ra một định hướng cơ
bản để giải quyết sự mâu thuẫn giữa dòng thuyết khách quan (cấu trúc) và dòng thuyết chủ
quan (cá nhân). Pierre Bourdieu định nghĩa như sau : “Habitus là toàn thể các tâm thế hành vi
được học hoặc thẩm thấu vào cá nhân. Cá nhân có xu hướng tái tạo các tâm thế hành vi ấy bằng
cách kích hoạt các khung hành vi và thích ứng chúng với các điều kiện hay hoàn cảnh mà họ
sống trong đó” [21,tr.253] .
1.1.4.2. Ba sắc thái ngữ nghĩa của thói quen “habitus” theo định nghĩa của Pierre Bourdieu
Thứ nhất, habitus là một tập hợp kết quả của các quá trình học tập (chính thức hay phi
chính thức, được nói ra bằng lời hay ngấm ngầm). Các quá trình học tập ấy hình thành và khắc
sâu vào trí não những mô hình hành vi, các phương thức nhìn nhận và đánh giá trong quá trình
xã hội hóa. Ví dụ, thiết chế học đường (trường học) đã khắc sâu vào trí não của học sinh những
mô hình hành vi hay những cách thức xử sự…Trường học tạo ra các cá nhân được trang bị
những mô thức hành động vô thức (những mô thức hành vi). Những mô thức hành vi ấy sẽ
được kích hoạt trong các điều kiện tương đồng và sẽ tạo ra văn hóa của họ hay habitus của họ,
đồng thời biến habitus tập thể (cấu trúc) thành cái vô thức cá nhân (Pierre Bourdieu : 1970,
trang 148).
Thứ hai, habitus là những tâm thế hành vi. Có nghĩa là, cá nhân thẩm thấu vào mình
những kiểu hành vi “chờ sẵn” hay “sẵn sàng” cho hành động. Những kiểu hành vi ấy được học
một cách có ý thức hay vô tình thẩm thấu trong quá trình xã hội hóa và sẽ được cá nhân nhắc
lại. Pierre Bourdieu gọi hiện tượng này là “quá trình nội hóa những đặc tính bên ngoài”. Từ đó,
cái vô thức của cá nhân hay tập thể được hình thành và sẽ phát huy trong các tình huống tương
tự.
Thứ ba, với tư cách là hệ thống tâm thế hành vi đã đạt được, habitus đồng nghĩa với khả năng
sinh ra những hành động trong những điều kiện khá tương đồng. “Habitus được định nghĩa như
là hệ thống các khuôn khổ hành vi được cá nhân thẩm thấu. Những khuôn khổ hành vi ấy cho
phép sinh ra mọi suy nghĩ, mọi nhận biết và mọi hành động đặc thù của một nền văn
hóa”(Pierre Bourdieu : 1970, trang 152).
Trong khóa luận này, chúng tôi vận dụng ngữ nghĩa thứ hai của “habitus” để tìm hiểu
xem các sinh viên đã nội hóa những nội dung, giá trị đã được học tập và tuyên truyền liên quan
đến ma túy như thế nào và xây dựng tâm thế hành vi ra sao nhằm lý giải cho những hành vi của
sinh viên đối với các tình huống có vấn đề liên quan đến ma túy. Nếu như những thói quen của
sinh viên đã trở thành vô thức, thì khả năng bộc lộ những thói quen ấy ra ngoài trong những
tình huống có vấn đề thường rất dễ ràng. Đây chính là cơ sở để đo nhận thức của sinh viên về
ma túy một cách khách quan và chân thực nhất. Đồng thời, nó cũng làm nền tảng phương pháp
luận để giúp nhà nghiên cứu nghĩ ra những tình huống theo đó các “phản ứng” của sinh viên
được đo đạc một cách chính xác.
1.2
Hệ thống khái niệm công cụ
1.2.1 Khái niệm "Nhận thức"
Trong nhiều từ điển triết học, xã hội học hoặc tâm lý học bằng tiếng nước ngoài (tiếng
Anh và tiếng Pháp: perception), khái niệm nhận thức có phổ nghĩa rất rộng. Tuy nhiên, ngữ
nghĩa khá phổ biến của khái niệm này thể hiện ở “hình ảnh tâm lí”, “sự thu nhận”, “sự nội hoá”,
“nhận biết”, “kiến thức” và “tâm thế hành vi” của một cá nhân về một đối tượng nào đó. Như
vậy, nhận thức mang tính ẩn hay tính bên trong. Nhận thức đúng sẽ có nhiều cơ hội dẫn đến
hành động đúng. Ngược lại, nhận thức sai thì sẽ hành động sai. Cách đo nhận thức tốt nhất là
quan sát hành vi. Nhưng khi hành vi chưa xẩy ra, thì nhà nghiên cứu thường quan sát thông qua
“hành động ngôn ngữ” (act of language), thông qua phỏng vấn, thông qua lời nói hay tình
huống có vấn đề.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện thực vào
trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan hoặc kết quả quá trình
đó nhằm nâng cao nhận thức. Có nhận thức đúng, có nhận thức sai.” [26]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hoàng Phi chủ biên), nhận thức được định nghĩa là quá
trình hay kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy. Nhận thức là quá trình con
người nhận biết, hiểu biết thế giới quan hay kết quả của quá trình đó. Nhận thức là nhận ra và
hiểu biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó.
Hiện nay trong tâm lý học có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nhận thức bao gồm:
- Nhận thức là sự phản ánh (xét dưới góc độ phản ánh)
- Nhận thức là hoạt động: Theo quan điểm này, hoạt động nhận thức bao gồm nhiều hoạt động
chuyển các hoạt động vật chất bên ngoài thành những hoạt động tâm lý ở bên trong, quá trình
đó con người nhận thức thế giới. Hoạt động nhận thức bao gồm một chuỗi các hoạt động liên
tục: cảm giác, tri giác, tư duy… cho ta tri thức. Hoạt động nhận thức có hai dạng hoạt động:
hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý tính. Hoạt động nhận thức cảm tính
bao gồm hoạt động cảm giác, tri giác những hoạt động này cho ta hình ảnh cảm tính. Hoạt động
nhận thức lý tính bao gồm hoạt động tư duy, tưởng tượng quá trình này đem lại cho ta khái
niệm.
Hoạt động nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho
nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng hoạt động nhận thức của con người [10,tr.98]
Lý luận về nhận thức trong Xã hội học
Trên cơ sở khai thác các cách thức tiếp cận và quan niệm về nhận thức của các nhà tâm
lý học, xã hội học, trong phạm vi của khoá luận này, chúng tôi không xem xét nhận thức như là
một quá trình tâm lý với bốn giai đoạn: cảm giác, tri giác, tư duy và tưởng tượng, hay cũng
không xem xét nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người…, mà chúng
tôi tiếp cận nhận thức theo lý thuyết về nhận thức của Vygotsky được cụ thể qua tam giác nhận
thức của Bernard Clof :
Chủ thể
Đối tượng
Người khác
Việc sử dụng tam giác nhận thức này phù hợp với các lí thuyết về xã hội hoá hay ý thức xã hội
đã trình bày ở phần đầu khoá luận. Theo sơ đồ nhận thức này, chủ thể thông qua đối tượng mà
lớn lên. Nhưng chủ thể không thể tự nhận thức được đối tượng của mình, mà chỉ có thể nhận
thức được đối tượng một cách đầy đủ và hoàn thiện nhất thông qua “người khác”. Người khác
mà Vygostky đề cập tới không phải là ai khác mà đó chính là môi trường xã hội hoá (gia đình,
nhà trường, tổ chức xã hội và truyền thông đại chúng). Trong khoá luận này, đối tượng mà sinh
viên cần phải hướng đến là một xã hội không ma tuý (không còn tồn tại các hành vi vi phạm
pháp luật về ma tuý). Tuy nhiên, tự bản thân sinh viên trong một chừng mực nhất định, không
tự nhận thức được đầy đủ những thông tin về xã hội không ma tuý đó, mà họ nhận thức được
thông qua quá trình xã hội hoá. Thông qua các môi trường ấy, họ được cung cấp những thông
tin, tri thức cần thiết và tự chuẩn bị hành vi đúng nhất về đối tượng. Quá trình nhận thức này
bao gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn có thông tin về đối tượng, đó là khi mà cá nhân được cung cấp
các thông tin về đối tượng. Cá nhân có thể tiếp cận được thông tin về đối tượng qua nhiều con
đường và nhiều kênh khác nhau như: thông qua gia đình, qua nhà trường, nhóm thành viên
cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng…
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn nhận biết thông tin. Thông qua giai đoạn thứ nhất, cá nhân được
cung cấp các thông tin về đối tượng. Cá nhân sẽ “nội hoá” các thông tin đó thành những hiểu
biết ban đầu cho bản thân mình. Hay nói cách khác, đây chính là quá trình nhận thức cảm tính.
Trong khóa luận này, thông tin mà cá nhân được cung cấp về đối tượng đó là tất cả các thông
liên quan đến ma tuý, về các chất ma tuý, về cách thức sử dụng ma tuý cũng như tác hại về ma
tuý… Những thông tin này, khi tác động tới cá nhân, sẽ mang lại cho cá nhân một hệ thống
nhận biết cơ bản hay kiến thức nền về đối tượng là “ma tuý”.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn hiểu biết thông tin như thế nào và chuẩn bị hành động. Nếu như
giai đoạn thứ hai mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức cảm tính tức là cá nhân mới chỉ tiếp
nhận được thông tin, nắm bắt được thông tin đó còn vấn đề cá nhân có hiểu được những thông
tin đó hay không và hiểu như thế nào thì nó được thể hiện rất rõ trong giai đoạn thứ ba này. Đây
chính là giai đoạn nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tri thức mà cá nhân được cung cấp ở hai
giai đoạn đầu, cá nhân sẽ quy chiếu với hệ giá trị của xã hội mà cá nhân đóng vai trò là thành
viên. Cá nhân sẽ trang bị cho mình những kinh nghiệm để đối phó với những tình huống có vấn
đề liên quan đến đối tượng. Trên cơ sở những thông tin về vấn đề ma tuý mà cá nhân thu nhận
được, cá nhân xử lí chúng để biến chúng thành các hiểu biết và năng lực hành vi trong tình
huống có vấn đề.
Tóm lại, nhận thức là quá trình mà cá nhân tiếp nhận, xử lý, phân tích, tổng hợp thông tin, biến
chúng thành hệ thống kiến thức, hiểu biết có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống kiến thức,
hiểu biết ấy chuẩn bị cho cá nhân hành động trong xã hội.
Nhận thức của sinh viên về ma tuý không chỉ dừng lại ở chỗ sinh viên biết, hiểu như thế nào về
ma tuý mà hơn thế nữa sinh viên còn có thể vận dụng những hiểu biết về ma tuý đó như thế nào
trong hành động thực tiễn, trong cuộc chiến chống ma tuý của xã hội.
1.2.2 Khái niệm "Luật pháp"
Bất kỳ một xã hội nào cũng cần đến trật tự và ổn định. Nhờ có ổn định, quá trình sản
xuất, phân phối sản phẩm cũng như việc đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã hội mới được
đảm bảo.
Để thiết lập trật tự và ổn định trong xã hội thì buộc Nhà nước phải điều chỉnh lại các
quan hệ xã hội, hướng các quan hệ đó phát triển hài hoà và tiến bộ. Mặt khác Nhà nước phải
điều chỉnh lợi ích giữa các nhóm xung đột.
Quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau. Trước khi có pháp luật, các quy phạm xã hội bao gồm tập quán và tín điều tôn giáo đã
xuất hiện để điều chỉnh quan hệ xử sự giữa các thành viên, giữa các nhóm và giữa các xã hội
với nhau. Các tập quán và tín ngưỡng tôn giáo này xuất hiện một cách tự phát, dần dần được
cộng đồng xã hội chấp nhận và tuân thủ. Từ đó, chúng trở thành những quy tắc ứng xử chung
mang tính đạo đức và xã hội.
Khi Nhà nước ra đời, thì công cụ quản lý xã hội cơ bản là luật pháp. Chính vì vậy, luật
pháp trở thành phương tiện hiện hữu để điều chỉnh các quan hệ xã hội tạo ra môi trường trật tự
ổn định để xã hội có thể vận hành và phát triển.
Như vậy, luật pháp được hiểu là hệ thống các quy tắc xử xự do nhà nước ban hành và
được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo trật tự và ổn định xã
hội.
Dưới góc độ xã hội học, luật pháp được hiểu như là tổng hợp những chuẩn mực thành
văn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, phản ánh và củng cố những quan hệ đã hình thành
trong một xã hội cụ thể. Nó thừa nhận những cách ứng xử có ích cho xã hội và giai cấp mà
trước đó chưa mang tính phổ cập và bắt buộc.
Luật pháp chính là hệ thống các chuẩn mực và các quy tắc hành động do cơ quan có
thẩm quyền đưa ra. Luật pháp có vai trò hết sức to lớn trong việc quy định và kiểm soát xã hội
đối với hành động và quan hệ xã hội. Chính vì vậy, luật pháp được nhìn nhận như là một lực
lượng đoàn kết tập hợp và biến đối xã hội. Giữa hệ thống luật pháp và hệ thống xã hội có quan
hệ ảnh hưởng qua lại với nhau.
Xét về bản chất, luật pháp mang hai thuộc tính: thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.
Tính giai cấp thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị, nó bảo
vệ điều kiện tồn tại của giai cấp đó.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ, luật pháp phải ghi nhận những quy tắc ứng xử được số đông
xã hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích của số đông đó. Mặt khác, luật pháp phải là thước đo
hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, là công cụ để đo nhận thức xã
hội, và điều chỉnh các quá trình xã hội đưa đến cho con người những thông tin nhất định về các
giá trị yêu cầu của xã hội.
1.2.3 Khái niệm "chất ma tuý"
Ma tuý là một danh từ hán việt được ghép lại từ hai chữ “ma” có nghĩa là cho tê liệt và
“tuý” là làm cho say sưa. Chất ma tuý (gốc Hy Lạp: Nakotikoe) dùng để chỉ các chất có tác
dụng gây ngủ, gây mê. Ngày nay, nó dùng để chỉ các chất tự nhiên và các chất tổng hợp có khả
năng gây nghiện. Thuật ngữ này có thể xem như tương đương với thuật ngữ
“stupéfiant”/ « drogue » (trong tiếng Pháp) dùng trong y học hoặc “Drug” (trong tiếng Anh”
dùng để chỉ những chất tự nhiên hay hoá học có khả năng tác động đến hệ thần kinh trung ương
và làm thay đổi tri giác cũng như hành vi của người dùng nó.
Theo Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 21 -12-1999 thì ma tuý bao gồm
nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca; lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây coca; quả thuốc phiện
khô; quả thuốc phiện tươi; heroin; côcain; các chất ma tuý khác ở thể lỏng; các chất ma tuý
khác ở thể rắn.
Như vậy, chất ma tuý là những chất đã được xác định và có tên gọi riêng trong khoa
học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý của
Liên Hợp quốc, danh mục chất ma tuý cần kiểm soát gồm 249 chất trong đó có 227 chất ma tuý
và 22 chất thường dùng để sản xuất ra chất ma tuý (được gọi là tiền chất). Để xác định có phải
là chất ma tuý hay không hoặc chất ma tuý gì thì phải trưng cầu giám định chuyên gia.
Từ các quy định của Liên Hiệp Quốc và pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể hiểu: Ma
tuý là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp. Khi được đưa vào cơ thể con người, nó có
tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma tuý, con
người sẽ bị lệ thuộc vào nó. Khi đó, nó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng
đồng.
Chất gây nghiện là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác. Nếu sử dụng nhiều lần
có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất ma tuý, được
quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.
Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh
mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa chất gây nghiện và chất hướng thần.
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm loại chất ma tuý khác nhau được chia thành 5 loại
chính là:
Các chất ma tuý chính danh (Lesnarcotiques proprement dita) gồm có thuốc phiện, những dẫn
xuất của thuốc phiện (morphine, heroine, codéine) và các tổng hợp á phiện như mépéridine,
méthadone;
Các chất gây suy nhược (Lesdépressanta) có tính chất an thần nhưng gây ngủ, chủ yếu là các
chất thuộc nhóm Bartituriques.
Các chất kích thích (Lesstémalanta) ví dụ như amphétamine, cocaine, caféine, thébaine.
Các chất gây ảo giác (Leshallucinogènes) ví dụ như: cần sa (marijuana), LSD, Cacide
lysergique díethlamide, mescaline, paylocybine.
Các chất an thần (Lestranquillesanta) có tính chất an thần nhưng không gây buồn ngủ, chia ra
thành hai loại tuỳ theo có tác dụng gọi là “mạnh” (Majeur) ví dụ như chất Phénothíaine (còn
gọi là chlorpromasine hay lagaretil) chất Réserpine (cũng dùng để chữa bệnh cao huyết áp;
loại không có tác dụng gọi là loại “yếu” (mineur) ví dụ như meproanate, lirium, valium.
1.2.4 Khái niệm "Tệ nạn ma tuý"
Theo quy định của Luật phòng chống ma tuý thì tệ nạn ma tuý là tình trạng nghiện ma
tuý, tội phạm về ma tuý và các hành vi trái pháp luật về ma tuý.
2.5 Khái niệm "Người nghiện ma tuý"
Người nghiện ma tuý là người sử dụng lặp đi lặp lại một hay nhiều chất ma túy với liều
dùng ngày càng tăng dẫn đến trạng thái nhiễm độc chu kỳ mãn tính, bị lệ thuộc về thể chất và
tinh thần vào chất đó.
Người nghiện ma túy có các đặc trưng sau:
Có sự ham muốn không kiềm chế được và phải sử dụng bằng bất kỳ giá nào.
Có khuynh hướng tăng dần liều dùng (liều dùng lần sau phải cao hơn lần trước mới có tác
dụng).
Tâm sinh lý bị lệ thuộc vào chất đó.
Khi thiếu thuốc, cơ thể người nghiện sẽ xuất hiện các triệu chứng như: uể oải, hạ huyết áp, lên
cơn co giật, đau đớn và có thể làm bất kỳ điều gì miễn là có chất ma túy để dùng. Hay nói
cách khác, người nghiện khi bị lên cơn sẽ chỉ có một mục đích duy nhất là làm mọi cách để
được dùng thuốc và không còn khả năng kiểm soát hành vi.
1.2.6 Khái niệm “Sinh viên”
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “student” có nghĩa là người học tập
nhiệt tình, hăng say, người tìm kiếm khai thác tri thức, khám phá kho tàng tri thức nhận loại.
Sinh viên là những người đang theo học ở bậc đại học, cao đẳng để phân biệt với học
sinh phổ thông.
Sinh viên là đại biểu của nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị cho hành động sản xuất
vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt này là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri
thức. Đây là lực lượng lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt động
đa dạng có ích cho xã hội [23,tr.44].
Sinh viên, đại diện cho một nhóm xã hội trẻ tuổi đang trong quá trình xã hội hoá, chuẩn
bị kiến thức để trở thành những nhân cách hoàn thiện. Sinh viên thường ở tuổi thanh niên, lứa
tuổi có những bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển tâm sinh lý của con người. Điều đó thể
thiện trong sự trưởng thành về thể chất, trong sự biến đổi và phát triển về tri thức khoa học.
Sinh viên ngày nay, là lực lượng trí thức nòng cốt của xã hội, phần lớn họ đang tích cực
học tập rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp. Nét nổi bật của sinh viên ngày nay là sự năng động
trong học tập sáng tạo trong công tác nghiên cứu, hoạt động của họ không còn bị bó hẹp trong
học đường mà có xu hướng vươn ra tiếp cận chiếm lĩnh và tự khẳng định mình trong môi
trường xã hội.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, “sinh viên” – khách thể nghiên cứu của đề tài là những người
đang học hệ chính quy tại các trường Đại học Kinh tế quốc dân và ĐH.KHXH&NV –
ĐHQGHN.
1.3
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Những năm gần đây, ma tuý và lạm dụng ma tuý không phải là hiện tượng mới có ở
Việt Nam, khi ma tuý và nạn lạm dụng ma tuý đã được coi là vấn đề mang tính toàn cầu thì ở
Việt Nam, trong vòng hơn 10 năm trở lại đây cũng phát triển nhanh chóng và ngày càng phức
tạp. Theo số liệu của Uỷ ban Quốc gia phòng chống Aids và phòng, chống tệ nạn ma tuý mại
dâm – Bộ công an thì ở nước ta hiện nay có khoảng 170.000 người nghiện ma túy có hồ sơ
quản lý. Đặc biệt, khi nói đến sự xâm nhập và phát triển của ma tuý trong thế hệ trẻ ở Việt
Nam, với trên 70% số người nghiện ma tuý dưới 30 tuổi, trên 5% tổng số người sử dụng ma tuý
ở tuổi chưa thành niên (dưới 18 tuổi). Thực tế đó đang làm cho vấn đề “ma tuý học đường” trở
nên nóng bỏng, là mối quan tâm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu về sinh viên và ma tuý. Những nghiên cứu ấy được thực hiện từ nhiều phương pháp tiếp
cận khác nhau: tâm lý học, tội phạm học, xã hội học...tiêu biểu như:
Tác phẩm: “Phòng chống ma tuý trong nhà trường”, (Vũ Ngọc Bừng, Nxb giáo dục Nxb công an nhân dân, Hà Nội -1997). Trong nghiên cứu này tác giả chỉ ra thực trạng tệ nạn
ma tuý đã xâm nhập vào các trường học trên quy mô cả nước và là tiếng chuông cảnh báo cho
toàn xã hội: tính đến tháng 9/1996 tổng số người nghiện hút ma tuý trong cả nước là 183.000
người. Trong đó, số người nghiện ma tuý ở lứa tuổi trẻ tăng nhanh, dưới 30 tuổi chiếm 70%.
Các đối tượng buôn bán ma tuý dùng những thủ đoạn kích thích, lôi cuốn, thu hút học sinh, sinh
viên lao vào nghiệm ma tuý. Lúc đầu, chúng thường cung cấp thuốc cho hút không mất tiền.
Dần dần, các em lao vào nghiện hút ngày càng nhiều. Sau đó, chúng dùng các em để làm công
cụ buôn bán, vận chuyển ma tuý. Theo tác giả này, để phòng ngừa có hiệu quả tệ nạn nghiện
ma tuý trong thanh niên, học sinh – sinh viên, thì biện pháp giáo dục, thuyết phục và động viên
bằng tình cảm có ý nghĩa quyết định. Đội ngũ ưu tú góp phần vào công cuộc đấu tranh này
chính là giáo viên và nhà trường.
Đề tài nghiên cứu Ma tuý trong lứa tuổi chưa thành niên ở Hà Nội: nguyên nhân và một
số biện pháp phòng, chống của lực lượng công an (Tài liệu lưu hành nội bộ của Bộ công An và
Vụ quản lý khoa học và công nghệ) được tiến hành từ năm 1996-1998. Đề tài đem đến cho độc
giả những vấn đề lý luận về ma tuý và lứa tuổi chưa thành niên, cũng như một bức tranh khái
quát về tình hình người chưa thành niên sử dụng ma tuý ở Hà Nội và hoạt động phòng, chống
ma tuý trong lứa tuổi thành niên của Công an thành phố Hà Nội trong thời gian từ 1996-1998 .
Thông qua đó, tác giả chỉ ra các nguyên nhân của việc sử dụng ma tuý trong lứa tuổi chưa thành
niên, đề xuất một số kiến nghị và biện pháp của lực lượng công an nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác phòng, chống ma tuý trong lứa tuổi chưa thành niên.
Trong tác phẩm Luật phòng chống ma tuý và phòng chống ma tuý trong nhà trường của
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm (NXB công an nhân dân), tệ nạn ma tuý được tiếp cận dưới góc độ
của của pháp luật học và tội phạm học. Đó là những hành vi trái với pháp luật, những hành vi
sai lệch so với các chuẩn mực của xã hội (đạo đức, lối sống, tập quán tiến bộ…); tệ nạn xã hội,
tệ nạn ma tuý là những hiện tượng nguy hiểm cho xã hội lây lan nhanh, gây tâm trạng xã hội
nặng nề, phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội và tuỳ thuộc vào quan điểm
tiếp cận. Đấu tranh đẩy lùi tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma tuý nói riêng đòi hỏi phải thực
hiện tốt các biện pháp như: giáo dục tư tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đây là sự tác động về
mặt tinh thần và tư tưởng đối với con người để họ, nhất là thanh thiếu niên, giác ngộ lý tưởng, ý
thức chính trị và pháp luật. Một biện pháp vô cùng quan trọng trong công tác phòng chống ma
tuý là bằng con đường pháp luật. Biện pháp sử dụng pháp luật để đưa con người vào khuôn
khổ, kỷ luật và kỷ cương. Và biện pháp cuối cùng để phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống
ma tuý là bằng biện pháp kinh tế. Đây là biện pháp mà các chủ thể phòng chống tệ nạn xã hội
tác động gián tiếp đến khách thể quản lý như người dân, cán bộ phòng chống tệ nạn xã hội,
phòng chống ma tuý, các đối tượng tệ nạn xã hội, tệ nạn ma tuý dựa trên các lợi ích vật chất và
các đòn bẩy kinh tế như lương, thưởng, phụ cấp, chính sách xã hội…để làm cho các khách thể
quản lý suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bộ phận và trách nhiệm của mình một
cách tốt nhất mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể
quản lý.
Đề tài nghiên cứu: Các nguy cơ lạm dụng ma tuý trong nhóm thanh niên thất nghiệp và
bán thất nghiệp ở Việt Nam của phòng Xã hội học nông thôn, Viện Xã hội học, thuộc Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2001 thực hiện trên 657 thanh niên thất nghiệp và bán thất
nghiệp ở 6 địa phương: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa Vũng
Tàu và Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những nguy cơ lạm dụng ma tuý đối với nhóm
thanh niên này là: cá nhân, gia đình, bạn bè và xã hội. Nguyên nhân sâu xa và cũng chính là
nguyên nhân quan trọng nhất là do thiếu việc làm. Kiến thức, hiểu biết của nhóm thanh niên
này khá đầy đủ. Đa số họ không những chỉ biết người sử dụng ma tuý, mà còn khá rõ về các
loại ma tuý, giá cả, địa điểm sử dụng, hình thức sử dụng và tác hại của ma tuý Tuy nhiên, kết
quả điều tra cho thấy, có tới 37.1% thanh niên trong số họ có sử dụng ma tuý. Điều đó có thể
nói lên rằng, nhận thức cảm tính (những kiến thức, nhận biết) chưa hoàn toàn có thể giúp thanh
niên nói « không » với ma túy
Nghiên cứu về: Nhận thức và thái độ của học sinh trung học đối với công tác phòng
chống ma tuý trong nhà trường tại thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Hồng Phan (Tạp
chí Tâm lý học số 7/2003) nhằm so sánh nhận thức và thái độ của nhóm học sinh trung học đối
với ma tuý trước và sau thực nghiệm. Trước thực nghiệm, tỷ lệ nhận thức đúng của các em về
những kiến thức cơ bản về ma tuý là rất thấp, chỉ từ 19,35% đến 26,9%. Sau thực nghiệm, tỷ lệ
nhận thức đúng của học sinh trung học đối với kiến thức cơ bản về ma tuý tăng lên với tỷ lệ
56,18%. Thái độ tán thành của nhóm học sinh này với các nội dung cụ thể của công tác phòng
chống ma tuý trong nhà trường là tương đối tích cực. Đặc biệt, thái độ tán thành của các em về
các biện pháp phòng tránh ma tuý trong nhà trường chiếm 66,29%. Từ đó, ta có thể dễ dàng
nhận thấy vai trò tích cực của nhà trường trong công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn về ma
tuý.
Nghiên cứu của Phan Thị Mai Hương về vấn đề: Quan hệ bạn bè của thanh niên nghiện
ma tuý (Tạp chí Tâm lý học số 3/2006) được tiến hành với 162 thanh niên đang trong quá trình
cai nghiện tại các trung tâm cai nghiện của thành phố nhằm tìm hiểu về khía cạnh tâm lý trong
mối quan hệ của nhóm thanh niên này với bạn bè. Nghiên cứu chỉ ra rằng, nhóm người nghiện
ma tuý có xu hướng chịu ảnh hưởng của bạn bè tương đối cao. Điều này thể hiện ở nhu cầu
giao tiếp, gần gũi chia sẻ, đồng nhất, chấp thuận, đồng tình và bắt chước lẫn nhau. Những người
nghiện ma tuý thường cảm thấy gần gũi bạn bè hơn gia đình, bạn bè là niềm tin và chỗ dựa thực
sự của họ. Vốn dĩ ảnh hưởng của bạn bè với thanh niên là một điều khó tránh khỏi. Nhưng điều
nguy hiểm ở đây là đa số bạn bè của họ cũng nghiện ma tuý như họ. Vì thế, điều mà họ nhận
được chỉ là giải toả những bức xúc tạm thời, nhưng đọng lại những ảnh hưởng không lành
mạnh và tiêu cực, thậm chí có thể chi phối đến lý tưởng sống, hệ giá trị, cũng như định hướng
giá trị nhất định. Qua nghiên cứu này, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của bạn bè đối với
thanh niên, đặc biệt là những thanh niên nghiện ma tuý.
Nghiên cứu: Thực trạng nhận thức và thái độ đối với ma tuý của sinh viên trường Đại
học Lao động - Xã hội của Tiêu Thị Minh Hường (Tạp chí Tâm lý học số 3/2006) được tiến
hành trên 310 sinh viên. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đa số sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội có những nhận thức ban đầu về ma tuý, cụ thể: phần lớn sinh viên nhận thức được bản
chất của ma tuý, nguyên nhân dẫn đến nghiện ma tuý cũng như mức độ nguy hiểm của ma tuý
đối với cộng đồng. Các em thể hiện được quan điểm, sự quan tâm, thái độ tích cực của mình
với tệ nạn ma tuý. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ sinh viên chưa hiểu đúng nguyên
nhân cũng như tác hại của ma tuý. Một mặt, thông tin về ma tuý đến với các em chưa nhiều,
chưa thường xuyên. Mặt khác, ý thức thiếu tự giác của sinh viên trong việc tìm hiểu hay tiếp
cận các tài liệu về ma tuý.
Như vậy, ma tuý và nhận thức của học sinh, sinh viên về ma tuý đã được tìm hiểu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chủ đề này, khi đặt trong bối cảnh của thành phố Hà Nội, một
thành phố có nhiều diễn biến phức tạp về tệ nạn ma tuý đặc biệt là được nhìn nhận và đánh giá
thông qua nhận thức của sinh viên trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN và ĐHKTQD, thì có
nhiều vấn đề đáng được quan tâm. Nhưng chưa có tác giả hay tổ chức nào nghiên cứu. Chính vì
thế thông qua luận văn “Nhận thức của sinh viên về tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay" (Nghiên cứu trường hợp tại trường ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN và ĐHKTQD),
chúng tôi mong muốn sẽ đem lại một cách nhìn nhận mới về nhận thức của sinh viên về ma tuý.
Từ nghiên cứu này, một số biện pháp sẽ được đề xuất nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh
phòng, chống ma tuý trong thanh thiếu niên nói riêng và trong toàn xã hội nói chung.
1.4
Sơ lƣợc về địa bàn nghiên cứu
1.4.1 Về trường đại học khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
Với nền tảng là các ngành khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội trước
đây, Trường ĐHKHXH&NV chính thức được thành lập, trở thành một thành viên của
ĐHQGHN vào tháng 9/1995.
Trải qua một quá trình xây dựng và phát triển, trường ĐHKHXH&NV hiện có 14 khoa, 3 bộ
môn trực thuộc và 8 trung tâm. Tổng số cán bộ là 515, trong đó số cán bộ giảng dạy là 376, số
cán bộ hành chính là 139. Trong số hơn 10 nghìn sinh viên và học viên, sinh viên chính quy là
5374 người, sinh viên tại chức là 4831 người, học viên cao học là 1.286 người, nghiên cứu sinh
là 118 người.
Hiện nay, trường có 8 Giáo sư được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, 11 Giáo sư được tặng Giải
thưởng Nhà nước, 10 nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân và 43 nhà giáo
được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Không chỉ dừng lại ở đó, Nhà trường còn vinh dự
được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Đơn vị anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.
Mục tiêu của Nhà trường là từ nay đến năm 2010, trường sẽ từng bước thực hiện 6 chương
trình, nhằm chuẩn hoá và hiện đại hoá các mặt hoạt động như:
Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức trong Nhà trường.
Chuẩn hoá đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức, quản lý trong Nhà trường.
Tiếp tục đổi mới các hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học.
Mở rộng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc
tế.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động
của Nhà trường.
Chuẩn hoá các hoạt động lao động, học tập và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá nhân văn.
Các chương trình này chắc chắn sẽ đưa Trường ĐHKHXH&NV vươn xa hơn trong lĩnh vực
nghiên cứu và đào tạo, tự hào sánh vai với các trường đại học danh tiếng khác của Việt Nam,
dần dần tiếp cận trình độ khu vực và thế giới.
1.4.2 Về trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
Đại học Kinh tế Quốc dân được thành lập theo Nghị định số 678-TTg ngày 25/1/1956 với tên
gọi ban đầu là Trường Kinh tế Tài chính. Lúc đó, Trường được đặt trong hệ thống đại học
nhân dân trực thuộc Thủ tướng Chính phủ..
Ngày 22/10/1985, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và
Đào tạo) ra Quyết định số 1443/QĐ-KH đổi tên thành trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Năm 1989, ĐHKTQD được Chính Phủ giao thực hiện 3 nhiệm vụ chính:
* Tư vấn về chính sách kinh tế vĩ mô.
* Đào tạo về kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh ở bậc đại học và sau đại học.
* Đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, ĐHKTQD luôn luôn giữ vững vị trí uy tín hàng
đầu của đất nước. Trường là một trong những trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý
kinh tế và quản trị kinh doanh lớn nhất ở Việt Nam. Hiện có hơn 45.000 sinh viên, 1167 cán bộ,
giảng viên, công nhân viên (trong đó có 697 giảngviên, 19 giáo sư và 105 phó giáo sư, 107 tiến
sĩ và 398 thạc sĩ);
Cho đến nay, ĐHKTQD đào tạo được nhiều thế hệ cán bộ quản lý chính quy, năng động và dễ
thích nghi với nền kinh tế thị trường và có khả năng tiếp thu các công nghệ mới. Trong số
những sinh viên tốt nghiệp của Trường, nhiều người hiện giữ những chức vụ quan trọng trong
các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các doanh nghiệp.
ĐHKTQD có quan hệ trao đổi, hợp tác nghiên cứu - đào tạo với nhiều trường đại học, viện
nghiên cứu nổi tiếng và nhiều tổ chức quốc tế của các nước như Liên Bang Nga, Trung Quốc,
Bungari, Ba Lan, CH Séc và Slôvakia, Anh, Pháp, Mỹ...
ĐHKTQD đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn và đã được trao tặng nhiều danh hiệu cao quý
của Đảng và Nhà nước như: Huân chương lao động hạng ba trong giai đoạn 1961 - 1972, hạng
hai năm 1978, hạng nhất năm 1983, Huân chương độc lập hạng ba năm 1986, hạng hai năm
- Xem thêm -