BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
NGUỒN GỐC RA ĐỜI PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ
HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
HỌC VIÊN: NGUYỄN NGỌC HÂN
Tháng 3/2018
Đặt vấn đề
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người, của
từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với
cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ.
Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên của
nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó.
Phật giáo khởi nguồn từ Ấn Độ truyền đi khắp các vùng lân cận. Trước hết sang
các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền nam
Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Mỗi khi Phật giáo vào
nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mỗi nước
có tinh thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với con người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ
thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xả, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám
rễ vững chắc trên đất nước Việt Nam. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì các triết lý của Phật
giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của người dân lao động nên số theo Phật
giáo ngày càng tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào
đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ trong giai đoạn đầu của
lịch sử dân tộc mà ngay cả trong đời sống xã hội ngày nay. Vì vậy việc tìm hiểu về
Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần người dân ta là
hết sức cần thiết.
Do đó tôi đã làm đề tài này với mục đích sau:
Nghiên cứu nguồn gốc và sự ra đời của Phật giáo, sự ảnh hưởng của nó đến xã
hội, con người Việt Nam.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: NGUỒN GỐC, QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
I. Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo.
Phật giáo là một đạo giáo hòa bình tràn đầy đức tính từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình
đẳng, vô ngã, vị tha… Hiện nay Phật giáo được truyền bá trên toàn thế giới.
Nguồn gốc Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, giáo chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni.
1. Bối cảnh Ấn Độ thời Đức Phật
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người
Aryan trào vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ được phân chia thành bốn giai cấp là
Đạo sĩ( Bà La Môn), Vua quan( Sát Đế Lợi), Công Nông Thương( Phệ Xá) và Nô
lệ( Thủ đà la). Gia đình chuyển thành phụ hệ
Về tư tưởng tôn giáo
Dù nhiều đạo giáo vẫn tồn tại nhưng giáo sĩ Bà La Môn truyền bá tư tưởng nhất
thần. Triết lý tôn giáo phủ nhận vai trò của con người đối với cuộc đời và cả thế
giới khách quan. Kết quả là sinh ra hai xu hướng là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi
theo dòng đời hưởng lạc thú vật chất. Từ hai mặt xã hội và tong giáo, người dân
Ấn Độ mất niềm tin, mon ước có một vị cứu tinh ra đời để xóa bỏ giai cấp bất
công và ổn định tư tưởng tôn giáo, đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Trong
bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời.
2. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
a. Thái tử Tất Đạt Đa:
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chi thành nhiều nước
nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên Trung Quốc, thời 12
sứ quân ở Việt Nam.
Trong các nước đó, quốc gia giàu mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ( Kapilavastu), phía
bắc trung Ấn, nay là pipsava, phía nam nước Nepal. Nhà vua trị vì nước đó có tên
là Tịnh Phạn(Sudhodana). Năm 204 trước Công Nguyên, hoàng hậu MaDa(Maya)
hạ sinh được một hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ
Ni(Lumbini) dưới gốc cây Ưu Bát La thường gọi là cây Vô Ưu(Asokaa) có hoa
màu sắc rực rỡ.
Thái tử có tên là Tât Đạt Đa lớn lên, Thái tử văn võ song toàn, có vợ là công chúa
Da Du Đà La( Yasodara), con vua Thiện Giác. Cuộc sống Thái tử rất đầy đủ,
không thiếu một thứ gì trên trần gian.
b. Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia, tu hành và thành đạo
trong bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc sống con người
cậy mạnh hiếp yếu…. Năm 29 tuổi Thái tử đã thoát ngục vàng, đến bên dóng A
Nô Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Sau thời gian theo học 6 năm, Thái tử thấy con người
hưởng lạc sẽ bê tha thối nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con
đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế Thái tử bỏ 5 anh em ông
Kiều Trần Như, dùng bát sữa của Tu Xá Đề xuống sông Ni Liên tắm rửa rồi lên
thiền dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại. qua 49 ngày chiến đấu với nội ngoại
ma, Thái tử đã chứng tam minh là túc mạng minh, Thiên nhân minh, lậu tân minh
và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi.
c. Đức Phật giáo hóa và Niết Bàn:
Thành Phật rồi, Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo hóa năm người bạn cùng
tu khổ hạnh ngày trước cùng nhóm Kiều Trần Như với Phái Tứ đế.
Khắp vùng Ngũ Hà suốt 45 năm, Đức Phật thuyết pháp trên 300 hội, vào tận hàng
cùng ngõ hẻm một cách tận tụy và rộng rãi. Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu
kim cho một bà già mù lòa; săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh. Vì từ bi bình
đẳng, Đức Phật đã nhận cái tát của một em bế cúng dường, nhận thức ăn dư thừa
của một tiện nữ dâng cúng. Phần còn cho người dâm nữ vào giáo hội. Với hiếu
đạo, Phật đã đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn. Phật đã giáo hóa không
lúc nào ngừng nghỉ. Phật đã làm mọi việc dù là rất nhỏ… Tất cả việc làm của Phật
đềm có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật đến rừng Sala
vào Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào năm 80 tuổi.
II. Quan điểm triết học của Phật giáo
Qua bao nhiêu thăng trầm của Lịch sử, mãi đến ngày nay, Phật giáo đã không
những vẫn tồn tại mà còn lan truyền khắp thế giới và được nhiều tầng lớp xã hội
tôn kính, lưu tâm tìm hiểu. Được như thế, ngoài nhân cách của Đức Phật còn nhờ
giáo lý, giáo luật, lễ nghi của Phật Giáo.
1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan.
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của
ba cặp phạm trù: Vô ngã, vô thường, và Duyên.
Vô ngã: cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị
thần nào đó sang tạo ra mà đã được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố: Sắc và
Danh. Trong đó Sắc là yếu tố vật chất, có thể cảm giác được. còn Danh là yếu tố
tinh thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Danh và Sắc hợp lại với nhau tạo
thành Ngũ Uẩn nào đó. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời, không có sự
vật riêng biệt nào đó tồn tại mãi mãi. Do đó không có cái gọi là Tôi.
Vô thường: tức là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh- trụ- dịdiệt. Vậy thì có có không không luân hồi bất tận, có đó rồi lại không, cái còn mà
chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy: Cái gì có trong thế gian là biến đổi, hư hại, vô thường, vì vậy, vô
thường nghĩa là không thường, không ở mãi trong một trạng thái nhất định, luôn
luôn thay đổi hình dạng, từ hình thành biến đổi, đến tan rã. Vô thường là phương
pháp chỉ rõ mặt trái của đời, bài trừ sự mê lầm, ngăn chặn con người chạy theo vật
dục. Nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự
vật từ tâm đến hoàn cảnh. Hiểu lý vô thường con người dễ giữ được bình tĩnh, thản
nhiên trước cảnh đổi thay bất thường.
Duyên: tất cả các sự vật hiện tượng trong vũ trụ, từ những cái vô cùng nhỏ đến
những cái vô cùng lớn đều không thoái khỏi sự chi phối của nhân duyên: cái nhân
nhờ có cái duyên mới sinh ra mà thành quả, quả lại do cái duyên mà thành ra nhân
khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới… cứ thế, nối tiếp nhau vô
cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật
nhân quả. Nhân là cái mầm, quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và
quả là 2 trạng thái nối tiếp nhau, nương tự với nhau. Không có nhân không thể có
quả, không có quả thì không thể có nhân, Nhân nào gieo quả đó.
Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần: thể xác
và tinh thần, Hai thành phần ấy kết hợp tạo Ngủ Uẩn. Mỗi con người cụ thể có
Danh Sắc, Duyên hợp Ngũ uẩn thì là ta, Duyên tan Ngũ Uẩn thì không còn ta, là
Diệt nhưng không phải là mất đi mà trở lại với Ngũ Uẩn. ngay cả các yếu tố của
Ngũ Uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luật nhân quả không ngừng.
Cho nên có người cứ biến hóa, vụt sinh ra, vụt mất đi, không có sự vật riêng biệt
tồn tại mãi mãi, không có cái tôi thượng đỉnh. Cái tôi hôm qua không còn là cái tôi
hôm nay nữa. Vì không nhận thức được cái gọi là biến ảo(Maya), vô thường, vô
định của vạn vật mới là thường hằng chân thực; Không nhận thức được rằng: cái
tôi có mà không, không mà có, nên người ta thường lầm tưởng tồn tại mãi mãi, cái
gì cũng thường định, cái gì cũng là của ta, là ta, do ta nên con người cứ khát ái,
tham dục, hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn dục vọng đó,
tạo nên những kết quả, gây nghiệp báo, mắc vào bể khổ triền mien không
dứt( Samsara). Đã mắc vào sự chi phối của quy luật nhân duyên là chịu nghiệp báo
và kiếp luân hồi. Đó là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ của con người trong Phật
giáo.
2. Quan điểm của Phật giáo và nhân sinh quan
a.Quan điểm của Phật giáo về nghiệp:
Nghiệp có nghĩa là hành động hay việc làm. Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường
có ý muốn làm động cơ khởi xướng. Phật giáo gọi ý muốn hay ý chí ấy là tác ý.
Nghiệp báo là một định luật nhân quả trong lĩnh vực luân lý hay như người
Phương Tây gọi đó là ảnh hưởng của hành động.
Có vài ý kiến cho rằng thuyết nghiệp báo là loại xoa dịu, ru ngủ những con người
xấu số. Nhưng Đức Phật không hề dạy thế, thuyết nghiệp báo trong Đức Phật cũng
không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán sử sau kiếp sống. Theo lý nghiệp
báo chúng ta không nhất thiết bị trói buộc trong một hoàn cảnh nào đó vì sự
nghiệp báo không phải là số mệnh cũng không phải là tiền định do một ma lục
huyền bí đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta có đủ năng lực để
chuyển một phần nào cái nghiệp của chúng ta theo ý muốn.
b. Quan điểm của Phật giáo về Tứ Diệu Đế:
nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện trong thuyết Tứ Diệu Đế
mà Phật giáo xem là bốn chân lý vĩ đại. Thông điệp Tứ Diệu Đế gồm hai mặt:
Nhận thức và Hành động. đó là 4 chân lý huyền diệu, chắc chắn, hiển nhiên, bao
gồm:
Khổ Đế(Dukkha): là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Theo đạo Phật thực tại nhân
sinh là khổ ải; ngoài nỗi khổ do sinh, lão, bệnh, tử gây nên chô con người còn có
nỗi khổ vì không ưa mà hợp là khổ, ưa mà phải lìa là khổ, mong không được cũng
khổ, được cũng khổ mà mất cũng khổ. Đời là bể khổ.
Tập Đế(Samarudays): là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổi. Con người trong thế
giới hiện thực này khổ vì đâu? Nguyên nhân trực tiếp là do con người có lòng
tham, sân si, con người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay đổi,
muốn trường tồn nhưng thực tại lại luôn biến hóa trong vòng sinh, lão, bệnh, tử;
không có cái gì thực là ta, của ta. Do đó tạo nên cho con người những nỗi khổ triền
miên trong cuộc đời. Để giải thích cho căn nguyên đó Đức Phật đã nên ra thuyết”
Thập nhị nhân Duyên” gồm: Vô minh, hành , Thức, Danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái,
Thủ, Hữ, Sinh, lão, tử.
Diệt đế(Nirodha); là chân lý diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân
gây ra nỗi khổ bị loại trừ. Lần theo Thập Nhị Nhân Duyên tìm ra cội nguồn của
nỗi khổ và ái dục, dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ đưa
chúng sinh thoái khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt đến cảnh trí Niết Bàn(Nirvana).
Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát. Trạng thái Niết Bàn, thường
trụ, Chính quả không thể lý giải được mà là tự mình giác ngộ. Mục đích của Phật
tử là thực hiện Niết Bàn, khi đang tu dưỡng là thực hiện Niết Bàn từng phân, khi
giác ngộ rồi là thực hiện được Niết Bàn toàn phần và trở thành Phật.
Đạo đế(Marga): là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ, nói về những con đường,
cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết Bàn. Con đường diệt khổ, giải thoát
và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức, rèn luyện tư tưởng và khai sáng trí tuệ.
Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm “Bát Chánh Đạo” đó là:
Chính kiến: hiểu biết đúng đắn, kiến giải chính xác
Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn
Chính Nghiệp: hành động chân chính, thực hiện ngũ giới( Không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối)
Chính ngữ: lời nói chân chính, trung thực.
Chính mệnh: kiên định, tập trung vào con đường chân chính, không để bất cứ điều
gì làm nay chuyển, phân tâm.
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ; Chính ngữ,
Chính Nghiệp, Chính Mệnh thuộc về Định.
Đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu nghiệp là:
Ngũ Giới, Lục độ… Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên, Đạo
Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tứ phát. Về chính chị xã
hội thì Đạo phật là tiếng nói phản ánh chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, Tố cáo chế độ
xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước vọng giải
thoát con người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời… Tuy nhiên trong luận thuyết về
nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng phật giáo còn hạn chế, mang nặng tính
bi quan, yếu thế về cuộc sống, chủ trương xuất thế, siêu thoát có tính chất duy tâm,
không tưởng về những vấn đề xã hội.
Sau khi Đức Phật tạ thế, các đệ tử của Người đã định kỳ họp lại. và tại các cuộc
họp càng về sau sự bất đồng ý kiến giữ các chư tăng trong việc hiểu và giải thích
kinh phật ngày càng gay gắt. hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm hai phái. Phái
của các vị trưởng lão gọi là Thượng Tọa(Theravada) theo xu hướng bảo thủ, chủ
trương bám sát kinh điển, giữ nguyên giáo luật; Phật tử chỉ giác ngộ cho bản thân,
Chỉ thờ Đức Phật Thích Ca và chỉ cầu sớm chứng quả La Hán. Phần đông tăng
chúng còn lại không chị nghe theo, họ khai hội nghị riêng, lập ra phái Đại
Chúng( Mahasanghika) chủ trương không câu nệ, cố chấp vào kinh điển, khoan
dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật, thu nạp rộng rãi tất cả những ai
muốn quy y, giác ngộ, giải thoát cho nhiều người, thờ Phật và nhân vật tiêu biểu là
Bồ Tát.
Tại các lần kiến tập thứ 3-4, Phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng và tự xưng là
Đại Thừa(Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn và gọi phái Thượng Tọa gọi là Tiểu
thừa( Hinamyana) nghĩa là cỗ xe nhỏ.
Phái Đại Thừa phát triển lên phương Bắc nên được Bắc Tông, được phổ biến sang
Trung Hoa, Nhật bả, Triều tiên… Còn phái Tiểu Thừa phát triển xuống phía nam
nên được gọi là phái Nam Tông, từ trung tâm Srilanca phát triển sang các nước
đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kinh sách Đại thừa viết bằng tiếng Sanscrit,
còn kinh sách Tiểu thừa viết bằng tiếng Bali.
Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
I.Quá trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.
1. Bối cảnh ở Việt Nam:
Nước Việt Nam có hình chữ S, thuộc bán đảo Đông Dương, có vị thế 7/10 bán đảo
Đông Dương, Tiếp giáp với Biển Đông, và vịnh Băng Gan, Được cánh thành từ
các dãy núi chạy từ Tây Tạng đến phía Đông và xòe ra biển như hình rẽ quạt. Giữa
các rặng núi là những thung lũng tạo thành các miền cao nguyên, bình nguyên và
các sông lớn.
Địa thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông dân nhất thế giới là Trung
Quốc và Ấn Độ. Hai quốc gia này có nền văn hóa rất sớm đối với nhân loại, trong
đó có Việt Nam.
Người Việt Nam, theo truyền thuyết thuộc nòi giống Tiên Rồng. Nhưng theo các
nhà sử học, dân tộc học Việt Nam được hình thành theo những thuyết như sau:
a. Tổ tiên Việt Nam ở gốc Tây Tạng: Vì đời sống, một bộ lạc theo lưu vực sông
Hồng, dân hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt- hạ lưu sông Dương tử bị nước Sở
đánh đuổi. Để lánh nạn người Việt chạy về phía nam miền Quảng Đông, Quảng
Tây rồi từ từ đến bắc Việt và Bắc Trung Việt. Cũng Từ đó người Việt có truyền
thống Nam tiến.
b. Theo các nhà nhân chủng học thời thượng cổ: Giống người Indonesia bị giống
người Aryan đánh đuổi, họ bỏ Ấn Độ chạy đến bán đảo Ấn Độ Chi Na. số người
chạy về phí Nam thành lập nhà nước Campuchia, Chiêm Thành theo văn hóa Ấn
Độ. Còn số người ở phía Bắc kết hợp với giống Mông Cổ thành người Việt Nam.
c. Theo các nhà dân tộc học: Việt Nam nằm ở giữa khu vực nối liền Ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương, chịu 2 nền văn hóa cổ nhất là Ấn Độ và Trung Quốc. Vì thế
Việt Nam là vùng quy tụ của các thành phần dân tộc khác nhau với tám nhóm
ngôn ngữ: Mường, Thái, Dao, Khowmer, Chăm, Nam Á… Nhưng thành phần
người Kinh chiếm phần lớn và có ưu thế hơn.
Người Việt Nam có nhiều đặc tính quý báu: Thông minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn
lại, yêu nước, yêu chuộng hòa bình, độ lượng, hài hòa… tinh thần tự lập tự cường,
ý chí độc lập, đoàn kết, hợp quần…
2. Thời đại Phật giáo du nhập
Qua lịch sử Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con đường
truyền qua Trung Quốc. Theo quyển” Cổ sử các nước Ấn Độ hóa ở vùng Viễn
Đông” và quyển RomancoisnINDIA-1964P.559-683 của R.Sewedl trong những
năm đầu của công nguyên, các thương nhân hàng hải Ấn Độ qua miền Viễn Đông
để buôn bán, Đạo Phật đã theo đường thủy qua Srilanca, Java, Indonesia, Ấn Độ
Chi Na và Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé lại, nơi thừa tự được lập để
nguyện cầu bình an, may mắn. Từ đó, tư tưởng tôn giáo được thiết lập.
Theo quyển “Ngô Chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ Nhiếp trong
buổi loạn lạc thi giữ yên quận Giao Châu, giúp người dân an cư lạc nghiệp. Vì thế
ông được người dân bản xứ tôn kính. Đi đâu ông cũng có người Hồ đi theo 2 bên
đường. Mà theo Sylvainlein, Hồ là từ mà người Trung Quốc dùng để chỉ người
Trung Á hay Ấn Độ. Như vậy người Ấn Độ có nhiều ở Giao Châu lúc bấy giờ.
Bản thân Sĩ Nhiếp cũng đi theo Phật đi đâu cũng có các nhà sư đi theo… Như vậy
chứng tỏ đạo Phật là do các nhà sư Ấn Độ đem vào Việt Nam cuối thế kỷ thứ 2.
Và một số cách khác cho thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu ở Việt Nam từ
đầu thế kỷ do các nhà buôn đem vào. Rồi thực sự có các nhà sư theo thuyền buôn
đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng 2 con đường là
đường thủy và đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu, Phật Giáo đã có một
trung tâm lớn tại Luy Lâu(Một trong 3 trung tâm lớn của đế quốc nhà Hán) trụ sợ
của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan trọng của Phật
Giáo. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Kasudla đã xuất hiện trong truyền
thuyết đầu tiên về Phật Giáo Việt Nam với Thạch Quang Phật và Mang Nương
Phật Mẫu. Từ Đây những nhà sư Ấn Độ như Marajivaka, Kasudara, K`ang-senghouei, karuci, Meou-Po.
Do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam nên ngay từ đầu
công nguyên từ Buddha tiếng Phạm đã được phiên âm sang Tiếng Việt là Bụt.
Phật giáo Giao Châu lúc này mang màu sắc của Tiểu Thừa Nam Tông, và trong
mắt Việt nông nghiệp thì Bụt được hình dung như là một vị Thần dân dã toàn năng
có mặt ở khắp nơi, luôn sẵn sàng xuất hiện để cứu người tốt và trừng trị kẻ xấu.
Sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của Phật giáo Đại Thừa Bắc Tông từ
Trung Hoa tràn vào không bao lâu, nó đã lấn án và thay thế luồng Nam Tông có từ
trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng Hán rồi phiên âm sang tiếng Việt
thành Phật. và từ đây Phật dần dần thay thế từ Bụt.
Từ Trung Hoa có ba tong phái Phật được truyền vào Việt Nam đó là: Thiền tong,
Tinh Độ tong, và Mật tong.
Việt nam là xứ nông nghiệp, thiên nhiên ít được ưu đãi,, nhiều thiên tai bão lụt,
con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,…. Bởi thế Phật giáo rễ dàng được du
nhập
Mật tông là tông phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như dùng Linh
thù, mật chú, ấn quyết… để mau chóng đạt đến giác ngội và giải thoát. Ở Việt
Nam, mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa
vào dòng tín ngưỡng dan gian.
Tịnh độ Tông, với pháp môn niệm Phật cầu Vãng sinh, lớp Bình dân dễ dàng tin
theo. Phép tu chỉ có niệm Phạt A Di Đà. Dù chưa dứt hết nghiệp , su khi chết
người chuyên niệm Phật vẫn sẽ được Vãng sinh cực lạc.
Thiền tông là Pháp môn thấy dễ mà khó. Thiền không khéo sẽ bị tẩu hỏa nhập ma,
điên loạn, mất bình thường. Tuy nhiên người Việt Nam vẫn tiếp nhận và cũng Khá
phổ biến trong các nhà sư và tri thức.
II.Những đặc điểm cơ bản của Phật giáo ở Việt Nam
1.Tính tổng hợp:
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp. Khi vào Việt Nam , Phật giáo đã tiếp
xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, do đó, đã tổng hợp chặt
chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp” kết hợp việc thờ Phật với thờ các vị
thần tự nhiên như Mây-Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc của chùa chiền
Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đua vào chùa các thần, thánh, các thành
hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu
như không một chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong
hồn đã mất.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau nên không
có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông chủ trương
bất lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sư đã để lại khá nhiều trước tác giá
trị.
Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặc chẽ con đường giải thoát bằng tha
lực,phối hợp Thiền tông với tịnh độ tông(niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát)
Chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho tượng
Phật, Bồ- tát, La- hán của các tông phái khác nhau. Còn ở phía Nam, Đại Thừa và
Tiểu Thừa kết hợp mật thiết với nhau trong đó: nhiều chùa mang hình thức Tiểu
Thừa (thờ Phật Thích-ca. việc mặt áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên
cạnh tượng Phật Thích-ca lớn vẫn có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng
vẫn sử dụng đồ nâu và đồ lam.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo với việc đời. Tuy
là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế: các cao
tăng được nhà Nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự
gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức không chỉ có các nhà sư tham gia vào
chính sự, mà các thời Lý- Trần còn khá nhiều vua quan quý tộc đi tu( thiền phái
Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử).
Với truyền thống gắn bó giữa đạo với đời, đầu thế kỉ 20, Phật tử Việt Nam hăng
hái tham gia vào các hoặc động của xã hội như cuoccj vận động đơi ân xá cho cụ
Phan Bội Châu và đám tan cụ Phan Châu Trinh. Thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn
Văn Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi
hòa bình và độc lập, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh chống lại
nền độc tài chuyên chế của gia đình họ Ngô năm 1963. Đặc biệt là sự kiện hòa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độ độc tài đó. Trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một bộ phận không nhỏ các tăng
ni Phật tử đã tạm lột bỏ lớp áo cà sa để cùng nhân dân cả nước cầm súng đánh giặc
cứu nước
2. Xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính:
Đây là đặc trưng nổi bật thứ hai của Phật giáo Việt Nam- đặc trưng bản chất của
nền văn hóa nông nghiệp.
Các vị thần Ấn Độ vốn xuất thân là những vị đàn ông, sang Việt Nam biến thành
Phật ông Phật Bà. Phật Bà Quan Âm( biến thể của từ Quán Thế Âm Bồ Tát) trở
thành vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước vốn là địa bàn của cư dân
Nam Á. Đặc biệt, người Việt Nam còn có những Phật Bà riêng của mình, do mình
tạo ra như: đứa con gái của nàng Man, tương truyền sinh ngày 8-4, được xem là
Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man trỏ thành Phật mẫu.
Ở nước ta có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà như: chùa Bà Dâu, chùa Bà
Đá, chùa Bà Đanh… và tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia cũng là các bà.
3. Tính linh hoạt:
Tính linh hoạt này đã khiến cho khi vào Việt Nam, Phật giáo đã bị Việt Nam hóa
mạnh mẽ. Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức,
trung thực hơn là việc đi chùa:”Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu
chùa”. Coi trọng truyền thống thờ ông bà cha mẹ hơn là thờ Phật.
Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần tín ngưỡng truyền
thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi tai họa. Hơn nữa vì muốn giữ
cho Phật giáo ở mãi bên mình, người Việt Nam nhiều khi phá cả giới luật. Người
Việt Nam giao tiếp theo nguyên tắc” xưng khiêm hô nhường” nên các vị Bồ tát,
hòa thượng mà người Việt Nam yêu quý đều được tôn làm Phật hết: Phật bà Quan
Âm( vốn là Bồ tát), Phật Di-Lặc( vốn là hòa thượng). Còn tượng Phật Việt Nam
vốn mang dáng dấp hiền hòa của người Việt Nam.
III. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam:
Như đã trình bày ở các phần trước, Phật giáo là một học thuyết về sự giải thoát,
toàn bộ ọc thuyết hướng về con người tư tưởng giải thoát. Đồng thời, nó cũng là
học thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đè bình đẳng, bác ái. Vì vậy, ngay sau khi
được các nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được nhân
dân ta tiếp nhận một cách tự nhiên và phát triển. Do thâm nhập một cách hòa bình,
ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp.
Cho đến nay Phật giáo vẫn là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất ở Việt Nam.
Đạo Phật thân thiết với người Việt Nam đến nỗi dường như một người Việt Nam
nếu không theo một tôn giáo nào khác, ắt là theo Phật hoặc chí ít là có cảm tình
với đạo Phật.Điều đó cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần
của nhân dân ta mạnh mẽ đến nhường nào.
Với truyền thống gắn bó đạo với đời, ngay từ thời Đinh- Tiền Lê, Lý, Trần…Các
sư đều tham gia chính sự. Ngoài ra, vào các thời Lý- Trần, còn khá nhiều vua quan
quý tộc đi tu như vua Trần Nhân Tông…
1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lí của Phật giáo là đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh
Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo nguyên thủy cũng
như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng người dân Việt. Về giáo lí nghiệp báo hay nghiệp
nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giaos lí này đã trở
thành nếp sống tín ngưỡng đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ.
Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân
mà còn ảnh hưởng đến giới trí thức. Vì thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã in dấu
ấn đậm nét trong văn chương bình dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ xưa cho
đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lí nhân
quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho mọi
người. Mỗi người dân Việt Nam đều biết câu” ác giả ác báo”. Mặt khác, họ hiểu
rằng nghiệp nhân quả không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đởi, do đó họ
tự biết sửa chữa, tu tập cải ác thành thiện. Từ những hành động thiện, giảm bớt
điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta một cuộc sống yên vui.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí:
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo
đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt Nam. Tinh thần
thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao, tục ngữ rất phổ biến
trong quần chúng Việt Nam như: “ lá lành đùm lá rách”, “ nhiễu điều phủ lấy giá
gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là những câu ca dao
tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng thấm nhuần và thuộc lòng, nói lên
lòng nhân ái vị tha của người Việt Nam.s
Ngoài đạọ lí Từ Bi, người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của Đạo lí Tứ Ân, gồm:
ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đó ân cha mẹ là nổi
bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lí người Việt bởi vì đạo Phật
đặc biệt chú trọng đến chữ hiếu, như thế là, phù hợp với đạo lí truyền thống của
dân tộc Việt.Đạo lí Tứ Ân còn có chung động cơ thúc đẩy từ bi hỉ xa khiến con
người ta sống hài hòa với xã hội,thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc dích thực và
bền vững
3.Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán:
a.Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống văn
hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát
sinh mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau trong
từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi hỷ xả của Phật giáo. Do
hiệu quả của việc ăn chay trong việc tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, nên
người Việt Nam dù là Phật tử hay không đều thích ăn chay.
Ăn chay và thờ Phật là hai việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Dù không
phải là Phật Tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh về Phật giáo để trang trí cho
đẹp và nghiêm trang.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu đời.
Tục này xuất phát từ lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và được xem là
một dạng tín ngưỡng quan trọng của người Việt Nam. Vào những ngày rằm, mùng
1 những gia đình không theo đạo Phật cũng mua hoa quả thắp nhang trên bàn thờ
tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn
sâu vào đời sống tinh thần. Đến ngày rằm và mùng 1, người Việt thường mua
chim, cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân cũng thích
làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Tuy nhiên, trong xã
hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu hẹp.
Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên tai,
hoạn nạn, hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc: lá
lành đùm lá rách.
b. Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa:
Tập tục đến chùa đẻ tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét phong tục
lâu dời “ đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ
Phật giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật…thực sự đã trở thành ngày hội
văn hóa của người dân.Những ngày lễ lớn như trên của Phật giáo đã là chất keo
gắnời dân với nhau và ảnh hưởng ngày càng sâu đậm trong nhân dân.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong qua trình tồn tại và phát triển đã
chịu tác động của trào lưu văn hóa khác nhau,nhất là từ Trung Quốc,trong đó Phật
giáo đã dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì không ít các tập tục
dân gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay.Nhưng không phải tất cả các tập tục có sự
ảnh hưởng của Phật giáo đề là tốt cả mà trong đó có tập tục cần phải chắt lọc lại
như tập tục xin xăm bói quẻ,cúng sao hạn,coi ngày giờ,đốt vàng mã để phù hợp
với chính pháp.Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại
4.Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa nghệ thuật:
a.Ảnh hưởng qua ca dao,thơ:
Tư tưởng đạo lý Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao
dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở,khuyên rằn dạy bảo với
mục đích xây dựng cuộc sống yên vui,phù hợp với truyền thống đạo lý dân tộc
Việt Nam.Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu,lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo
ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người dân đã được thể qua
ca dao dân ca ví dụ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
b.Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:
Tính triết lý nhân quả báo ứng của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các bài
ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý Phương Đông và nếp sống truyền thống của
dân tộc, giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”… được các soạn giả thể
hiện trong các vở cải lương…. Ví dụ: “Quan Âm Thị Kính”. Ngoài ra cón có các
vở chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Phật giáo như các vở: “Phạm Cồng Cúc
Hoa”, “ Tấm Cám”, “Kim Vân Kiều”…
KẾT LUẬN
Qua những điều đã trình bày như trên về Phật giáo nói chung cũng như Phật
giáo khi vào Việt Nam,ta nhận thấy:
Phật giáo là một học thuyết triết học vô thần về sự giải thoát.Toàn bộ học
thuyết hướng con người đến tư tưởng giải thoát;đồng thời cũng là một học thuyết
về đạo đức,đề cập đến vqaans đề bình đẳng,bác ái.Vì thế mà sau khi đượ các nhà
sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam từ đầu công nguyên,Phật giáo đã nhanh chóng được
nhân dân tiếp nhận một cách tự nhiên và ngày càng phát triển
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt
Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đạo Phật đã ảnh
hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học,
nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp sống nếp nghỉ.... Tìm hiểu và nghiên
cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Việt", chúng ta càng
thấy rõ nhận định trên. Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm
mỹ cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng
của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội
nghiệp", "hằng hà sa số", "ta bà thế giới"... là điều phổ biến trong quan hệ ứng xử
giữa mọi người. Qua quá trình lịch sử, traõi qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của
đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỗ đứng vững chắc trong lòng
của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật giáo đã đóng góp
cho dân tộc ta nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
yếu tố mang tính truyền thống, hình thành nhân cách, bản lĩnh và bản chất
của dân tộc là chủ yếu, đã gặp gỡ, hòa quyện trong những yếu tố tinh thần, tư
tưởng từ bi cứu khổ của Phật giáo Việt Nam. Những yếu tố ngoại sinh đã góp phần
lớn vào việc củng cố, duy trì vá phát triển nội hàm bản sắc dân tộc. Trong đó Phật
giáo góp phần vào việc làm phong phú thêm cá tính, đặc trưng dân tộc người Việt.
Ngược lại, chính những bản chất dân tộc đã làm giàu hơn nền văn hóa Phật giáo.
Một minh chứng của sự tác động qua lại này chính là sự kết hợp giữa truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc với tinh thần tập thể của Phật giáo Việt
Nam, đã đưa đến nét đặc thù của Việt Nam, đem lại hình ảnh sống động của Tăng
ni Phật tử qua hai cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong gần một thế kỷ nay.
Dân tộc Việt Nam, với vị trí địa lý- văn hóa đặc biệt, dù có muốn hay không
cũng tạo ra một sự hội nhập văn hóa, không phải là một sự hội nhập văn hóa bình
thường, mà là một sự hội nhập văn hóa của những tinh hoa đến từ các trung tâm
văn hóa tầm cở thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, được kết tinh trong một tôn giáo
lớn- Phật giáo. Đó cũng là một sự hội nhập mà cư dân nước Việt làm chủ, lợi ích
của dân tộc và đất nước là chuẩn mực cao nhất của sự hội nhập, sự hội nhập đó là
thử thách và kiểm nghiệm baèng một bề dày lịch sử. Qua thực tế cho thấy rằng,
Phật giáo sau khi nhập vào nền văn hóa nước ta đã tạo ra một thế ổn định xã hội
kéo dài.
Nhân dân ta, qua các thế hệ, đã làm cho các giá trị nhân bản của ñạo Phật bén rễ
sâu sắc và cắm gốc vöõng bền trong tâm hồn mình. Một phần là nhờ ở tính uyển
chuyển trong giáo lý, tính bao dung không cố chấp của đạo Phật, nhưng một phần
không nhỏ là do sức sáng tạo của người dân. Tin ở sức mình, tin ở luật Nhân - Quả
nghiệp báo, động viên nhân dân hướng tới Chân - Thiện - Mỹ, đó là công lao của
văn hóa Phật giáo, là sự saùng tạo của nhân dân Việt Nam.
Ngày nay,trong bối cảnh đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp
hóa,hiện đại hóa đất nước,mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế
giới thì Phật giáo ngày càng bị cạnh tranh gay gắt bởi các luồng tư tưởng mới du
nhập vào nước ta.Nhưng với những thành tựu mà Phật giáo đã đạt được thì ảnh
hưởng của nó sẽ còn khắc sâu trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam
không chỉ hiện nay mà còn lâu hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Xem thêm -