Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên Tuân nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ...

Tài liệu Nguyên Tuân nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ

.DOCX
27
938
116

Mô tả:

Nguyên Tuân nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ
MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................2 CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI......................3 1.1 Các vấn đề lý luận.........................................................................................3 1.1.1 Khái niệm duy mĩ và chủ nghĩa duy mĩ trong nghệ thuật...........................3 1.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học.................................................................4 1.1.2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học thế giới.............................................5 1.1.2.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học Việt Nam..........................................7 1.2 Tác gia Nguyễn Tuân........................................................................................7 1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp................................................................................7 1.2.2 Phong cách văn học....................................................................................8 1.2.3 Quá trình sáng tác và các đề tài chính........................................................9 CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY MĨ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN.......................................................................................................................11 2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân qua hai giai đoạn..........11 2.1.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn 1930 1945...................................................................................................................11 2.1.1.1 Nội dung................................................................................................11 2.1.1.2 Nghệ thuật..............................................................................................16 2.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn sau 1945...................................................................................................................17 2.1.2.1 Nội dung................................................................................................17 2.1.2.2 Nghệ thuật..............................................................................................19 2.2 Nguyễn Tuân - nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ riêng biệt...............................21 2.2.1 Quá trình lột xác chủ nghĩa duy mĩ giữa hai giai đoạn.............................21 2.2.1.1 Quan điểm nghệ thuật.........................................................................22 2.2.1.2 Chủ thể thẩm mĩ..................................................................................23 2.2.1.3 Bút pháp nghệ thuật............................................................................24 2.2.2 Chủ nghĩa duy mĩ khác biệt với các tác giả cùng thời..............................24 KẾT THÚC..............................................................................................................27 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................28 1 MỞ ĐẦU Đời sống văn học cũng có những khúc mắc, những tranh đấu, tranh luận như chính nhịp sống đời thường. Phải có sự đối lập mới có sự phát triển. Tư duy phân biệt nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh đã từng dấy lên một trận bút chiến nảy lửa giữa các văn nghệ sĩ. Kết quả cuối cùng cũng đã có nhưng sau trận bút chiến ấy, người theo chủ nghĩa nào càng dấn mình sâu hơn trên con đường mình đã chọn. Vì con đường nghệ thuật là một quá trình khám phá và chứng minh, không có một ranh giới và sự đúng - sai chuẩn mực nào để ta tuân theo. Nguyễn Tuân trong trận bút chiến theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, tuy kết quả cuối cùng không thuộc về mình, Nguyễn Tuân (cùng các tác giả có cùng quan điểm) hứng chịu nhiều sự chỉ trích, bị lên án tiêu cực, nhưng đến ngày hôm nay, nhìn lại những đóng góp của ông, ông xứng đáng được xem là tác gia của một thời đại văn học và là nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ. Văn