Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên lí cơ bản chủ nghĩa mác leenin về tiền công và vận dụng...

Tài liệu Nguyên lí cơ bản chủ nghĩa mác leenin về tiền công và vận dụng

.DOCX
7
513
93

Mô tả:

Tiền công, tiền lương luôn là vấn đề cấp thiết đối với người lao động. Một chế định tiền lương thích hợp sẽ tạo ra động lực lớn kích thích người lao động hăng say sáng tạo và cống hiến nhiều hơn cho xã hội, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Lý luận về tiền công của C. Mác không chỉ vạch rõ bản chất của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng. Chính vì thế, em xin chọn đề bài: “Lý luận tiền công của C. Mác và sự vận dụng lý luận này ở Việt Nam hiện nay” cho bài tập lớn học kì. NỘI DUNG II. Lý luận tiền công của C. Mác 1. Bản chất của tiền công Người công nhân bán sức lao động cho nhà tư bản trong một thời gian nào đó, sản xuất ra một số lượng hàng hóa hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó cho nhà tư bản thì nhận được một số tiền nhất định, gọi là tiền công. Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động. Hình thức biểu hiện đó lại gây ra sự nhầm lẫn do những thực tế sau đây : Thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động. Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động. Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. 2. Các hình thức cơ bản của tiền công Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm. Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó tỉ lệ thuận với thời gian lao động của công nhân. Tiền công tính theo thời gian thường áp dụng đối với các công việc khó tính được số lượng sản phẩm cụ thể do đó phải căn cứ vào độ dài ngày lao động, cường độ lao động, trình độ lành nghề để trả công. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó tỷ lệ thuận với số lượng sản phẩm hay chi tiết sản phẩm mà công nhân đã chế tạo ra tùy theo số lượng công việc đã hoàn thành. Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian. 3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế Tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm mới chỉ là biểu hiện của tiền công danh nghĩa, do đó chúng ta cần phân biệt tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Còn Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên. Như vậy, tiền công thực tế tỷ lệ thuận với tiền công danh nghĩa và tỷ lệ nghịch với giá cả hàng hóa, dịch vụ và phụ thuộc vào các khoản thuế mà công nhân phải đóng cho nhà nước. II. Vận dụng lý luận tiền công của C. Mác ở Việt Nam hiện nay Ở nước ta hiện nay việc nhận thức đúng đắn bản chất tiền công, các hình thức tiền công để áp dụng và quản lý lao động trong các doanh nghiệp là vấn đề quan trọng. Bởi vì tiền công là đòn bẩy kinh tế quan trọng kích thích các nhân tố tích cực trong mỗi con người. Việc phát huy tài năng, sáng kiến, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của người lao động, tạo thành động lực quan trọng của việc phát triển kinh tế. Hơn nữa lý luận tiền công có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định mức công của người lao động trong các hợp đồng xuất khẩu lao động tại chỗ hoặc xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Đồng thời nó còn là cơ sở kinh tế cho việc điều chỉnh các vấn đề về quan hệ lao động của nhà nước. 1.Thực trạng tiền công của người lao động Việt Nam hiện nay Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Thực tế, mức lương tối thiểu vùng cao nhất hiện nay là 2,7 triệu đồng (vùng I) và thấp nhất là 1,9 triệu đồng (vùng IV) (xem thêm PHỤ LỤC 1), đến năm 2015, mức lương tối thiểu vùng sẽ được tăng lên tương ứng 3,1 triệu đồng (vùng I) và 2,2 triệu đồng (vùng IV); tuy nhên với mức lương này theo các nghiên cứu thì chỉ mới đáp ứng được 75% mức sống tối thiểu. Khi tiền lương không đủ trang trải cuộc sống, sức khỏe không bảo đảm, công nhân khó hoàn thành định mức công việc trong 8h quy định. Về lâu dài, sẽ tạo ra lớp người nghèo mới ảnh hưởng nghiêm trọng đến an sinh xã hội. Có thể thấy chính sách tiền lương của nhà nước còn chậm đổi mới so với sự phát triển chung của tình hình kinh tế - xã hội. Những hạn chế của chính sách tiền lương thể hiện ở một số điểm sau: Về mức lương tối thiểu: Theo số liệu của Bộ nội vụ, từ tháng 1/2003 đến nay đã 9 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung, từ 210 nghìn đồng lên 1.150 nghìn đồng/ tháng. Tính từ năm 2013, lương đã tăng 447,8%; cao hơn chỉ số giá tiêu dùng CPI do Tổng cục Thống kê công bố là 186,8%. Tuy nhiên, mức lương 1.150.000 đồng/tháng chỉ đạt 50% bình quân mức lương tối thiểu vùng năm 2014 của khu vực Doanh nghiệp. Nếu căn cứ thực tế mức sống, mức lương tối thiểu này không đủ để người lao động có thể sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh khi lạm phát ngày càng đẩy giá cả tiêu dùng leo thang chóng mặt. Mức lương tối thiểu thấp không bảo đảm tái sản xuất giản đơn sức lao động của bản thân người lao động. Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có nhiều thiệt thòi cho các lao động khi phía nước ngoài sẽ không chấp nhận trả cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định. Về thời gian và mức độ điều chỉnh tiền lương danh nghĩa: Ở nước ta, trong những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát hằng năm khá cao, vì thế, về nguyên tắc, để tiền lương thực tế của người lao động không bị giảm cần phải điều chỉnh tăng mức lương danh nghĩa ít nhất ngang bằng với tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế, việc điều chỉnh lương chưa được thực hiện kịp thời, không theo kịp với đà tăng giá. Về hệ số phụ cấp: Tiền lương có một chức năng cực kỳ quan trọng là điều tiết quan hệ cung - cầu về sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Hệ số phụ cấp trong chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay mới chỉ có loại phụ cấp tham gia điều tiết cung - cầu sức lao động theo vùng là phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đắt đỏ. Sự chênh lệch mức lương giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp chưa đủ để khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thậm chí còn có tình trạng “chảy máu chất xám”. Về tỷ lệ tiền lương trong thu nhập: Tiền lương chỉ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hoạt động tích cực của người lao động khi nó chiếm phần lớn trong thu nhập của họ. Với chính sách tiền lương hiện hành, tiền lương của cán bộ công nhân, viên chức hiện nay chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng thu nhập của người hưởng lương (khoảng 30%- 50%), làm cho tiền lương không phản ánh đúng thang giá trị lao động, ảnh hưởng lớn tới quan hệ tiền lương trên thực tế. 2. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng tiền công của người lao động Việt Nam hiện nay Hiện trạng bất cập trong chế độ tiền công, tiền lương ở nước ta hiện nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Một trong số đó là nhận thức chưa đầy đủ về tính chất hàng hóa của sức lao động cũng như về bản chất của tiền lương. Mặc dù khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã có những thay đổi lớn trong nhận thức nhưng trên thực tế, việc cải cách tiền lương không đồng bộ với việc đổi mới các lĩnh vực có liên quan nên kết quả không cao. Cải cách hành chính trong khu vực nhà nước diễn ra chậm, đặc biệt việc tinh giảm biên chế còn thiếu cương quyết. Tiền lương chưa thực sự được coi là đầu tư cho người lao động, đầu tư cho nguồn nhân lực mà chỉ coi đó là một khoản chi cho tiêu dùng cá nhân. Khi tiến hành cải cách tiền lương chưa có cơ chế để tạo nguồn mà chỉ nặng về cân đối ngân sách. Vì thế khi xây dựng mức lương tối thiểu, nhà nước dường như bị ràng buộc bởi sự eo hẹp của ngân sách nên thường đưa ra những mức giá tư liệu sinh hoạt thấp xa so với mức thực tế. Trong quá trình thực hiện chính sách, chưa kết hợp được việc cải cách hành chính và đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế trả lương cho các ngành sự nghiệp. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định và thực hiện chính sách còn hạn chế. Công tác quản lý tiền lương và thu nhập cũng còn nhiều bất cập. 3. Một số phương hướng nâng cao tiền công, cải thiện đời sống người lao động Để đảm bảo cho người lao động có cuộc sống ổn định ngoài những nhu cầu về vật chất còn cần có nhu cầu về tinh thần. Nếu người lao động dùng tiền công của mình để tiêu dùng, nhưng giá cả vật phẩm tiêu dùng tăng lên thì mức sống của họ sẽ hạ xuống. Để khắc phục điều này cần phải tăng tiền công thực tế cho người lao động theo một số phương hướng sau: Thứ nhất: tăng tiền công danh nghĩa. Mặc dù tiền công danh nghĩa không phản ánh đúng mức sống của người lao động nhưng muốn tăng tiền công thực tế trước tiên cần tăng tiền công danh nghĩa. Bởi lẽ trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống. Thứ hai: Điều hoà cung- cầu để ổn định giá cả thị trường. Nếu như cung bằng cầu thì giá cả mới ở mức hợp lí, người tiêu dùng có thể chấp nhận dễ dàng và người sản xuất sẽ tái sản xuất nhanh. Thứ ba: Chống lạm phát để giữ cho mức giá cả ổn định, để tiền công danh nghĩa vẫn có thể mua được nhiều hàng hoá tiêu dùng. Khi lạm