Nguyễn Văn Sửu, Nguyễn Văn Huy,
Lâm Bá Nam, Virong Xuân Tình
(Đồng chủ biên)
NHÂN HỌC
Ở VIỆTNÃ m
Một SỐ Vấn đề lịch sử,
nghiên cứu và đào tạo
Nguyễn Văn Sửu, Nguyễn Văn Huy,
Lâm Bá Nam, Vương Xuân Tình
(Đồng chủ biên)
VNu
/- ừ
A
§ Bỏ MÔN NHẢN HOC t ])
HỌC
NHÂN HỌC ở VIỆT NAM
■
■
M ột số vấn đẻ lịch sử, nghiên cúu và đào tạo
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
NHÂN HỌC Ở VIỆT NAM I I Nguyễn Vãn Sửu, Nguyễn Văn Huy, Lâm Bá Nam, Vương
Xuân Tình (Đồng chủ biên)
© 2016 ông Nguyễn Vãn Sửu và các tác giả. Nhà xuất bản xuất bản theo giấy chấp nhận xuất
bản của ông Nguyễn Văn Sửu và các tác giả.
Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phân phối dưới
dạng in ấn hoặc vãn bản điện tử mà không có sự cho phép của N XB Tri thức là vi phạm luật
pháp.
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
9
Lương Văn Hy
Nhân học: Lịch sử, nghiên cứu về Việt Nam, và đào tạo
11
Phần I
Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Đức Từ Chỉ
trong nhân học Việt Nam
Phạm Khiêm ích
Góp phần nghiên cứu nhân học ở Việt Nam trong
bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế
37
Olivier Tessier
Những bước đi đầu tiên của dân tộc học ở Việt Nam: Vai trò thúc đẩy
của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp trong nửa đầu thế kỷ 2 0
51
Ngô Đức Thịnh
Nguyễn Văn Huyên và nghiên cứu văn hóa Việt Nam
73
Đỗ Lai Thúy
Nhân học văn hóa - Nhìn lại Nguyễn Văn Huyên
và từ Nguyễn Văn Huyên nhìn lại
81
Đinh Hồng Hải
Tri thức bác học của Nguyên Văn Huyên:
D ấn liệu từ Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam
89
5
NHẢN HỌC Ớ VIỆT NAM
Nguyễn Phương Ngọc
Nguyễn Văn Huyên với việc tổ chức nghiên cứu
101
và đào tạo nhân học (1 9 3 8 -1 9 4 5 )
Nguyễn Mạnh nến
Trí thức Việt Nam đầu thế kỷ 20: Trường hợp Nguyễn Văn Huyên
123
đối diện với sự kiện H át đ ối đáp
Bùi Xuân Đính
Từ Chi và nghiên cứu về làng xã - Những điều ông dạy học trò
143
Nguyễn Duy Thiệu
Từ Chi vói trường phái dân tộc học đề cao nghiên cứu thực địa
155
Lê Hồng Lý
Nhà dân tộc học Từ Chi và cách ông dạy học trò
173
Trần Hữu Sơn
Cá tính Từ Chi trong ứng xử với nghề dân tộc học
183
Phạm Văn Dương
Tiếp cận nhân học trong trưng bày "Từ Chi - Nhà Dân tộc học"
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
195
Phần II
Một SỔ Vấn đé nghiên cứu
Kato Atsufumi
Những đặc điểm của nhân học về Việt Nam ở Nhật Bản
211
Nguyễn Thu Hương
Nhồn học về giới ồ Việt Nam từ khi Đổi mới
227
Phan Phương Anh
Nhân học chữ viết: Lịch sử, cách tiếp cận và triển vọng ở Việt Nam
243
Nguyễn Cống Thảo
Nhân học sinh thái ở Việt Nam: Hai giai đoạn, một con đường
6
263
Nhân học: Lịch sử, nghiên cứu về Việt Nam, và đào tạo
Lý Hành Sơn
Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
285
Nguyễn Ngọc Thanh
Quy ước sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên
của người Dao ở Việt Nam
303
Sarah Turner vầ Jean M ichaud
Sinh kế nơi biên cương:
Sự thích ứng của người Hmông ở vùng biên giói Việt - Trung
315
Nguyễn Thị Thanh Bình
Một số vấn đề trong
nghiên cứu hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam
335