học đến hôm nay vẫn luôn cần có sự nhìn lại để sửa chữa lỗi lầm của mình. 2 CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1 Các vấn đề lý luận 1.1.1 Khái niệm duy mĩ và chủ nghĩa duy mĩ trong nghệ thuật Theo chiết tự từ nguyên, duy mĩ hiểu đơn giản: duy là duy nhất, là độc tôn, mĩ là cái đẹp, vậy duy mĩ là tính từ chỉ việc cái đẹp được tôn sùng và trở thành mối quan tâm duy nhất. Theo từ điển Hán Nôm, duy mĩ ( 唯唯) là thiên về cái đẹp, chỉ biết cái đẹp, là tình yêu cái đẹp ở trạng thái cao nhất. Chủ nghĩa duy mĩ là danh từ chỉ quan điểm duy tâm về nghệ thuật, khẳng định giá trị duy nhất của nó là cái đẹp, được coi như tách khỏi mọi nội dung xã hội và đạo đức. Các nền tảng triết học của nó được đặt vào thế kỷ 18 bởi Immanuel Kant, người đã đưa ra giả thuyết về tính tự chủ của các tiêu chuẩn thẩm mĩ, tách chúng ra khỏi sự cân nhắc về đạo đức, tiện ích hay niềm vui. Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, chủ nghĩa duy mĩ được định nghĩa là: “Aestheticism (also the Aesthetic Movement) is an intellectual and art movement supporting the emphasis of aesthetic values more than social-political themes for literature, fine art, music and other arts.This meant that Art from this particular movement focused more on being beautiful rather than having a deeper meaning - 'Art for Art's sake'.” (Tạm dịch: Chủ nghĩa thẩm mĩ (cũng là Phong trào Thẩm mĩ) là một phong trào trí thức và nghệ thuật hỗ trợ nhấn mạnh các giá trị thẩm mĩ nhiều hơn các chủ đề chính trị xã hội đối với văn học, nghệ thuật, âm nhạc và các nghệ thuật khác. Điều này có nghĩa là Nghệ thuật từ phong trào đặc biệt này tập trung nhiều hơn vào việc đẹp hơn chứ không phải có ý nghĩa sâu sắc hơn "Nghệ thuật vì nghệ thuật".) Cũng theo Wikipedia thì “The artists and writers of Aesthetic style tended to profess that the Arts should provide refined sensuous pleasure, rather than convey moral or sentimental messages. As a consequence, they did not accept John Ruskin, Matthew Arnold, and George MacDonald's 3 conception of art as something moral or useful, "Art for truth's sake". Instead, they believed that Art did not have any didactic purpose; it only needed to be beautiful. The Aesthetes developed a cult of beauty, which they considered the basic factor of art.” (Tạm dịch: “Các nghệ sĩ và nhà văn có phong cách Thẩm mĩ có khuynh hướng cho rằng nghệ thuật nên cung cấp những khoái cảm cảm giác tinh tế hơn là truyền đạt những thông điệp tinh thần hoặc tình cảm. Do đó, họ không chấp nhận John Ruskin, Matthew Arnold, và quan niệm của George MacDonald về nghệ thuật như một cái gì đó đạo đức hay hữu ích, "Nghệ thuật vì lợi ích của sự thật". Thay vào đó, họ tin rằng nghệ thuật không có mục đích giảng dạy; nó chỉ cần được đẹp. Chủ nghĩa thẩm mĩ đã phát triển một tôn giáo của vẻ đẹp, mà họ coi là yếu tố cơ bản của nghệ thuật.) Dựa vào ý tưởng rằng vẻ đẹp là yếu tố quan trọng nhất trong cuộc đời, các nhà văn, họa sĩ và nhà thiết kế đã cố gắng tạo ra những tác phẩm được ngưỡng mộ đơn giản chỉ vì vẻ đẹp của họ chứ không phải là bất kỳ chức năng tường thuật hay đạo đức nào. Tất nhiên, điều này là một cái tát đối với truyền thống nghệ thuật, cho rằng nghệ thuật cần thiết để dạy một bài học hoặc cung cấp một thông điệp nâng cao đạo đức. Phong trào này nở rộ thành một nền văn hoá cống hiến cho việc tạo ra vẻ đẹp trong tất cả các con đường của cuộc sống từ nghệ thuật và văn học, đến trang trí nhà, thời trang. 1.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học Nguồn gốc của tính thẩm mĩ có thể được bắt nguồn từ những năm 1860; tuy nhiên, chỉ đến những năm 1880 rằng phong trào này đã có được sự nổi tiếng đáng chú ý. Phong trào thẩm mĩ thường gắn với thuật ngữ tiếng Pháp "fin de siècle" hoặc "cuối thế kỷ", đề cập đến việc kết thúc một thời đại hiện tại và ngụ ý bắt đầu một phong trào mới. Nó thường được sử dụng để mô tả nước Anh cuối thế kỷ XIX, thời điểm khi các lí tưởng của thời đại Victoria đã mất ưu tiên và được thay thế bởi các giá trị thẩm mĩ. Phong cách sống của người Victoria đã bị phá vỡ một phần vì uy 4 quyền chính trị và kinh tế của Anh phải đối mặt với những thách thức mới dưới hình thức các cường quốc mới nổi, như Hoa Kì. Về cơ bản, những ngày vinh quang của đế quốc Anh đã chấm dứt, tạo cơ sở cho một phương pháp tư tưởng mới, chống lại Victoria. Phong trào thẩm mĩ tố cáo đạo đức trầm trọng và các giá trị tầng lớp trung lưu đặc trưng cho Thời đại Victoria và chấp nhận vẻ đẹp như là sự theo đuổi chính của cả nghệ thuật và cuộc sống. Phong trào này thường được coi là đã kết thúc với các thử nghiệm của Oscar Wilde, bắt đầu từ năm 1895.Tính thẩm mĩ không đột nhiên nổi lên độc lập với ảnh hưởng bên ngoài. Giống như tất cả các phong trào, nó phát triển từ những ý tưởng của những người tiền nhiệm và cuối cùng phát triển những đặc điểm riêng của mình.Trong khi nhiều người ảnh hưởng đến thẩm mĩ, hai người quan trọng nhất là Walter Pater và Charles Baudelaire. Cũng như những ngành nghệ thuật khác, phòng trào thẩm mĩ đã ảnh hưởng sâu rộng đến văn học thế giới và văn học Việt Nam lúc bấy giờ. 1.1.2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học thế giới Trong văn chương, tính thẩm mĩ được bảo vệ bởi Oscar Wilde và nhà thơ Algernon Swinburne. Sự hoài nghi về ý tưởng của họ có thể được nhìn thấy trong số lượng lớn các tài liệu châm biếm liên quan đến hai tác giả đã xuất hiện trong thời gian đó. Trong bối cảnh văn học Anh, có nhiều tranh cãi về thời gian và nơi mà chủ nghĩa thẩm mĩ ra đời; nhưng một số tài liệu cho rằng có thể được bắt nguồn từ những lời phê bình nghệ thuật của John Ruskin trong những năm 1850, thông qua các nghệ sĩ, nhà văn của phong trào Pre-Raphaelite và các tác phẩm của Walter Pater, các tác phẩm của Oscar Wilde và sự ra đời của thơ suy đồi của những năm 1890 . Phong trào này dựa trên công thức "l'art pour l'art" - nghệ thuật vì nghệ thuật - được viết bởi nhà văn Pháp Théophile Gautier trong lời mở đầu năm 1836 của ông với Mademoiselle de Maupin. Gautier là một trong số các nhà văn và nghệ sĩ người Pháp thời đó, người lập luận rằng nghệ thuật nên được đánh giá dựa trên các 5 tiêu chí của chính nó. Về mặt thẩm mĩ, quan điểm chủ quan về vẻ đẹp trở thành phương tiện chính để đánh giá giá trị: khi xem xét liệu một bài thơ hay một bức tranh có tốt hay không thì chủ nghĩa thẩm mĩ chỉ đơn thuần hỏi liệu nó đẹp hay có ý nghĩa như một tác phẩm nghệ thuật. Điều này tạo nên sự tương phản rõ rệt với phong tục tập quán và văn chương lâu đời của con người, dựa trên những bài học đạo đức mà nó có thể dạy cho người đọc hoặc người xem (tính hữu ích của xã hội) hoặc tương quan với đời sống thực. Sự từ chối này phủ nhận tính ưu việt của đạo đức trong nghệ thuật và đề cao tính thẩm mĩ đã tạo nên một phong trào gây tranh cãi từ giữa thế kỷ XIX trở đi. Baudelaire là một nhà thơ Pháp, người được coi là người tiên phong của các nhà tượng trưng cho Pháp, một phong trào có nhiều điểm tương đồng với Thẩm mĩ học Anh.Thơ của Baudelaire thể hiện nhiều phẩm chất thẩm mĩ sau đó sẽ được thông qua.Ví dụ, Baudelaire là một trong những tác giả đầu tiên đưa các tài liệu khiêu dâm vào trong những bài thơ của ông, như một số chủ đề của ông là những người đồng tính nữ và ma cà rồng (Charles Baudelaire). Các nhà thẩm mĩ, theo gương của ông, tiếp tục đẩy lùi những ranh giới, bao gồm tình dục, trong công việc của họ. Họ cũng thu được từ Baudelaire một khao khát mãnh liệt cho sự gợi cảm và nhu cầu hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Wilde tuyên bố rằng "Cuộc sống bắt chước nghệ thuật hơn nhiều so với nghệ thuật bắt chước cuộc sống.”. Về cơ bản ông ta cho rằng nghệ thuật là cao hơn cuộc sống vì cuộc sống phụ thuộc vào nghệ thuật như một phương tiện để tìm ra vẻ đẹp và vẻ đẹp trở thành một phần quan trọng của học thuyết thẩm mĩ. Ở Nhật Bản, thời Heian cảm thức thẩm mĩ được đưa lên hàng đầu, mà theo Ivan Morris thì đây có thể là “phần cống hiến vĩ đại nhất của xứ sở đối với nhân loại”. Đây là thời đại ra đời của cảm thức aware (đầy đủ là mono no awere), là niềm bi cảm, nỗi lòng xao xuyến trước vẻ đẹp vô thường của con người và tạo vật, một cảm thức thẩm mĩ mang màu sắc Phật giáo.Tiếp nối và phát triển truyền thống 6 thẩm mĩ aware, thời trung đại mang đến cảm thức yugen, wabi, sabi. Và thời đại thị dân tràn đầy tinh thần tự do, phóng khoáng Tokugawa cho biết thế nào là iki. Ngay cả ngày nay tất cả những giá trị thẩm mĩ đó vẫn còn là tiêu chí căn bản của các loại hình nghệ thuật như văn học, thơ ca, tuồng Nô, trà đạo, cắm hoa… 1.1.2.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học Việt Nam Chúng ta, những ai đã từng tìm hiểu về văn học Việt Nam, không thể quên được trận bút chiến giữa hai nhóm: một bên là nhóm ông Hoài Thanh quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, và một bên là nhóm ông Hải Triều quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cuộc bút chiến này, đã diễn ra liên tiếp, kéo dài trên các báo: Tin Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tràng An, Ðời Mới... xuất bản vào thời bấy giờ. Cuộc bút chiến này tuy đã kết thúc với phần thắng nghiêng về phía Hải Triều nhưng những tư tưởng của chủ nghĩa duy mĩ cũng đã xác lập được vị trí không nhỏ trong văn chương Việt Nam lúc này. Những người theo phái nghệ thuật vị nghệ thuật mở đầu là Thiếu Sơn, rồi Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Lan Khai,… Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn duy mĩ nổi tiếng của Việt Nam. 1.2 Tác gia Nguyễn Tuân 1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo 7 viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút kí có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời, Một chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ (1965 1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ trương chủ nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ, độc đáo. Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam. Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). 1.2.2 Phong cách văn học Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông”. 8 Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội... Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội. 1.2.3 Quá trình sáng tác và các đề tài chính Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra 9 sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua... Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc". Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết "chủ nghĩa xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một chuyến đi). Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù). Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua). Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất. 10 CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY MĨ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN 2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân qua hai giai đoạn 2.1.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn 1930 - 1945 2.1.1.1 Nội dung Trong sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn 1930 - 1945, tập truyện ngắn Vang bóng một thời đã thể hiện một cách thành công đặc điểm ngòi bút của ông. Nhà văn đã quy hồi quá khứ để tái tạo vẻ đẹp của các mẫu hình con người. Trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, con người văn hoá đồng hiện cùng không gian lịch sử cổ xưa. Nguyễn Tuân tìm về với vẻ đẹp của một thời vang bóng mà chỉ ở đó tâm hồn nghệ sĩ của ông mới được dạo bước một cách thoải mái và tự tin trong cuộc săn tìm và ngợi ca cái đẹp.Với nhà văn, cái đẹp của quá khứ là cái đẹp của những con người nghệ sĩ, thuần thục và tài năng. Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, con người tài hoa, tài tử với một nhân cách tiêu biểu là hiện thân cho cái đẹp của một thời vang bóng đã qua. So với thời cuộc hiện tại đầy ô trọc thì những mẫu hình con người tài hoa, tài tử được Nguyễn Tuân khắc hoạ mang một ý niệm riêng cùng giá trị tinh thần, văn hoá sâu sắc. Nguyễn Tuân rất trân trọng cái đẹp. Ông luôn nhìn con người và cuộc đời dưới góc độ thẩm mỹ. Qua đó, người đọc thấy được những phát hiện tinh tế, sắc sảo, tìm ra những nét tương phản giữa cái thẩm mỹ và phản thẩm mỹ. Với tư cách là một nhà văn theo chủ nghĩa duy mĩ, Nguyễn Tuân khẳng định giá trị cái đẹp chỉ là nhằm thoả mãn cảm giác chủ quan hơn là quan tâm đến hiện thực đời sống như: “Mỹ thuật vốn không là bà con với luân lý của thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”. 11 Với thú thưởng trà thì Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng cụ Ấm với hành động “chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm như thế thì mất hết cả thành kính” chính vì vậy mà “trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý”. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân thì cụ Ấm là một con người tài hoa, là một người sáng tạo ra cái đẹp khi cụ nhúng đá cuội vào nồi kẹo rồi đặt nó vào lòng chậu hoa một cách nhẹ nhàng hay cái khéo léo của cụ Ấm khi đảo tàn than trong hoả và nhỏ một chút nước xuống đất để thử độ sôi của nước. Để từ đây, ta nhận thấy được hành động thưởng trà của cụ Ấm là một cái đẹp của một con người tài hoa mà “chỉ có những người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà”. Viết về những con người của một thời đã qua và về những thú chơi cũng của một thời đã qua có lẽ vì thiên về hướng đó nên nhân vật chính trong đa số truyện ngắn của tập truyện này đều là những cụ già, những vị quan về hưu an hưởng tuổi già bên thú điền viên, bên thú chơi lan, bên tách trà với viên kẹo thạch lan hương ngày Tết, bên những người bạn thơ, bên chiếc lồng đèn kéo quân cho con cháu vui trung thu,… Rõ ràng tất cả những điều đó ít nhiều đều đượm hương quá khứ, đều như một nhắc gợi khẽ khàng cho tất cả những ai ít nhiều có nặng lòng với một thời vàng son của văn hoá dân tộc. Nguyễn Tuân đã thể hiện sự phủ định hiện thực bằng việc trở về tìm những đẹp xưa của một thời vang bóng. Ông ngợi ca những thú chơi thanh tao: thả thơ, đánh thơ, uống trà, chơi hoa,… Nguyễn Tuân đưa chúng ta về lối sống của người xưa và bản thân ông cũng đắm chìm trong những vẻ đẹp ấy trong sự tiếc nuối, ngậm ngùi cho một cái gì đã mất hút vào xa xưa. Có thể thấy những thú vui ông thường nhắc đến là: thú ẩm thực (thưởng thức hương cuội, uống trà, nhắm rượu), thú chơi đàn, thú đánh cờ, thú vui thi ca (làm thơ, ngâm thơ, xướng hoạ, thả thơ, đánh thơ,...), thú chơi hoa kiểng. Tất cả những thú vui này đều có nét chung đặt biệt: chúng đều là thú vui truyền thống của cha ông, là những giá trị tinh thần của một thời đã qua, đã mất và không quay lại được. Nguyễn Tuân chỉ 12 chú ý đến giá trị tinh thần của chúng, đến cảm xúc thẩm mĩ mà chúng mang đến cho người tiếp nhận, đến khả năng bồi dưỡng tâm hồn cho con người. Về ẩm thực, ông chỉ nhắc tới sự hài hoà, hoà hợp cả bề nổi và bề sâu của món ăn, tức là chỉ tiếp cận linh hồn của chúng. Đối với Nguyễn Tuân, món ăn thức uống cái mà người ta cho là bình thường, thậm chí tầm thường - luôn gợi lên trong ông cảm xúc thẩm mĩ mà ít ai có được. Viết về ẩm thực hay về các thú vui khác, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân không bao giờ có sự “đại trà” như thế. Tiêu chí để ông chọn lựa không phải là ngon, là lạ, mà là “thú”. Cái đẹp của chuyện ẩm thực trong văn Nguyễn Tuân không chỉ nằm ở đồ ăn, cách ăn, người ăn, không khí của bữa ăn mà còn nằm ở chất văn hoá trong từng miếng ăn. Đối với Nguyễn Tuân, cái đẹp của bữa ăn có lẽ chính là cái đã tạo nên cảm xúc nơi người thưởng thức. Ít nhất, bữa ăn đó phải có sự hài hoà nội tại: “Cơm dọn có rất nhiều mắm Huế. Và mấy đĩa chuối chát, rau thơm và dưa món. Đã một đĩa ớt xanh, lại một đĩa ớt đỏ.Trông vui mắt lạ.Nếu dùng bữa cơm này làm mẫu để vẽ một bức hoạ tĩnh vật thì cái giá trị bài trí của mâm cơm thực là hoàn toàn”.Đây là bữa cơm mà ông huyện Cẩm Phả đãi Bạch và Hồ (Thiếu quê hương) nơi miền núi hẻo lánh trong đêm gió rét. Thức ăn không phải nem công chả phượng nhưng màu sắc rất đẹp, hài hoà và cân đối. Người phụ nữ Huế nổi tiếng với tài bếp núc, nhất là món mắm Huế trứ danh.Loại mắm nào màu sắc cũng tươi, không phải đều đỏ tươi nhưng là sắc tươi trong màu của chúng. Hẳn món mắm Huế trong bữa cơm này cũng có sắc tươi như thế, cộng thêm màu của chuối chát, của rau thơm, của dưa món, của ớt xanh ớt đỏ. Bữa cơm giản dị nhưng màu sắc dễ làm no mắt người biết thưởng thức. Như vậy, một bữa ăn đẹp trước hết phải là một bữa ăn hài hoà về màu sắc, có sự hoà hợp giữa các món ăn. Bên cạnh đó, cách ăn cũng là một trong những yếu tố tạo nên bữa ăn đẹp. Ở đây Bạch đã nhìn ra cái đẹp của đồ ăn, và cũng chính anh nhận ra cái không đẹp trong cách ăn của bạn. Chỉ vì không dùng được món mắm mà Hồ đã làm bận lòng cả Bạch lẫn ông huyện, một kiểu “làm nũng” không đúng chỗ. 13 Cách ăn không đẹp của Hồ đã làm hỏng cái đẹp của bữa ăn. Nguyễn Tuân rất tinh tế khi đặt vào tác phẩm chi tiết này. Một bữa ăn đẹp đâu phải chỉ cần đồ ăn đẹp mà cách ăn cũng phải thanh lịch. Và vẻ đẹp ở con người nhiều khi cũng thể hiện ở ngay cái cách chúng ta cầm đôi đũa bắt đầu một bữa cơm. Trong nghệ thuật ẩm thực của mình, Nguyễn Tuân không chỉ chú ý đến đồ ăn, không khí bữa ăn, cách ăn mà còn có quan niệm rất rõ ràng về người ăn… Như vậy, với Nguyễn Tuân, cái đẹp của thú ẩm thực không chỉ hiện diện trên cái vỏ vật chất bên ngoài của thức ăn mà còn ở cái đẹp bên trong, cái đẹp của văn hoá, của nhân cách con người, cái đẹp của sự hài hoà giữa người và người. Đánh đàn là một trong những thú vui mà Nguyễn Tuân quan tâm khá nhiều trong tác phẩm của ông trước cách mạng. Nếu việc trồng hoa lan, uống trà tàu hầu như chỉ dành cho những người lớn tuổi, đa phần là những vị quan bỏ chốn quan trường về vui thú điền viên, thì đánh đàn và thưởng thức tiếng đàn trong văn Nguyễn Tuân không giới hạn riêng cho đối tượng nào cả. Chàng công tử rất trẻ mang dáng dấp một tráng sĩ (Vườn xuân lan tạ chủ) cũng di dưỡng tính tình bằng đàn thập lục. Những người tham gia cuộc đánh thơ do cụ Nghè Móm khởi xướng cũng không lúc nào chịu thiếu tiếng đàn của một người con gái (Thả thơ).Anh chàng thèm đi trong một lần phiêu lưu tận Hương Cảng vẫn nhận ra tiếng đàn tam thập lục giữa tiệc rượu ồn ào ngập mùi “rượu nồng dê béo” (Một chuyến đi). Một người nghệ sĩ rất trẻ như Xuân (Một người muốn đập vỡ đàn) cũng thiết tha với loại hình nghệ thuật này… Giữa xã hội ồn ào ô tạp lúc bấy giờ, tiếng đàn trong trẻo vẳng lên từ những trang văn của Nguyễn Tuân đã là một sự hiếm, cũng là một niềm an ủi cho những ai không hoà nhập được với cuộc sống nhưng cũng không thể thoát ra khỏi nó. Giống như một cách giữ tâm an trước cái bát nháo của đời. Cái hay, cái đẹp, cái đáng quý của thú vui này là nó thanh lọc tâm hồn con người, kìm giữ con người khỏi rơi vào vũng bùn ô tạp của xã hội… 14 Có lẽ, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, khi mà xã hội vàng thau lẫn lộn, khi mà bản thân người nghệ sĩ chưa tìm đến được với ánh sáng cách mạng, thì với người nghệ sĩ từng thấm nhuần cách giáo dục truyền thống như Nguyễn Tuân, quá khứ vàng son của những thú chơi, những con người thanh bạch như là một cứu cánh để tâm hồn ông khỏi rơi vào những truỵ lạc ở đời. Nguyễn Tuân đã tập trung ngòi bút của mình vào cái đẹp tài hoa giữa lòng cuộc sống.Ông đã miêu tả những con người mà với ông đó là những nghệ sĩ điêu luyện, những con người tuyệt kĩ.Ông đã thưởng thức những thú vui tao nhã, cổ xưa của truyền thống dân tộc với một đôi mắt rất riêng, với một cách cảm rất đặc biệt. Có lẽ chỉ đến với Nguyễn Tuân và thông qua cảm giác chủ quan của Nguyễn Tuân độc giả mới có cơ hội được tiếp xúc với những nếp sống cũ, những nghệ thuật cổ thanh cao của một nền văn minh xưa cũ. Quá khứ trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân là “một thời”, không có thời gian cụ thể chỉ biết là dĩ vãng, là “một thời vang bóng”. Điều này còn thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, hoài niệm cái đẹp của nhà văn. Nguyễn Tuân miêu tả cái đẹp thuần túy. Cái đẹp nghệ thuật đứng trên mọi thứ thiện ác ở trên đời. Chính mở đầu Vang bóng một thời với truyện ngắn Bữa rượu máu đã cho ta thấy được hình ảnh Bát Lê chém “treo ngành” với tài “chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy”. Dưới con mắt của nhiều người thì đây là một hành động dã man, vô nhân tính nhưng đối với Nguyễn Tuân thì “chém treo ngành” là cái nghề mà “không thể truyền cho một người nào được” của Bát Lê là cái đẹp và thể hiện được Bát Lê là một con người tài hoa. Hay là hình ảnh của một thằng ăn cắp mà nhà văn dành riêng hai chữ “rất gọn” và “rất nhanh” để miêu tả hành động “khi hắn cắt túi người ta”. Cái đẹp mà Nguyễn Tuân nhắc đến chỉ đơn thuần là cái đẹp như bản chất của nó. Ở đó, những con người nghệ sĩ chỉ đơn giản là tập trung cao độ vào công việc của bản thân, hoàn thiện mình đến độ thuần thục và đạt đến tuyệt kĩ. Ở ngòi bút của Nguyễn Tuân ông nhất nhất tôn thờ cái đẹp. Cái đẹp của Nguyễn Tuân không đồng nhất với cái tốt, 15 xấu của đạo đức, của phẩm chất con người. Cái đẹp trong quan điểm của Nguyễn Tuân đơn giản chỉ là cái đẹp thuần túy, cái đẹp tuyệt đích, tuyệt kĩ. Song Nguyễn Tuân không hẳn chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của tài năng mà ông cũng đã không ít lần hướng đến nhân cách, thiên lương của con người. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng một thế giới đối lập với những nhân vật hoàn toàn khác biệt nhưng cùng chung sự trân quý cái đẹp. Đó là Huấn Cao - người đại diện cho cái đẹp nhưng lại bị gông xiềng. Đó là viên quản ngục người phải sống chốn bùn lầy với những mánh khóe của một người cai trị tù nhân nhưng vẫn thiết tha bảo vệ cái đẹp bằng một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và thiên lương cao cả. Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy được một cái đẹp rất khác. Đó không chỉ là cái đẹp của những tay nghề, của những thú vui mà cái đẹp có số phận, cái đẹp mong manh và có thể bị tiêu diệt. Cái đẹp của nét chữ tài hoa Huấn Cao được con người như viên quản ngục và thầy thơ lại cảm mến, tôn vinh và khao khát bảo vệ càng khiến cho cái đẹp trở nên thăng hoa và giá trị. Trong ngục tối, nơi gian ác, xấu xa và hôi hám nhưng cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn vẫn gặp gỡ: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. 2.1.1.2 Nghệ thuật Với sự tài hoa uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã tạo dựng nên những chi tiết nghệ thuật độc đáo với hình tượng thiên nhiên và sự vật ở phương diện văn hoá thẩm mĩ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc ở một thời quá vãng nhưng đã được Nguyễn Tuân tạo dựng lại không gian văn hoá vô cùng sinh động. Cùng với sự tài nghệ trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ đã làm cho nhân vật thể hiện được cái tài nghệ, tài hoa của mình.Từ những tài nghệ, tài hoa ấy đã kiến tạo nên những cái đẹp, cái tài rất riêng mà không thể lẫn vào đâu được. 16 Với vốn từ vựng phong phú của mình, Nguyễn Tuân đã sử dụng linh hoạt các con chữ trong tác phẩm để tạo nên một phong cách ngôn ngữ nghệ thuật rất riêng mang dấu ấn cá nhân đậm nét. Đặc biệt Nguyễn Tuân đã sử dụng những từ ngữ cổ, từ hán để nói về một thời đại văn hoá của dân tộc Việt, chính vì sự uyên bác của mình, ông đã làm sống dậy những giá trị văn hoá mang tâm thức của cái đẹp, sự tài hoa uyên bác. Bên cạnh đó, trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân còn sử dụng một số lượng lớn các từ láy. Nhờ lớp từ này, nhà văn có thể bày tỏ cảm xúc, tâm tình một cách dễ dàng.Từ đó, tạo nên giọng văn Nguyễn Tuân tha thiết với câu văn giàu nhịp điệu, giàu âm thanh. Có thể nói, việc sử dụng từ láy đã chứng tỏ khả năng vận dụng ngôn ngữ tuyệt vời và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng, ông sử dụng nhiều biện pháp tu từ, trong đó phép so sánh tỏ ra rất đắc dụng. Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, biện pháp so sánh thực sự là một công cụ nghệ thuật độc đáo, không chỉ giúp thể hiện ý tưởng, nội dung mà còn góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của cả chỉnh thể nghệ thuật. Khi cần so sánh, nhà văn luôn có ý thức sáng tạo nên những hình ảnh liên tưởng, đối sánh tạo nên sự phong phú và hấp dẫn cho câu văn. 2.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn sau 1945 2.1.2.1 Nội dung Sau năm 1945 thì sáng tác của Nguyễn Tuân có một sự chuyển biến rõ rệt về nội dung, tư tưởng. Ông đã chuyển mình trên địa hạt văn học từ thể loại truyện ngắn sang thể kí. Thể kí là thể loại phát triển mạnh mẽ trong thời kì xã hội có nhiều biến động. Nó phản ánh sự việc và con người trong cuộc sống với tính chính xác cao. Chính vì vậy mà thể kí rất phù hợp với tính cách của Nguyễn Tuân trong giai đoạn này. Nguyễn Tuân chia tay với mảnh đất chỉ còn “vang bóng một thời” và ông bắt đầu thực hiện dấn thân với những chuyến xê dịch, rong ruổi dài ngày. Sự lột xác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn này là kết quả của niềm tin về sự tốt đẹp, tin 17 yêu và lạc quan yêu đời. Ông không ngừng khát khao “đi tìm những định thức rung động cho đúng nhịp với đời sống cao rộng”. Chính vì vậy mà sự ra đời của các tác phẩm như Tuỳ bút kháng chiến (1955), Tuỳ bút sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988),...đã khẳng định được tài năng văn chương của ông trước những biến động của xã hội, ông đã bắt kịp, hoà điệu cùng với nó để tạo sinh ra những tác phẩm có giá trị. Với hai tập tùy bút Đường vui (1949) và Tình chiến dịch (1950) Nguyễn Tuân đã thể hiện một con người mới, với niềm tin vào lí tưởng Đảng và dấn thân vào con đường chiến dịch. Khát vọng tìm kiếm cái đẹp chưa bao giờ ngừng nghỉ trong hành trình của nhà văn. Ở giai đoạn này, Nguyễn Tuân đã khai thác một cách sâu sắc hiện thực cuộc sống, khám phá những chất liệu đời thường với một niềm hạnh phúc vô biên. Bằng tình yêu chân thành đối với quê hương, nhà văn đã bày biện một những trang văn vô cùng sinh động về “hương vị và cảnh sắc đất nước” qua hàng loạt các tùy bút: Phở, Cây Hà Nội, Con rùa thủ đô,… Trong giai đoạn sau năm 1945 thì nội dung tư tưởng của Nguyễn Tuân vẫn hướng đến những mẫu người tài hoa nghệ sĩ nhưng đó là những con người lao động bình thường trong mọi tầng lớp xã hội. Bên cạnh đó, với kiến thức về địa lí, xã hội, hội họa,… Nguyễn Tuân đã đi khai phá những cái đẹp có trong tự nhiên, những cái đẹp mang tính to lớn và hùng vĩ. Như Vương Trí Nhàn đã viết: “Đi đến đâu, ông cũng tìm thấy những nét đẹp, đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên, và nhất là đẹp trong hình ảnh con người vượt qua gian khổ khẳng định ý chí của mình”. Như trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà hình ảnh ông lái đò hiện lên là một con người nghệ sĩ tài hoa với tay lái ra hoa của mình hoà trong khung cảnh con sông Đà hùng vĩ với hai thuộc tính vừa hung bạo nhưng cũng rất trữ tình. Là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán, ông lái đò đã phải vượt qua các thạch trận, những xoáy nước trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật ông lái vào một hoàn cảnh khốc liệt 18 để từ đó mới bộc lộ hết phẩm chất của con người tài hoa trong lao động. Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ và trở nên lớn lao, kì vĩ. Nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã ca ngợi những chiến tích trong lao động, ông cho rằng: “đồng tiền tụ máu cũng là hình ảnh quí giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà”. Đây là cách so sánh thể hiện tình cảm yêu quí và lòng trân trọng của tác giả với người lái đò sông Đà. Hành trình đi và viết của nhà văn Nguyễn Tuân với đề tài đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đã để lại nhiều tác phẩm giá trị như: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký(1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978). Hăng hái tham gia vào công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Tuân đã làm giàu thêm cho những sáng tác của mình và bổ sung một cách trọn vẹn bức tranh cuộc sống và những tháng ngày lịch sử hùng hồn của dân tộc. Ngay từ cách đặt tên tùy bút Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, chúng ta cũng đã nhận thấy sự mộc mạc, giản dị và quen thuộc. Nguyễn Tuân đã tìm đến với vùng chiến sự để ghi chép lại những diễn biến của cuộc kháng chiến. Ông đã đặt bút để miêu tả lại những gì mình được nghe, được thấy ở thủ đô.Với những tháng ngày lịch sử, không gì quý giá bằng tinh thần và ý chí kiên cường của con người. Với ngòi bút đam mê và nhiệt huyết của mình, nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc một bức tranh thật sống động về công cuộc chống Mỹ của nhân dân ta. Từ đó, bóc trần tội ác của kẻ thù và góp phần động viên quần chúng trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 2.1.2.2 Nghệ thuật Nguyễn Tuân là một bậc thầy trong thể loại kí nên tác giả đã khai thác mặt mạnh của kí để miêu tả dòng sông, đặc biệt là phần khảo cứu, tìm hiểu sông Đà từ ngọn nguồn về mặt lịch sử, địa lí và sinh hoạt ở hai bờ sông. Tác giả đã đem lại 19 một kiến thức về sông Đà cho người đọc khi tiếp cận tác phẩm.Bên cạnh đó, ông đã miêu tả trực tiếp với những hình ảnh khắc hoạ khi ông miêu tả thạch trận.Trên mặt sông nổi lên những tảng đá chắn ngang, chắn dọc, những pháo đài đá mà người lái đò phải vượt qua. Nguyễn Tuân đã nhân cách hoá xem chúng như những tên giặc đang dàn bày thế trận sẵn sàng giao chiến với người lái đò “Mặt hòn đá lúc nào cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhó, méo mó”. “Những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, hòn thì như thách thức với người lái đò” Nguyễn Tuân đã kết hợp, vận dụng một cách nhuần nhuyễn lối miêu tả văn học với điện ảnh khi tả viễn cảnh, cận cảnh, kết hợp miêu tả âm thanh. Hay khi miêu tả cảnh vật lộn trên sông nước như một trận đánh và ông sử dụng nhiều từ ngữ về quân sự, về võ thuật như “đánh khuýp, quật vu hồi, đánh giáp lá cà, đánh thúc gối…”. Tác giả cũng đã sử dụng những từ ngữ cổ xưa để gợi không khí trang nghiêm như “bờ tiền sử”, “bờ sông hoang dài”, “niềm cổ tích xưa”, rồi những từ ngữ gợi màu sắc như “xanh ngọc bích” “sông Đà lừu lừ chín đỏ”. Nhận xét về giọng điệu tùy bút trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân sau giai đoạn 1945 là sự đa dạng, phong phú với nhiều sắc thái tình cảm. Có lúc nhà văn thể hiện giọng điệu triết lý, lịch lãm nhưng cũng có lúc đó là giọng điệu đằm thắm, thiết tha. Đọc những câu văn của Nguyễn Tuân người đọc có cảm tưởng như một khúc ngân của một bài thơ ngọt ngào và dịu êm. Dường như không gian xinh đẹp của thiên nhiên đất nước, sự hùng vĩ của đất trời đã khiến lòng người càng thêm miên man. Cảm xúc của nhà văn như được chảy trôi vô biên tạo nên những âm điệu du dương, tha thiết. Với tài năng trong việc vận dụng các thủ pháp nghệ thuật kết hợp với vốn từ vựng phong phú, các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trau chuốt đến từng dấu câu, từng con chữ. Ông đã dùng ngôn ngữ đặc sắc của mình để ngợi ca tổ quốc, ngợi ca những người lao động thầm lặng vẫn ngày đêm âm thầm cống hiến và làm đẹp cho quê hương. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan