Nguy cơ bệnh do nắng nóng
Khi phải tiếp xúc lâu với môi trường quá nóng, cơ thể bị các rối loạn theo mức độ
nặng tăng dần là: ngất, chuột rút, kiệt sức và đột quỵ do nóng. Thời tiết đang
chuyển dần sang mùa hè nắng nóng, mọi người cần chủ động phòng tránh những
tác hại do nóng gây ra. Để giúp độc giả nắm được những kiến thức về bệnh trong
mùa hè này, sau đây VnDoc sẽ chia sẻ nguyên nhân, hậu quả, cách phòng và xử lý
khi bị các bệnh do nóng.
Môi trường nắng nóng gây ra nhiều rối loạn cho cơ thể
Nguyên nhân nhiễm nóng
Cơ thể chúng ta thoát nhiệt chủ yếu bằng hai cách: một là bài tiết và bốc hơi mồ hôi, hai
là truyền nhiệt trực tiếp từ da ra môi trường xung quanh. Ở nhiệt độ bình thường sự bốc
hơi mồ hôi làm giảm khoảng 20% nhiệt độ cơ thể, nhưng ở nhiệt độ cao đó là cách tiêu
nhiệt chính, khi đó mồ hôi có thể tới 2,5 lít/giờ, nếu độ ẩm không khí cao thì sự bay hơi
mồ hôi bị giảm đi. Da truyền nhiệt bằng bức xạ ra môi trường làm giảm 65% nhiệt độ cơ
thể trong điều kiện bình thường. Nhưng khi nhiệt độ môi trường tăng lên 37,2oC thì bức
xạ nhiệt đổi hướng: nhiệt truyền từ môi trường vào cơ thể qua da. Những yếu tố làm
tăng nguy cơ nhiễm nóng gồm: béo phì, các bệnh da, mất nước, thiếu dinh dưỡng, hạ
huyết áp, mất nước do uống rượu, sức khoẻ giảm sút, kém thích nghi khí hậu, nguy cơ rối
loạn do nóng tăng lên theo tuổi; một số thuốc làm giảm bài tiết mồ hôi như: kháng
cholinergic, kháng histamin, lợi tiểu...
Hậu quả của nhiễm nóng
Nhiễm nóng có thể khiến bệnh nhân mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn, mất ý thức
Vì bất cứ lý do nào nếu cơ thể không thoát được nhiệt sẽ dẫn tới các biểu hiện: chóng
mặt, mệt, dễ xúc cảm, buồn nôn và nôn, tiêu chảy, lú lẫn, sảng, mờ mắt, co giật, trụy
tim mạch và mất ý thức. Da bệnh nhân nóng, lúc đầu lấp xấp mồ hôi, sau đó khô. Mạch
nhanh mạnh lúc đầu, huyết áp đầu tiên tăng nhẹ nhưng sau đó hạ huyết áp, thân nhiệt đo
ở trực tràng thường trên 41oC. Điển hình rối loạn do nóng gồm các thể sau:
- Ngất: thường gặp ở người lao động vất vả khoảng hai giờ hay hơn ngoài trời nắng.
Bệnh nhân bị mất ý thức đột ngột có thể do giãn mạch da, dẫn đến hậu quả là hạ huyết áp
toàn thân và hạ huyết áp não (huyết áp tối đa dưới 100mmHg). Bệnh nhân có triệu chứng
da lạnh và ẩm, mạch yếu.
- Chuột rút: hầu hết các trường hợp bị chuột rút xảy ra sau khi bệnh nhân hoạt động
mạnh ở các nhóm cơ bị ảnh hưởng. Do cơ thể bị mất nước và chất điện giải gây nên tình
trạng “chuột rút”, có khi cơ bị co rút mạnh, kéo dài 1-3 phút, nhất là các cơ phải cử động
nặng. Chuột rút xảy ra do mất muối khi ra mồ hôi mà chỉ bù nước đơn thuần. Da bệnh
nhân ẩm và mát, các cơ thì căng, hoặc cơ bị co rúm. Bệnh nhân có thể bị kích động và
đau nhiều ở cơ bị chuột rút. Thân nhiệt bình thường hoặc hơi tăng. Các cơ bị chuột rút
cứng và nổi cục.
- Kiệt sức: bệnh nhân hoạt động nặng kéo dài, mà không được tiếp nhận đủ nước và
muối trong môi trường nóng sẽ dẫn đến mất nước, mất muối, mất dịch đẳng trương kèm
theo các rối loạn tim mạch. Có thể bị ngất hoặc chuột rút do nóng. Bệnh nhân rất khát và
yếu, kèm theo các triệu chứng: đau đầu, mệt, dị cảm đầu chi, lo âu, giảm thích ứng; thở
nhanh, tăng thông khí thứ phát sau kiệt sức do nóng có thể dẫn tới nhiễm kiềm hô hấp,
nhiệt độ lấy ở trực tràng trên 37,8oC, nhịp tim nhanh, da ẩm. Bệnh có thể tiến triển tới sốc
do nóng nếu ngừng ra mồ hôi.
- Đột quỵ nóng: là một cấp cứu do đe dọa tính mạng bệnh nhân. Bệnh diễn biến có hai
thể: một là đột quỵ nóng xảy ra ở bệnh nhân mà cân bằng nội mô có tổn hại; hai là đột
quỵ nóng gắng sức xảy ra ở những người vẫn khỏe mạnh nhưng phải lao động gắng sức
trong môi trường nhiệt độ cao. Đột quỵ do nóng có thể gây tử vong do tổn thương não,
tim mạch, gan hay thận. Điểm đặc thù của đột quỵ nóng là rối loạn chức năng não làm
suy giảm ý thức, sốt cao, không có mồ hôi. Các yếu tố nguy cơ gồm: trẻ nhỏ, người trên
65 tuổi, bệnh nhân suy nhược lâu ngày, hoặc đang dùng các thuốc: kháng cholinergic,
kháng histamin, các phenothiazin gây cản trở cơ chế thoát nhiệt. Đột quỵ nóng do gắng
sức xảy ra đột ngột trụy tim mạch và mất tri giác, sau đó rối loạn hành vi. Khoảng 25%
bệnh nhân đột quỵ nóng có triệu chứng báo trước nhiều phút đến nhiều giờ gồm: chóng
mặt, yếu mệt, buồn nôn, lẫn lộn, mất định hướng, lơ mơ và hành vi rối loạn, nhiệt độ đo ở
trực tràng lên tới 41oC.
Xét nghiệm thấy mất nước, tăng uric máu, máu bị cô đặc, giảm tiểu cầu, giảm kali, calci
và phospho huyết thanh; tăng thời gian máu đông, máu chảy, tổn thương cơ tim, tổn
thương gan, thận, nước tiểu cô đặc...
Cách xử trí khi bị nhiễm nóng
- Cần nhanh chóng hạ nhiệt độ: làm mát bằng các phương tiện như quạt điện, máy điều
hòa nhiệt độ, lau hay phun bằng nước mát (15oC) khắp người bệnh nhân... Tích cực điều
trị cho đến khi nhiệt độ ở trực tràng giảm xuống đến 39oC, hầu hết các trường hợp nhiệt
độ duy trì ổn định nhưng cần theo dõi trong 24 giờ. Không dùng các thuốc hạ nhiệt như
aspirin, acetaminophen vì không có tác dụng. Chú ý đến biểu hiện suy thận, hạ kali huyết,
loạn nhịp tim, đông máu nội mạch rải rác và suy gan. Bồi phụ nước và điện giải để bảo
đảm cung lượng nước tiểu trên 50ml/giờ.
- Bệnh nhân cần ăn uống đủ chất: tăng cường ăn canh, rau, uống nước trái cây như
nước chanh, nước cam...
Bệnh nhân cần ăn uống đủ chất để tăng cường sức khỏe chống nhiễm nóng
Phòng trúng nóng
Những người phải lao động, luyện tập ngoài trời nắng nóng cần được hướng dẫn để tự
phát hiện các triệu chứng sớm của rối loạn do nóng. Khuyến khích mọi người khi hoạt
động ngoài nắng cần uống nước thường xuyên và nên uống dung dịch oresol. Tập thích
nghi với khí hậu nóng với thời gian và cường độ lao động tăng dần cho cơ thể thích ứng.
Những người không thường xuyên hoạt động ngoài trời khi đi nắng cần đội mũ nón rộng
vành, không ở lâu ngoài trời nắng.
Theo ThS. Nguyễn Hoàng Lan - Sức khỏe đời sống
- Xem thêm -