Đinh Thị Thanh Huyền
Sáng tạo lại truyền thống và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam:
Trường hợp Quan họ Bắc Ninh
357
Phạm Văn Lợi
Một số vấn đề trong nghiên cứu về nhà ở
của các tộc người ở Việt Nam
375
Phần III
Đầo tạo vầ giảng dạy nhân học: Thực tiẻn vầ gợi mở
Vưong Xuân Tình
Một số đổi mới theo hướng ngành nhân học
ở Viện Dân tộc học (2 0 0 0 - 2015)
385
Nguyễn Văn Sửu
Vấn đề tộc người trong định hướng phát triển của
Khoa Nhân học ở Đại học Quốc gia Hà Nội
397
Huỳnh Ngọc Thu
Một số vấn đề về đào tạo đại học ngành nhân học ở
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
409
7
Nguyễn Trường Giang, Thạch Mai Hoầng, Lương Thị Minh Ngọc
Một số gợi ý giảng dạy học phần Nhân học đại cương
419
Nguyễn Vãn Tiệp
Nhân học ứng dụng và việc giảng dạy,
nghiên cứu nhân học ứng dụng ở Việt Nam
431
Ngố Thị Phương Lan
Hội nhập quốc tế và tính địa phương trong giảng dạy
Nhân học kinh tế ở Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
8
443
LỜI CẢM ƠN
Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, trên nền tảng của
chuyên ngành dân tộc học có bề dày truyền thống nghiên cứu, đào tạo
và ứng dụng chính sách, một ngành nhân học ở Việt Nam đã thành
hình và đang không ngừng phát triển, thể hiện rõ là một ngành khoa
học nhân học mang bản sắc Việt Nam song cũng chia sẻ nhiều nét tương
đồng với các truyền thống nhân học ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành công, đóng góp và vận hội mới, nền nhân
học đương đại ở Việt Nam còn đối diện một số thách thức ữong thực
tiễn nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng, đòi hỏi có sự nỗ lực và cộng tác
của toàn ngành để tìm ra các giải pháp hiệu quả đưa ngành nhân học
tiếp tục phát triển và có đóng góp hiệu quả hơn cho xã hội và đất nước.
Trong khuôn khổ một dự án tài trợ của Quỹ Wenner-Gren của Hoa
Kỳ, tháng 9 năm 2015, Khoa Nhân học (Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với Hội Dân tộc học và
Nhân học Việt Nam, Viện Dân tộc học, Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên tổ
chức hội thảo khoa học quốc tế Nhân học ở Việt Nam: Lịch sử, hiện
trạng và triển vọng. Trong không khí chào mừng sự ra đời của Khoa
Nhân học ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội, hội thảo này đã đón nhận sự tham gia có hiệu quả của
đông đảo các nhà khoa học từ các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và thực
hành nhân học, dân tộc học và các ngành khoa học xã hội khác ở Nhật
Bản, Canada, Pháp và Việt Nam.
Hội thảo tập trung vào ba nội dung then chốt của nhân học ở Việt
Nam: (i) xác định rõ vị trí, vai ữò và những đóng góp của Nguyễn Văn
9
NHÂN HỌC Ớ VIỆT NAM
Huyên và Nguyễn Đức Từ Chi, hai nhà nhân học lỗi lạc, đầu đàn, đầu
ngành đối với nhân học Việt Nam; (ii) đánh giá hiện trạng và chia sẻ kết
quả nghiên cứu; và (iii) trao đổi về công tác đào tạo và giảng dạy nhân
học, qua đó nhận diện các khó khăn và thách thức, bàn thảo các giải
pháp quảng bá, nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng đáp ứng tốt
hơn nhu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.
Từ kết quả hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Văn Huy, PGS.TS. Lâm Bá
Nam, PGS.TS. Vương Xuân Tình và PGS.TS. Nguyễn Văn Sửu thẩm
định các báo cáo để lựa chọn, biên tập, xuất bản thành cuốn sách các bạn
đang cầm tay. Thẩm định, lựa chọn và biên tập các bài viết cho cuốn
sách này là một công việc đầy thách thức, khi từ hơn 50 bài viết được
chọn trong tổng số 95 báo cáo hội thảo, chúng tôi chỉ có thể in những bài
phù hợp và đáp ứng tốt nhất mục tiêu của cuốn sách, vì thế có một số
bài viết chưa được in ữong cuốn sách này bởi những lý do khác nhau.
Nhân dịp cuốn sách này ra mắt bạn đọc, thay mặt cho Khoa Nhân
học, tôi xin cảm ơn các cơ quan, các nhà khoa học và đồng nghiệp đã cổ
vũ, khích lệ, đóng góp và đồng hành cùng chúng tôi để cuốn sách này
có thể đến tay bạn đọc. Cảm ơn Wenner-Gren Foundation đã hỗ trợ,
giúp chúng tôi biến ý tưởng thành hiện thực. Cuốn sách này không chỉ
là sản phẩm của một hội thảo, mà quan trọng hơn, đó là sự kết tinh của
tình thần nhân học, sự cộng tác của các đơn vị và cá nhân các nhà khoa
học nhân học ở Việt Nam với sự ủng hộ của đồng nghiệp và bạn bè quốc
tế vì một ngành nhân học đang lên ở Việt Nam.
Xin ữân ừọng cảm ơn!
Nguyễn Văn Sửu
10
Nhân học: Lịch sử,
•
•
7
nghiên cứu về Việt Nam, và đào tạo
Lương Văn Hy
Đại học Toronto, Canada
Lịch sử
•
Những bài trong phần 1 của tuyển tập này đã làm rõ bối cảnh ra
đời của dân tộc học Việt Nam dưới ảnh hưởng của dân tộc học Pháp.
Như Olivier Tessier đã trình bày (bài trong tuyển tập này), những
nghiên cứu của Trường Viễn Đông bác cổ (École Francaise cTExtrêmeOrient) từ đầu thế kỷ 20 đã có những đóng góp quan trọng trong việc
xây dựng nền tảng cho sự hình thành của ngành dân học học và nhân
học ở Việt Nam và về Việt Nam. Những nghiên cứu này không chỉ về
văn hóa và phong tục tập quán, mà còn về ngôn ngữ, khảo cổ, lịch sử,
và thể dạng con người. Một số bài ở phần 1 trong tuyển tập này cũng
đã làm rõ những nghiên cứu khoa học rất phong phú của GS. Nguyễn
Văn Huyên đã đóng góp quan trọng như thế nào trong việc xây dựng
bước đầu cho m ột nền dân tộc học của các học giả Việt Nam tại Việt
Nam. Nền dân tộc học chịu ảnh hưởng của Pháp này được tiếp nối
sau khi chế độ Pháp thuộc đã cáo chung, cả ở miền Nam trong thời kỳ
1954-1975, cũng như qua những công trình nghiên cứu và hoạt động
đào tạo của PGS. Từ Chi và môn sinh, ở miền Bắc trong giai đoạn này
và ở một nước Việt Nam thống nhất sau năm 1975. Ảnh hưởng của
dân tộc học Pháp rất nặng trong thời kỳ từ 1954 đến 1975 tại miền
11
NHÂN HỌC Ở VIỆT NAM
Nam vì các nhà dân tộc học Việt Nam ở miền Nam đều được đào tạo ở
Pháp. Tuy vài nhà nhân học Mỹ như Gerald Hickey, John D onoghue,
có đi thực địa tại miền Nam và xuất bản một số công trình khảo tả vẫn
được tham khảo cho tới ngày nay (nhất là những sách của Hickey,
Hickey 1964, 1982, 1993), nhưng nhân học Mỹ không có ảnh hưởng gì
đến dân tộc học tại miền Nam vào thời kỳ này. Còn ở miền Bắc, như
một số học giả đã nhận xét, PGS. Từ Chi đã sử dụng phương pháp
quan sát tham dự rất bài bản nhờ nắm vững được ngôn ngữ của cộng
đồng mình nghiên cứu (tiếng Mường), và có những công trình nghiên
cứu sâu, có giá trị lâu dài về người Mường. Cùng với một số m ôn sinh,
ông cũng đã nghiên cứu tương quan giữa môi trường và tổ chức xã hội
nông thôn ở Bắc Bộ. N hưng PGS. Từ Chi, dưới ảnh hưởng của dân tộc
học Pháp, ở ngoại vi của dân tộc học ở miền Bắc trong giai đoạn 19541975 và ở một nước Việt Nam thống nhất (Trương Huyền Chi 2014,
Trần Hữu Sơn trong tuyển tập này) vì dân tộc học ở miền Bắc và ở
một nước Việt Nam thống nhất chịu ảnh hưởng nặng của dân tộc học
Liên Xô, với lý thuyết tiến hóa, với quan tâm về những vấn đề như
phân định các dân tộc và cách phân định, quan hệ dân tộc, và chính
sách dân tộc. Tuyển tập này không tập trung phân tích một cách có hệ
thống truyền thống nghiên cứu của dân tộc học Việt Nam dưới ảnh
hưởng của dân tộc học Liên Xô, dù rằng chúng ta có thoáng thấy đâu
đó dấu vết của truyền thống này ữong một số bài ở phần 2. Sự thiếu
vắng này có thể là vì gần đây đã có một số bài tổng luận về nghiên cứu
dân tộc học Việt Nam về chủ đề tộc người được đăng ở nơi khác
(Vương Xuân Tình 2013 và 2014, so sánh với Evans 1985, Keyes 2002,
và Taylor 2011).
Tôi nghĩ là chúng ta cần nhìn sự ra đời và phát triển của dân tộc học
Việt Nam trong thế kỷ 20 dưới ảnh hưởng của dân tộc học Pháp và dân
tộc học Liên Xô trong bối cảnh của ngành dân tộc học và nhân học thế
giới nói chung.
Từ góc độ lịch sử học thuật, ở Pháp, mãi đến 1925 dân tộc học mới
được thể chế hóa ở Pháp khi Institut cTEthnologie được thành lập tại Đại
12
Nhân học: Lịch sử, nghiên cứu về Việt Nam, và đào tạo
học Paris.1 Nhưng trong môi trường học thuật Anh ngữ, dân tộc
học/nhân học đã được thể chế hóa và phát triển sớm hơn khá nhiều, và
cụm từ "nhân học" được sử dụng phổ biến từ sớm để đề cập đến những
nghiên cứu về văn hóa xã hội và hành vi của con người. Trong môi
trường học thuật Anh ngữ, lý thuyết và phương pháp dân tộc học và
nhân học không chỉ có một số nét tương đồng, nhưng củng có một số
khác biệt không nhỏ, với dân tộc học Pháp hay Liên Xô.
Tại Anh quốc, Hội Dân tộc học London (Ethnological Sodety of
London) ra đời vào năm 1844. Trong thập kỷ 1860, tổ chức này tồn tại
song song với Hội Nhân học (Anthropological Society), và năm 1871, cả
hai tổ chức sáp nhập thành Anthropological Institute of Great Britain and
Ireland. Nhà nhân học Edvvard Tylor, nổi tiếng với những nghiên cứu về
tôn giáo tín ngưỡng, được bổ nhiệm làm giảng viên nhân học ở Đại học
Oxíord từ năm 1884 và Giáo sư nhân học ở đây vào năm 1896 (xem thêm
Stocking 1971 và Stocking 1987, Barth 2005: 4-10). Tại Mỹ, Hội Dân tộc
học Mỹ (American Ethnological Society) được thành lập vào năm 1842.
1 Trong thế kỷ 19, ở Pháp, nhân học (anthropologie) được thể chế hóa, nhưng đây là
nhân học hình thể, gắn liền với sinh học. Cụ thể hơn, Paul Broca, m ột giáo sư y học
và nhân học hình thể nổi tiếng qua những công trình về não của ông, thành lập hội
Société cTAnthropologie de Paris vào năm 1859, ra đời tạp chí La revue d'anthropologie
vào năm 1872, và đồng sáng lập trường N hân học Paris (École cTanthropologie de
Paris) vào năm 1875. GS. Broca sáng lập trường N hân học Paris cùng với Jean Louis
A rm and de Q uatreíages, Giáo sư nhân học và dân tộc chí (ethnographie) tại Bảo
tàn g quốc gia lịch sử tự nhiên (Muséum national d'histoừe naturelle) ờ Paris. Tuy
chứ c vụ của Armand de Q uatreíages có cụm từ dân tộc chí, nhưng ông chỉ nghiên
cứu về khía cạnh sinh học của con người. Ở Pháp, ữ o n g thế kỷ 19, củng có Bảo tàng
dân tộc học (Musée d'Ethnographie) được thành lập năm 1878 ở Paris, nhưng bảo
tàn g này tập trung thời kỳ đầu vào những hiện vật khảo cổ. Trong bối cảnh này,
việc thành lập Institut d'Ethnologie ở Đại học Paris vào năm 1925 là m ột dấu m ốc
quan trọng của tiến trình thể chế hóa ngành dân tộc học ở Pháp (Parkin 2005). Có lẽ
vì cách tổ chức hệ thống đại học ở Việt N am củng như ảnh hưởng của học thuật
Pháp, nên đến đầu thế kỷ 21, ở các đại học ở Việt N am , nhân học hình thể vẫn được
d ạy ở Đại học Y, và phân ngành dân tộc học hay n h ân học văn hóa-xã hội được dạy
chính là ở Đại học Khoa học xã hội và nhân vãn.
13
NHÂN HỌC Ở VIỆT NAM
Cục Dân tộc học [bản địa] Mỹ (Bureau of American Ethnology), một cơ
quan của chính phủ Mỹ, được thành lập năm 1879, cùng thời điểm với
Hiệp
hội
Nhân
học
YVashington
(Anthropological
Society
of
YVashington).2 Hội Nhân học YVashington xuất bản tạp chí American
Anthropologist vào năm 1889 (Silverman 2005: 260). Tạp chí này trở thành
tạp chí của Hội Nhân học Mỹ (American Anthropological Association)
thành lập năm 1902 và là tạp chí uy tín nhất của nhân học Mỹ cho đến
ngày nay. Đại học Chicago thành lập Khoa Xã hội học và Nhân học
(Department of Sociology and Anthropology) từ năm 1892. Đại học
Columbia đã mời Franz Boas về giảng dạy vào năm 1896, và tạo điều kiện
để ông xây dựng chương trình đào tạo bậc tiến sĩ về nhân học độc lập với
các khoa học xã hội khác ngay vào thời điểm đó. Nhà nhân học Mỹ nổi
tiếng Alíred Kroeber nhận bằng tiến sĩ nhân học ở Đại học Columbia vào
năm 1901. Các Khoa Nhân học (Departments of Anthropology) được
thành lập ở không ít đại học lớn ở Bắc Mỹ trong những thập kỷ đầu của
thế kỷ 20. Với những nhà nhân học ngày càng nhiều, Hội Nhân học Mỹ
được thành lập vào năm 1902, cùng tồn tại song song với Hội Dân tộc học
Mỹ. Sự khác biệt giữa hai hội này là Hội Nhân học Mỹ là một tổ chức cho
một ngành nhân học phạm vi rộng, cố gắng tổng hợp, dưới ảnh hưởng
của Boas, nhân học hình thể (physical anthropology), khảo cổ học, nhân
học ngôn ngữ, cũng như nhân học văn hóa. Trong học thuật Bắc Mỹ, từ
Ethnology (dân tộc học) phản ảnh tình hình của thế kỷ 19, được thay dần
bằng cụm từ nhân học văn hóa (cultural anthropology), và ngày nay còn
được sót lại như là một di sản lịch sử.3 Trong bối cảnh này, thì trong học
thuật Mỹ nói riêng và trong học thuật quốc tế nói chung, dân tộc
học/nhân học như là m ột ngành học đi vào thể chế văn hóa xã hội và
2 Năm 1965, Cục này được sáp nhập vào Bảo tàng Smithsonian.
3 Hiện nay, Hội Dân tộc học M ỹ là m ột hội thành viên của Hội N hân học M ỹ. Ở Mỹ
vẫn còn hai tạp chí có từ "ethnology/ethnologist" trong tên gọi, American Ethnoỉogist
(tạp chí của Hội Dân tộc học M ỹ, bắt đầu năm 1972) và Eihnoỉogy (bắt đầu năm
1962), nhưng đây chi là hai tro n g số lượng lớn tạp chí trong p h ân ngành nhân học
văn hóa tại Mỹ.
14
Nhân học: Lịch sử, nghiên cứu về Việt Nam, và đào tạo
hanh vi của con người đã được thể chế hóa từ thế kỷ 19, và chúng ta
không thể nói là nhân học ra đời sau xã hội học.
Franz Boas đã đặt nền tảng cho sự ra đời của văn hóa tương đối luận
trong nhân học Mỹ nói riêng và nhân học Tây phương nói chung trong
nửa đầu thế kỷ 20. Cách tiếp cận này là một phản ứng lại với lý thuyết
tiến hóa thế kỷ 19. Cách tiếp cận này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải đặt
những nét văn hóa cụ thể trong tổng thể của nền văn hóa ấy, cần nhìn
văn hóa qua cái nhìn chủ thể và khi đi nghiên cứu, phải biết ngôn ngữ
bản địa để có thể hiểu được cặn kẽ hơn cái nhìn chủ thể, cần tôn trọng
những nền văn hóa khác và xem khác biệt vãn hóa chỉ là khác biệt chứ
không đánh giá là văn minh hay mông muội.4 Văn hóa tương đối luận
trở nên rất đậm nét trong những công trình của Margaret Mead từ thập
kỷ 1920, trong sách Patterns of Culture của Ruth Benedict xuất bản năm
1934. Cách tiếp cận này thể hiện rõ ữong nghiên cứu về giới của Mead
(trong sách Sex and Temperament in Primitive Societies xuất bản năm 1935),
trong những nghiên cứu về ngôn ngữ của Edward Sapir và Benjamin
Whorf (dưới dạng ngôn ngữ tương đối luận), cũng như trong nhiều lãnh
vực nghiên cứu của nhân học Mỹ. Luận điểm của Mead về giới được
kiến tạo qua văn hóa chưa được những nhà nghiên cứu trẻ sau này về
giới ghi nhận đầy đủ. Sang đến nửa sau của thế kỷ 20, tuy văn hóa
tương đối luận bị phê phán là không quan tâm đầy đủ đến chiều kích
quyền lực và bất bình đẳng quyền lực trong một nền văn hóa cũng như
trong những tương tác xuyên văn hóa xã hội, theo thiển ý của tôi, ảnh
hưởng của văn hóa tương đối luận như là một phương pháp luận cho
đến nay vẫn không hề suy giảm trong nhân học Bắc Mỹ.
4 Điểm nhấn này song hành với sự hình thành sớm của phân ngành nhân học ngôn
ngữ trong nhân học ở M ỹ, với mối quan tâm về tương quan giữa ngôn ngữ, ngôn từ
với văn hóa-xã hội. Ba phân ngành còn lại là nhân học văn hóa, khảo cổ học, và
nhân học sinh thể (biological anthropology). N hân học sinh thể không chi quan tâm
đến hình thể, chủng tộc, và tiến hóa, vốn là mối quan tâm chính của thế kỷ 19, mà
còn về tác động của gen, môi trường, dinh dưỡng đến hành vi và sức khỏe trong
thời hiện đại.
15
NHÂN HỌC Ở VIỆT NAM
về mặt phương pháp, từ đầu thế kỷ 20, nhân học trong khối Anh
ngữ nhấn mạnh đến phương pháp quan sát tham dự (participant
observation) như là một phương pháp nền tảng, và về điểm này thì có
tương đồng với dân tộc học Pháp. Tuy nhiên, cách thu thập dữ liệu định
lượng cũng như phân tích định lượng không hề thiếu vắng trong nhân
học trong khối Anh ngữ, ngay từ những ngày đầu. Nhà nhân học
Edward Tylor của thế kỷ 19 đã có bài về sử dụng thống kê trong nhân
học (Tylor 1889). Những nhà nhân học nổi tiếng người Mỹ như Alíred
Kroeber, Julian Steward đã dùng phân tích định lượng trong một số
nghiên cứu của mình ữong nửa đầu thế kỷ 20. Sau đó, George Peter
Murdock cũng như John Whitìng và Beatrice Whiting cùng một số môn
đệ của họ tiếp tục phân tích định lượng không ít ữong nghiên cứu của
mình (Murdock 1937, VVhiting and YVhiting 1975). Truyền thống này, dù
không phải là chủ đạo trong nhân học hiện nay, vẫn tiếp tục trong nhân
học, nhất là ở những chuyên ngành như nhân học tri nhận, sinh thái,
hay kinh tế. Ngay cả khi quan sát tham dự, tôi muốn lập luận là một nhà
nghiên cứu lễ nghi hay lễ hội mà không đếm số người tham gia, và tỷ lệ
nam nữ nói chung cũng như ở các vị trí khác nhau trong sự kiện này, nói
cách khác là không thu thập thông tin định lượng ữong những trường
hợp này, là chưa tận dụng hết cái mạnh của phương pháp quan sát tham
dự. Một mặt khác, trong xã hội học Bắc Mỹ, có nhiều công trình quan
trọng chỉ sử dụng phương pháp quan sát tham dự. Nhà xã hội học nổi
tiếng người Canada Erving Goffman xây dựng sự nghiệp của mình ở Bắc
Mỹ qua quan sát tham dự và không hề có con số nào ừong những công
trình kinh điển nổi tiếng của ông.5 Trong gần như tất cả các Khoa Xã hội
học hàng đầu ở Bắc Mỹ đều có lớp về phương pháp thu thập dữ liệu
định tính. Gần với chúng ta hơn, công trình nghiên cứu của nhà xã hội
5 Tuy là người Canada, nhưng sau khi tốt nghiệp ở Đại học Toronto, Goffman nhận
bằng tiến sĩ ở Mỹ, là Giáo su Xã hội học tại Đại học Caliíorrúa ở Berkeley và Đại học
Pennsylvania ở Mỹ, và đã từng ở vị bí chủ tịch Hội Xã hội học Mỹ. Ô ng là m ột trong
những nhà xã hội học u y tín nhất của Bắc M ỹ và của thế giới trong thế kỷ 20, nhưng
chi dùng phương pháp quan sát tham dự ữ o n g nhữ ng nghiên cứu của mình.
16
s '
V Nu
Nhân h ọ c: l ị ờ ) sử, nghiên cứu về Việt N am , và đ à o tạ o
học Kimberly Hoang về
th ế
ệ BO MÒN NHẬN J-ỊÍ)C
lì
giới mãi dâm đương đại
- Xem thêm -