phát xuất hiện, giá tư liệu tiêu dùng sẽ tăng lên, nếu mức công không tăng thì họ không thể mua được tư liệu tiêu dùng, không đảm bảo được đời sống của chính mình. Thứ tư: Thực hiện các chính sách thuế phù hợp với thu nhập người lao động. Hiện nay nhà nước ta đã có từng mức thuế rõ ràng với thu nhâp người dân (xem thêm PHỤ LỤC 2) và cũng đưa ra những đối tượng miễn giảm thuế. Đó là đối tượng nộp thuế bị thiên tai, tai nạn làm thiệt hại đến tài sản và đời sống thì có mức xét miễn giảm, giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thế phải nộp. Tuy nhiên trong thời gian dài để ổn định, nâng cao đời sống người lao động bên cạnh các biện pháp tăng tiền công thực tế trên, cần thực hiện các biện pháp tích cực khác có giá trị lâu dài như: phát triển sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động xã hội. Bởi khi sản xuất được càng nhiều hàng hóa thì tiền công mà người lao động được nhận sẽ mua được nhiều loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cuộc sống cho họ; còn khi năng suất lao động xã hội tăng thì thời gian lao động xã hội cần thiết giảm đi và giá trị hàng hóa theo đó cũng giảm xuống phù hợp với mức tiêu dùng của người lao động hơn. KẾT LUẬN Thực tế trên cho thấy, lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác không chỉ đúng trong chủ nghĩa tư bản mà nó còn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Vì thế, nghiên cứu và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác vào thực tiễn nhất là việc cải cách chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự đồng bộ trong đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, để sự phát triển của đất nước ta thực sự do con người và vì con người. 1. 2. 3. 4. 1. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2014. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2004. Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề cương BÀI GIẢNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC-LÊNIN, HÀ NỘI 2001. ThS. Nguyễn Thị Mai Lan, Đại học Luật Hà Nội, Bài viết “Lý luận hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác - cơ sở quan trọng để cải cách chính sách tiền lương” http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/17473/Ly-luan-hang-hoasuc-lao-dong-va-tien-cong-cua-C.aspx Bài viết “Chính sách tiền lương tại Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập”. http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=22054 1. Tiểu luận “ Lý luận tiền công của C. Mác và thực trạng tiền công của người lao động trong một số doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” http://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-triet-li-luan-ve-tien-cong-cua-c-mac-va-thuc-trang-tiencong-cua-nguoi-lao-dong-trong-mot-so-doanh-nghiep-o-4807/ 1. Tiểu luận “ Bản chất tiền lương trong chủ nghĩa tư bản và biện pháp tăng tiền lương thực tế” http://123doc.org/document/489730-ban-chat-tien-luong-trong-chu-nghia-tu-ban-va-bienphap-tang-tien-luong-thuc-te.htm PHỤ LỤC 1 Lương cơ bản là mức lương do người sử dụng lao động đặt ra, là cơ sở để tính tiền công, tiền lương thực lĩnh của người lao động trong chính doanh nghiệp đó. Trong doanh nghiệp thực tế thì lương cơ bản là lương để đóng bảo hiểm, không tính các khoản phụ cấp, trợ cấp khác. Lương cơ bản không được thấp hơn lương tối thiểu vùng, mà mức lương tối thiểu vùng hiện nay là: Đây là mức lương tối thiểu được quy định tại Nghị định 182/2013/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Chú ý: đối với lao động đã qua học nghề thì phải được cộng thêm 7% lương tối thiểu nữa. Vậy, mức lương cơ bản hiện nay là theo mức lương tối thiểu vùng được quy định tại Nghị định 182/2013/NĐ-CP Ví dụ như ở Hà Nội: Mức lương cơ bản đối với khu vực Hà Nội cho người lao động đã qua đào tạo học nghề là: 2.700.000 + 7% X 2.700.000 = 2.889.000 PHỤ LỤC 2 Theo quy định, thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) là loại thuế trực thu đánh vào những người có thu nhập cao, bao gồm công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài có thu nhập, cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn ở Việt Nam có thu nhập và người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam. BIỂU THUẾ LŨY TIẾN TỪNG PHẦN lương tối thiểu vùng Nguồn : http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/152193/nam-2014--bao-hiem-tang-2--day-luonggiam-1-.html biểu thuế lũy tiến từng phần Nguồn : http://hocketoanthue.vn/tin-tuc/Vi-du-ve-cach-tinh-thue-thu-nhap-ca-nhan-nam2014.htm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng