Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của nguyễn du – giá trị và hạn chế...

Tài liệu Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của nguyễn du – giá trị và hạn chế

.DOC
160
145
62

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỒ NGỌC ANH NH¢N SINH QUAN PHËT GI¸O TRONG "tRUYÖN KIÒu" CñA NGUYÔN DU - GI¸ TRÞ Vµ H¹N CHÕ Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN HÙNG HẬU HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng: Luận án “Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Giá trị và hạn chế” là kết quả làm việc, nghiên cứu của riêng tôi. Luận án đã được tiến hành một cách nghiêm túc. Kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân thực, cẩn trọng, có trích nguồn cụ thể trong luận án. Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2014 Tác giả luận án Hồ Ngọc Anh MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu 1.2. Một số vấn đề đặt ra qua các công trình nghiên cứu 7 7 25 Chương 2: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO 2.1. Cơ sở hình thành nhân sinh quan Phật giáo 2.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo 28 28 39 Chương 3: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU 3.1. Khái lược chung về cuộc đời của Nguyễn Du và “Truyện Kiều” 3.2. Nội dung Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du 59 59 71 Chương 4: MỘT SỐ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU 4.1. Một số giá trị của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” 4.2. Một số hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du 4.3. Ý nghĩa việc nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 101 116 126 145 149 150 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập vào nước ta vào khoảng thế kỷ I. Mặc dù là một tôn giáo ngoại sinh nhưng Phật giáo đã sớm khẳng định mình và tìm được chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần cũng như trong nhiều hoạt động văn hoá xã hội khác của người Việt Nam. Để có thể nhanh chóng xác lập được vị thế của mình trong đời sống xã hội Việt Nam, tất nhiên bên cạnh việc lựa chọn con đường, cách thức truyền bá phù hợp với tâm lý, truyền thống của người Việt thì không thể không nhắc đến nội dung giáo lý của nhà Phật. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả của mình, Phật giáo đã tạo nên sự khác biệt với những hệ tư tưởng cùng thời được người Hán truyền bá vào Việt Nam. Nếu như Nho giáo phải mất một thời gian khá dài khi mà xã hội Việt Nam đã tương đối phát triển mới được trọng dụng thì Phật giáo ngay từ khi du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng hoà mình vào nền văn hoá của người bản địa bằng những câu chuyện thần thoại mang tính nhân văn cao cả (ông Bụt tốt bụng, thương, giúp người lương thiện khi gặp hoàn cảnh khó khăn…). Chúng ta biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ thống thần linh và nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học thuyết triết học tương đối thâm sâu. Trong những tư tưởng triết học đó, ngoài sự lý giải về quan niệm sống của con người thì Phật giáo đã dành rất nhiều nội dung cho những vấn đề liên quan đến con người, đến cuộc đời của con người (nhân sinh quan). Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội và con người Việt Nam đa phần và chủ yếu là những quan niệm xoay quanh vấn đề về con người và cuộc đời con người (nhân sinh quan). 2 Những quan niệm này cùng với thời gian đã không ngừng thấm sâu vào hành vi, lời nói, sinh hoạt hàng ngày của người Việt (những quan niệm về thiện ác, về nhân quả và nghiệp báo, khuyên con người làm lành lánh dữ…). Không những vậy, nó còn ảnh hưởng tới cả những chuẩn mực xã hội được cộng đồng thừa nhận, ảnh hưởng đến pháp luật của nhà nước, ảnh hưởng tới văn học nghệ thuật, tới không gian kiến trúc… của người Việt Nam. Nói cách khác, Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hoá mang đậm bản sắc của người Việt Nam. Trong sự ảnh hưởng của Phật giáo tới văn học nghệ thuật Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du, đó là “Truyện Kiều”. Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có thể thấy rõ sự khủng hoảng của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, thấy được cuộc sống của con người (đặc biệt là những người phụ nữ) bị chà đạp và xâm hại nặng nề. Với Nguyễn Du, đằng sau câu chuyện về cuộc đời của Thuý Kiều là những day dứt, những băn khoăn, những niềm mong ước về một cuộc sống hạnh phúc bình yên của mỗi con người. Có thể cảm nhận được những ảnh hưởng sâu sắc mà Nguyễn Du đã tiếp nhận từ Phật giáo mà cụ thể là nhân sinh quan Phật giáo thông qua khái niệm nhân quả, nghiệp báo, tâm… thể hiện trong cuộc đời của Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh…. Truyện Kiều không chỉ dừng lại là một tác phẩm văn học đơn thuần phản ánh tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX mà những vấn đề do nó đặt ra vẫn không hề lạc hậu đối với xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thị trường đã nảy sinh rất nhiều các vấn đề liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là các vấn đề về đạo đức. Đó là sự thống trị của đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết trong lối sống thực dụng của một số cá nhân. Vì tiền họ sẵn sàng xâm hại các chuẩn 3 mực đạo đức của xã hội, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những hình ảnh Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Khuyển, Ưng… xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội. Sự xuống cấp và băng hoại về đạo đức không chỉ diễn ra trong dân chúng mà còn xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý của nhà nước (giống như hình ảnh những tên quan lại phong kiến đã trực tiếp hoặc gián tiếp đẩy Thúy Kiều và gia đình của mình vào khó khăn hoạn nạn) với tình trạng tham nhũng, cửa quyền và vô cảm trước nhân dân. Trong Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã khẳng định: Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người [21]. Chính vì vậy, việc phân tích và vận dụng tư tưởng tích cực về đạo đức, tôn giáo trong các tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói riêng để khuyến khích con người làm việc thiện, tránh xa việc ác, tự chịu trách nhiệm với những hành vi cá nhân của bản thân… từ đó góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, lành mạnh hơn, hướng con người đến giá trị chân - thiện - mỹ là việc làm hết sức cần thiết. 4 Với tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn như vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Giá trị và hạn chế” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Phân tích nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và những giá trị, hạn chế của nó.. 2.2. Nhiệm vụ - Trình bày cơ sở hình thành cũng như nội dung của nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong quan niệm về nghiệp báo, nhân quả. - Trình bày và chỉ ra nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nghệp báo và nhân quả trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. - Chỉ ra những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: luận án giới hạn việc phân tích nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chỉ trên khía cạnh thuyết nhân quả, nghiệp báo trong “Truyện Kiều”. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại và những giá trị truyền thống của dân tộc. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử - cụ thể, hệ thống hóa, phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê, văn bản học ... 5 Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra thì luận án có sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng chương, mục của luận án, trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. Cụ thể: - Ở mục 1.1 chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu của luận án. - Ở chương 2, tác giả dùng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê để chỉ ra cơ sở hình thành và phát triển của Phật giáo, quan niệm về nghiệp, nhân quả và luân hồi trong nhân sinh quan Phật giáo. - Ở chương 3, tác giả dùng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp văn bản học đối với “Truyện Kiều” và tiểu sử Nguyễn Du cùng các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả trong “Truyện Kiều”. - Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp văn bản học để đưa ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm nhân quả, nghiệp báo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án đã khái quát và hệ thống hóa những nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo gắn với “Truyện Kiều”, cụ thể là những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và sự tiếp biến của chúng ở Phật giáo Việt Nam. - Luận án đã chỉ ra được những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần phát huy những giá trị nhân văn của Phật giáo Việt Nam nói chung, tư tưởng Phật giáo trong văn học, trong “Truyện Kiều” nói riêng. 6 - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những môn học có liên quan đến tư tưởng Triết học (Phật giáo) Việt Nam; tôn giáo (Phật giáo) ở Việt Nam và văn học Việt Nam. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Nhân sinh quan Phật giáo nói chung, quan niệm về nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều” nói riêng là những vấn đề đã và đang được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những mức độ và góc độ khác nhau. Có thể tổng quan thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận án theo những nhóm sau: - Những công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả; - Những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và nhân sinh quan (qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả) của Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới với một hệ thống các tư tưởng triết học đồ sộ. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo nói chung và quan niệm về nghiệp báo, luân hồi và nhân quả nói riêng sau: - Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch) (1999), Đức Phật và Phật pháp, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh [78]. Đại Đức Narada Thera là người Sri Lanka, lúc nhỏ ông theo học ở một trường Thiên chúa giáo (St Benedicts College). Vào năm 18 tuổi, ngài xuất gia và nhập chúng dưới sự dẫn dắt của vị cao tăng Pelene Vajiranyana. Sau đó, ông vào học tại trường Đại học Sri Lanka và về sau được bổ làm giảng sư môn Đạo đức học và Triết học tại trường Đại học này. 8 Đức Phật và Phật pháp là một trong những công trình nổi tiếng của Narada Thera. Công trình này được chia làm hai phần: Phần một, Narada Thera đề cập đến Đức phật - bao gồm cuộc đời của Ngài từ khi Ngài sinh ra cho đến khi Ngài xuất gia tu hành; rồi ngài chiến đấu để thành đạo quả; công cuộc truyền giáo của Đức Phật… trong phần này, Narada Thera cũng nói về mối quan hệ giữa Đức Phật và người thân của mình, những người chống đối Đức Phật và con đường hoằng pháp cũng như cuộc sống hàng ngày của Ngài. Phần hai là Phật Pháp. Trong phần này, Narada Thera đã phân tích và chỉ ra đặc điểm của Phật giáo, nội dung của Tứ diệu đế, quan niệm về nghiệp báo, sự báo ứng, tính chất của nghiệp, thập nhị nhân duyên, những cảnh giới, chuyển nghiệp lên và chuyển nghiệp xuống, Niết bàn và con đường để đạt được Niết bàn… Theo tác giả, những sự chênh lệch về tinh thần, đạo đức, trí tuệ và bẩm tính, một phần lớn đều tùy thuộc nơi hành động và khuynh hướng của chúng ta, trong quá khứ và trong hiện tại, tức là nghiệp vậy [78, tr.305]. Tuy nhiên, dù chủ trương rằng nguyên nhân chính tạo nên những sự chênh lệch trong đời sống là sự khác biệt giữa cái Nghiệp của chúng sinh, nhưng Phật giáo không quả quyết rằng tất cả đều do nơi Nghiệp. Nói một cách khác, Nghiệp không phải là một nguyên do duy nhất tạo nên những sự khác biệt, chênh lệch giữa chúng sinh. Luật nghiệp báo tuy quan trọng nhưng chỉ là một trong thập nhị nhân duyên trong đời sống [78, tr.305-306]. Ông cũng thừa nhận rằng thuyết nghiệp báo khác với thuyết định mệnh, thiên mệnh. Ông viết: “chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp số phận của ta. Chính chúng ta tạo ra ta hay tự tiêu diệt lấy ta, tạo thiên đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta. Những gì mà ta nghĩ, nói, và làm là của ta. Chính tư tưởng, lời nói và hành động là Nghiệp. Và chính nghiệp đưa ta lên hay xuống từ kiếp này sang kiếp kia mãi mãi trong vòng luân hồi [78, tr.352]. 9 - Thích Thiện Siêu, Chữ nghiệp trong đạo Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002 [69]. Theo tác giả, quan niệm về “định mệnh” và “định nghiệp” thường được nêu ra cùng với nhau và có liên quan đến thuyết nhân quả của nhà Phật. “Định mệnh” là một mệnh lệnh thiêng liêng, một sức mạnh vô hình từ đâu không rõ, nó đặt định cho người này thế này, còn người kia thế kia, phải sao chịu vậy, tự mình không thể thay đổi được. Còn “định nghiệp” nhìn bề ngoài cũng tương tự như định mệnh, tức là đã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không có quả, hay có quả mà không bắt nguồn từ nhân sinh ra. Tuy nhiên, luật nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Mặc dù vậy, nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất, nhưng là nguyên nhân chủ yếu của mọi sự sai biệt trên cõi đời này. Nếu đời sống hiện tại hoàn toàn do nghiệp quá khứ của chúng ta quy định chi phối, chúng ta không có chút quyền gì can dự thay đổi thì nghiệp cũng sẽ giống như định mệnh, thiên mệnh, và vấn đề tự do ý chí của con người chỉ còn là hư danh. Đức Phật không bao giờ nói về một chữ nghiệp cố định như vậy. Như vậy, theo tác giả, nếu hiểu chữ nghiệp trong đạo Phật một cách đúng đắn thì “định lý nghiệp” đã không làm cho chúng ta nhụt chí, trái lại, làm cho chúng ta tự tin hy vọng. Chúng ta thực sự chấp nhận trách nhiệm và can đảm nhận lãnh khi bị những sự khó khăn gần như không thể vượt qua nổi, hay sự thử thách không thể kham nổi với ý chí rằng đó là kết quả của những hành động mình đã gây ra hoặc gần hoặc xa, chứ chúng ta không mù quáng để buông xuôi hay chịu đựng. Khi đã biết rõ nó do mình gây ra thì cũng do 10 mình thay đổi chứ không thể cậy ai thay đổi giúp. Khi đó ta sẽ cố gắng lập chí sửa đổi theo ý chí tự do của mình [69, tr.15]. Tất nhiên, chữ nghiệp trong đạo Phật rất sâu rộng và uyên thâm. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về chữ nghiệp, tác giả đã khảo qua chữ nghiệp trong một số Kinh sách như: kinh Pháp cú; Trung bộ kinh, kinh Phân biệt tiểu nghiệp và kinh Phân biệt đại nghiệp; kinh Tăng chi; … Thông qua đó, tác giả đã đi vào làm sáng tỏ nội dung của Nghiệp gồm: thể tính của nghiệp; phân loại nghiệp, nghiệp và luân hồi… - Thích Chân Quang, Luận về nhân quả, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005 [60]. Trong cuốn sách này, tác giả Thích Chân Quang cho rằng đối với đạo Phật, chúng sinh có ba mục đích cần nhắm đến: Một là sống trong luân hồi bớt đau khổ, có phước bão cõi trời cõi người; Hai là thoát khỏi luân hồi, chấm dứt sinh tử, có được niết bàn an vui; Ba là giáo hóa cho chúng sinh cùng được thành tựu trí tuệ giải thoát, gọi là hạnh đạo Bồ tát [60, tr.12]. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được những mục đích đó, đòi hỏi chúng sinh phải biết nhân quả, biết nhân nào sẽ gặt được quả nào. Lý thuyết nhân quả là một trong những nền tảng của đạo Phật. Nếu chưa hiểu biết thâm sâu về lý nhân quả tức là chưa hiểu đạo Phật và chưa thực hành đúng đạo Phật. Cuốn sách được chia làm hai phần. Phần đầu tác giả đi vào lý giải cách hiểu và môi trường của nhân quả. Phần hai là một số trường hợp điển hình về nhân quả gồm: nhân quả thế gian, nhân quả xuất thế gian, nhân quả Bồ tát. Theo tác giả, nếu chúng ta nhận thức được lý thuyết nhân quả thì sẽ giúp chúng ta làm chủ được cuộc đời của bản thân mình, sẽ đưa cuộc đời chúng ta theo ý muốn của chúng ta chứ không phải là một vị thần linh, thượng đế nào đó quyết định [60, tr.366]. Điều này có giá trị không chỉ trong đạo Phật mà còn cho cả ngoài đời thường. - D. J. Kalupahana (Đồng Loại, Trần Nguyên Trung dịch) Nhân quả triết lý trung tâm Phật giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2007 [39]. 11 Nội dung chủ yếu của tác phẩm là phân tích bản chất của thuyết nhân quả Phật giáo được trình bày trong nền văn học cổ điển Pali và kinh điển A Hàm cũng như những trường phái triết học Phật giáo như Trung quán luận và Duy thức tông. Tác giả đã vận dụng phương pháp phân tích, so sánh những điểm tương đồng và dị biệt giữa các học thuyết Phật giáo và các triết học Ấn Độ cổ đại trong kinh Vê-đa và Upanisad, cũng như các học thuyết định mệnh của trường phái phi Vê-đa mà điển hình là phái Kỳ na giáo (Jainism). Thông qua đó, làm nổi bật điểm đặc sắc của nhân quả Phật giáo về phương diện trách nhiệm và giá trị đạo đức trong bối cảnh đời sống xã hội hiện tại và tương lai. Vì vậy, tác giả đã chia công trình của mình thành 9 chương gồm: Chương 1: Những thuyết nhân quả trước Phật giáo (theo truyền thống của kinh Vê-đa - phái chính thống); Chương 2: Những thuyết nhân quả trước Phật giáo (theo truyền thống không Vê-đa - phái phi chính thống); Chương 3: Làm sáng tỏ một số thuật ngữ liên quan đến thuyết nhân quả; Chương 4: Quan niệm về pháp; Chương 5: Nguyên lý và hiệu lực nhân quả; Chương 6: Giải thích hiện hữu bằng nhân quả; Chương 7: Các phát triển về sau; Chương 8: Duyên: một mặt khác của phát triển; và Chương 9: Kết luận. Nhìn chung, công trình đã cho thấy các học thuyết nhân quả tiền Phật giáo dù rất đa dạng nhưng có thể được chia làm ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất chủ trương “tự nhân quả”, cho rằng Phạm Thiên (Brahman) là nguyên nhân đầu tiên của mọi nguyên nhân, nguyên nhân do ta tự tạo, vượt khỏi tính tương thuộc của mọi sự vật hiện tượng. Như một kết quả kéo theo tất yếu, ai chủ trương có một thượng đế tự nhân quả sẽ chấp nhận học thuyết “tha nhân quả”. Tha nhân quả là khái niệm chỉ cho tất cả mọi tạo thành vốn là tất cả mọi sự vật hiện tượng, bao gồm cả thời gian và không gian, đều là vật thu tạo của thượng đế dưới hình thái tự 12 nhân quả. Hậu quả tiêu cực của học thuyết tha nhân quả là người chủ trương sẽ dễ dàng chấp nhận học thuyết định mệnh, bản tính không dời, hành động cũng như mọi diễn tiến của con người trong thực tại đã được sắp xếp từ trước và không thể thay đổi được. Trái ngược với Tự và tha nhân quả là nhóm thứ hai với quan niệm về Không tự và không tha nhân quả, là học thuyết phủ nhận các hình thức nhân quả, chủ trương thuyết bất định hoặc ngẫu nhiên luận. Tác giả khẳng định, thuyết nhân quả của Phật giáo (thứ ba) không giống với hai thuyết trên. Bản chất của mọi sự vật theo Phật giáo không thể tự có mặt vô nhân, càng không thể là thụ tạo của một cái khác. Tất cả là tập hợp của nhân và duyên, tồn tại, phát triển và hoại diệt để tạo thành cái khác bằng một chuỗi tương thuộc của các nguyên nhân [39, tr.VIII]. Ngoài ra còn một số các công trình khác (sách tham khảo, bài đăng trên các tạp chí khoa học…) cũng ít nhiều đề cập đến nhân sinh quan Phật giáo nói chung, quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và luân hồi nói riêng như: Diệu Thanh Đỗ Thị Bình, Đôi điều luận về nhân quả - nghiệp báo, 2009, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 4, tr.40-41. Lưu Thị Quyết Thắng, Thử bàn về nhân sinh quan Phật giáo qua giáo lý duyên khởi, Tạp chí nghiên cứu Phật học, 2004, Số 5, Tr. 6-10. Mộng Đắc, Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, 2009, số 4 (70), tr 71 - 74. Văn Xương Đế Quân (Quảng Tráng lược dịch), Nhân quả báo ứng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2011. Thích Đạt Ma Phổ Giác, Nhân quả & số phận con người, Nxb Hồng Đức, 2013, Hà Nội. Thích Thiện Hoa, Xây dựng đời sống trên nền nhân quả, nghiệp và luân hồi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007. Thích Giác Nghiên (s.t) Nhân quả luân hồi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2009. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không) (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 13 Thông qua những công trình này, tác giả luận án đã bước đầu nhận diện được khái niệm, nội dung, phân loại và tính chất của các quan niệm về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi của Phật giáo. Đó chính là cơ sở để tác giả luận án khai thác và triển khai vào luận án triết học của mình trong chương 2: Nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nhân quả, nghiệp báo. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du “Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học được Nguyễn Du viết vào khoảng những năm đầu của thế kỷ XIX. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” của ông. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: - Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Hội văn hoá Việt Nam, 1949 [73]. Theo Hoài Thanh, lý do để ông phải viết cuốn sách này bởi vì trong một xã hội mới, chúng ta cần phải kiểm điểm lại những giá trị cũ xem cái nào cần giữ lại, cái nào cần vứt bỏ và cái nào thì để xem xét tiếp… Và một trong những giá trị cũ cần phải kiểm điểm lại đó là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Với hơn một trăm năm kể từ khi ra đời cho đến nay, “Truyện Kiều” vẫn tiếp tục được khẳng định và biết đến trong lòng người dân Việt Nam không chỉ là học Kiều, thuộc Kiều, ngâm Kiều mà cả bói Kiều. Nhưng “Truyện Kiều” được hoan nghênh nhiều mà cũng bị bài xích nhiều. Số phận “Truyện Kiều” cũng long đong như số phận nàng Kiều. Kể từ khi nó ra đời, nó chưa bao giờ được ngồi một chỗ yên ổn. Người khen khen rất mực, người chê chê cũng hết lời. Vì vậy, cần phải có một sự nhìn nhận cho đúng, cho đủ để trả “Truyện Kiều” về đúng chân giá trị của nó [73, tr.2]. 14 Tuy nhiên, tác giả cũng tự nhận thấy rằng mình không có tham vọng xem xét tác phẩm này về tất cả mọi phương diện mà chỉ xét riêng về một vấn đề căn bản - đó là quyền sống của con người mà thôi. Để có thể biết thái độ của Nguyễn Du về vấn đề quyền sống của con người trong “Truyện Kiều”, Hoài Thanh đã đi sâu phân tích hai nhân vật là Thúy Kiều và Từ Hải. Với Thúy Kiều, tác giả nhận xét: “Khi tạo ra nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp và có lẽ cũng là vô tình đòi quyền sống cho con người trong xã hội phong kiến. Nhưng Nguyễn Du thiếu một ý thức rõ rệt, một ý chí cương quyết. Nguyễn Du đã không dám theo cho đến cùng cái khuynh hướng phản phong. Nguyễn Du đã nửa đường lùi bước [73, tr.22]. Với Từ Hải, Nguyễn Du cũng thể hiện giống như Thúy Kiều, có khác chăng là ở nhân vật Từ Hải, lòng khao khát của Nguyễn Du muốn sống mạnh mẽ, sống say mê ở ngoài khuôn khổ của xã hội bấy giờ, ta thấy tha thiết hơn sự hoang mang, luẩn quẩn và thậm chí là bế tắc trong tâm trí của Nguyễn Du [73, tr.34]. Ngoài việc phân tích hai nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải, tác giả Hoài Thanh cũng đi vào phân tích xã hội phong kiến trong “Truyện Kiều” để có thể thấy được thái độ, cách nhìn nhận của Nguyễn Du đối với xã hội phong kiến thời đại ông đang sống. Theo đó, đứng trước xã hội phong kiến, Nguyễn Du đã thể hiện một thái độ không minh bạch, không dứt khoát vì đầy những mâu thuẫn. Nguyễn Du đã dựng lên hình ảnh của một xã hội mục nát đến tận xương. Nguyễn Du thông cảm với nỗi khổ vô cùng của con người bị chà đạp trong cái cái xã hội mục nát ấy. Nguyễn Du mơ ước được sống mạnh mẽ, sống phóng túng, được đập phá tan tành như Từ Hải, nhưng Nguyễn Du không biết đập phá như thế để rồi đi đến đâu. Cái trạng thái nhất thời, Nguyễn Du tin là vĩnh viễn. Nguyễn Du quy tội cho số mệnh, cho trời. Trong ý Nguyễn Du, có đập phá cho lắm thì rồi đâu cũng hoàn đó. Trời đã định thế, số mệnh đã định thế. Cho nên Nguyễn Du cố tiêu diệt cái mộng Từ Hải ở trong 15 mình để sống cuộc sống tầm thường của những người Nguyễn Du cho là lương thiện. Nguyễn Du cố cắt xén con người mình cho vừa kích tấc của lối sống tầm thường nhưng cắt xén mãi mà vẫn không vừa. Lối sống mà Nguyễn Du cố khép mình vào, trong tâm trí Nguyễn Du, dười ngòi bút Nguyễn Du, vẫn hiện ra với một khuôn khổ nhỏ nhen với những màu buồn tẻ [73, tr.51]. - Trương Tửu, Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (Phê bình văn học), Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1956 [105]. Cuốn sách được chia làm ba phần gồm: Phần thứ nhất đề cập đến lịch sử nghiên cứu vấn đề “Truyện Kiều” (chương 1); Phần thứ hai đề cập đến tính chất chống phong kiến của “Truyện Kiều” (chương 2) và phần thứ ba đề cập đến thời đại Nguyễn Du và nội dung tư tưởng “Truyện Kiều” (chương 3, chương 4). Thông qua những nội dung được trình bày, tác giả Trương Tửu muốn nhấn mạnh rằng toàn bộ đời sống ý thức của Nguyễn Du hình thành song song với toàn bộ quá trình thành bại của phong trào Tây Sơn. Nguyễn Du là một nghệ sĩ vĩ đại, vì vậy, không có lý gì mà Nguyễn Du lại không phản ánh được trong tác phẩm một vài cục diện cốt yếu của phong trào Tây Sơn, mặc dầu thi sĩ đã quay lưng lại với nó [105, tr.8]. Tác giả Trương Tửu cho rằng “Truyện Kiều” là một tác phẩm văn học cổ điển tiêu biểu của văn hóa Việt Nam vì bốn lý do: Thứ nhất, vì “Truyện Kiều” là một tác phẩm dân tộc. Thông qua “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã nói lên được tinh thần nhân đạo chủ nghĩa bất diệt của nhân dân Việt Nam. Ông đã đứng về phía các tầng lớp xã hội bị áp bức đang vươn đến sự giải phóng; đề cao những tinh thần quý giá nhất của con người như tự do, công bằng, nhân đạo. Ông cũng lên án kịch liệt một chế độ bóc lột đè nén con người và tiêu diệt tài tình, nhân đạo, công bằng và tự do. Nói cách khác, Nguyễn Du đã đập vỡ cái mặt nạ mỹ miều, siêu hình che giấu một chân tướng hung ác, tội lỗi của bọn “phụ mẫu chi dân”, của lũ con buôn, bịp bợm, của trời, Phật, của số mệnh, của ông 16 Tơ bà Nguyệt - của toàn bộ bè lũ thống trị bóc lột và áp bức trong xã hội phong kiến. Tiếng nói của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là tiếng nói của chính nghĩa, của dân tộc Việt Nam nhân đạo và dũng cảm [105, tr.206]. Thứ hai vì “Truyện Kiều” có tính đại chúng. “Truyện Kiều” đã được sáng tạo theo lập trường và nhãn quan của quảng đại nhân dân đang tiến lên con đường giải phóng. Tác giả cho rằng, với nhãn quan thiên tài, Nguyễn Du đã nhìn thực tại xã hội theo con mắt của quần chúng, đánh giá mọi người, mọi quan điểm theo con mắt của quần chúng - đó chính là hành động chống phong kiến để giải phóng những lực lượng sản xuất của dân tộc đang bị kìm hãm, đem lại tự do, hạnh phúc và bình đẳng cho những con người đang quằn quại trong sự áp bức của xã hội phong kiến đương thời [105, tr.206]. Thứ ba vì “Truyện Kiều” đạt tới một nghệ thuật tính cao độ. Trong “Truyện Kiều”, cách sáng tạo và kết cấu những nhân vật, cách xây dựng những hình ảnh, cách miêu tả những cảnh vật vừa có tính cách tạo hình vừa súc tích tình cảm, cách vận dụng âm thanh của ngôn ngữ và nhịp điệu của lời nói, cách phô diễn trong sáng, gọn gàng, điều độ và chính xác, cách Việt hóa những điển tích mượn của nước ngoài… đều đã chứng tỏ rằng Nguyễn Du am hiểu đến ngọn ngành lối cảm nghĩ, phô diễn của nhân dân còn lưu lại trong kho tàng văn thơ truyền khẩu [105, tr.210]. Thứ tư vì “Truyện Kiều” còn có tác dụng tốt trong hiện tại. Ngày nay, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” bổ ích của đại chúng. Đọc “Truyện Kiều”, chúng ta vẫn học tập được lòng căm thù của Nguyễn Du đối với những chế độ xã hội bóc lột và đè nén con người. Nhà thơ vẫn truyền được cho chúng ta lòng khao khát, thiết tha tự do, công bằng và nhân đạo [105, tr.212]. Tóm lại, theo tác giả, với bốn yếu tố trên, “Truyện Kiều” thật xứng đáng được mệnh danh là một tác phẩm cổ điển tiêu biểu của văn học Việt Nam. Nó kết tinh được truyền thống văn học tiến bộ của dân tộc đã được biểu hiện 17 trong văn chương truyền khẩu của nhân dân. Nó tập hợp một cách có sáng tạo tất cả những nét tinh hoa của các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam xuất hiện trước đó [105, tr.213]. - Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003 [58]. Đây là công trình tiêu biểu của GS. Phan Ngọc nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Với những giá trị khoa học mà nó đem lại, công trình của ông đã được tặng giải thưởng nhà nước về văn hóa Việt Nam năm 2000. Trong công trình này, Phan Ngọc đã cố gắng làm rõ và chỉ ra phong cách riêng có hoàn toàn của Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều”. Ông viết: “Trong việc nghiên cứu Nguyễn Du chúng ta đã đạt được nhiều thành tích. Đặc biệt trong các công trình nghiên cứu “Truyện Kiều”, có một số thuộc loại xuất sắc đã nghiên cứu công phu về các mặt tư tưởng, ngôn ngữ, nghệ thuật của tác giả, và đã đóng góp phần tích cực vào lý luận phê bình của chúng ta. Song riêng mặt phong cách của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”, tuy đã có những bài viết đáng chú ý đề cập đến một vài đặc điểm của phong cách nhà thơ, nhưng nhìn chung chưa có một công trình ngôn ngữ học về toàn bộ phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” [58, tr.5]. Và vì vậy, theo ông, muốn nghiên cứu phong cách Nguyễn Du phải làm nhiều việc. Thứ nhất, phải xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học. Thứ hai, phải tìm ra được những đặc điểm tiêu biểu của thiên tài Nguyễn Du về mặt nội dung không lặp lại ở người khác. Thứ ba, tiếp cận tác phẩm một cách hình thức và chứng minh chính hình thức tác giả lựa chọn là thích hợp nhất để diễn đạt nội dung này [58, tr.7]. Trên cơ sở đó, tác giả Phan Ngọc đã chia công trình của mình thành chín nội dung chính gồm: Chung quanh vấn đề tư tưởng của “Truyện Kiều”; Phương pháp tự sự của Nguyễn Du; “Truyện Kiều”, tiểu thuyết phân tích tâm lý; Một vài vấn đề nhận thức luận chung quanh “Truyện Kiều”; Cách bố cục “Truyện
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất