Đại học kinh tế quốc dân
A: PHẦN MỞ ĐẦU
Sự thành công khi thực hiện các chính sách kinh tế luôn là một mục
tiêu cơ bản của Đảng và nhà nước ta .Nếu một chính sách phát triển kinh tế
không liên quan đến kết quả của chủ thể đặt ra thì chính sách Êy cũng
không có tác dụng .Bất kẻ đất nước nào,bất kể ai dù là người đề xuất hay
có vai trò xuất sắc ở những công đoạn nào đó của chính sách cũng không
thể xây dựng chính sách theo chỉ đạo từ trên xuống như là cưỡi ngựa xem
hoa mà bắt buộc phải thực hiện từ cơ sở lên.
Nước ta muốn thực hiện chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả thì
người cầm lái phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt vấn
đề để đưa ra các phương án tối ưu.Các chính sách phải hình thành từ sự
hiểu biết một cách sâu sắc, những gì mà nó đem lại và những gì mà nó gây
ra trong hiện tại, trong tương lai gần, tương lai xa, đứng trên vĩ mô và vi
mô .
Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nền kinh tế
của chúng ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà Nước, chúng ta mong mái cho quá trình kinh tế thành công. Vì
thế không phải ai khác một tổ chức quốc gia nào khác có thể thực hiện
giúp chúng ta mà tự ta phải vận động tự ta phải tìm ra con đường phát
triển phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, điều đó đòi hỏi phải có
những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Muốn thực hiện chính sách
phát triển kinh tế có hiệu quả thì người cầm lái phải là người có hiểu biết
sâu rộng trong việc nắm bắt vấn đề để đề ra các phương án tối ưu. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ bản chất, nguồn gốc cuả
những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố chính
quyết định,thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường.Đó chính là
lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? Nguồn gốc và bản chất của lợi
nhuận là gì? Và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào đối với nền kinh tế thị
trường mà lại có thể xem nó là nhân tố chính yếu quyết định sự tồn tại và
phát triển của nền kinh tế thị trường, áp dụng lý luận về lợi nhuận như thế
nào đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Để tìm hiểu những vấn đề trên em đã chọn đề tài:
"Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường" để nghiên cứu.
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng lớn. Qúa trình nghiên cứu phải
xuất phát từ các quan điểm của các học thuyết trước Mác kết hợp với lý
luận của Mác về lợi nhuận và thực tiễn hiện nay của đất nước ta. Với
những hiểu biết còn nhiều hạn chế cùng kinh nghiệm thực tiễn còn non
kém chắc chắn đề án của em sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất
Đề án kinh tế chính trị
1
Đại học kinh tế quốc dân
mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cô.Em xin chân thành cảm
ơn.
B: PHẦN NỘI DUNG
I:NGUỒN GỐC BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN.
1.Các quan điểm trước K.Marx về lợi nhuận.
1.1.Quan điểm của trường phái trọng thương .
Khi nền phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa bắt đầu hình thành thì chủ nghĩa trọng thương bước vào thời kỳ quá
độ.Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào
thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước tây âu.Mặc dù
thời kỳ này chưa biết đến các quy luật kinh tế và còn hạn chế về tính quy
luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra
nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này
phát triển.Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có
không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị của tiền.Mục đích hoạt động của
kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận.Học thuyế kinh tế trọng thương
cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán trao đổi sinh ra.Nó là
kết quả của việc mua Ýt bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có .
Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa nêu quan hệ lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.Giai đoạn đầu của thời kỳ này các
nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối
lượng tiền không ra nước ngoài , tập trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm
tra . Bắt buộc các thương nhân nước ngoài tập trung buôn bán phải dùng số
tiền mà họ có mua hết số hàng mang về nước họ. Giai đoạn sau họ dùng
chính sách xuất siêu để có chênh lệch mang tiền ra nước ngoài để thực hiện
mua rẻ bản đắt.....
Những chính sách trên của các nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt
nông cạn chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có chiều
sâu thực chất.Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế
và đòi hỏi phải có sù thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý phải
phân nền kinh tế xã hội với tư cách là một chỉnh thể.
1.2.Quan điểm của trường phái cổ điển .
1.2.1.Quan điểm của Kene.
Đề án kinh tế chính trị
2
Đại học kinh tế quốc dân
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương sự hoạt động của tư bản chủ yếu
là trong lĩnh vực lưu thông.Do quá trình phát triển của công trường thủ
công tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất , lóc này các vấn đề kinh tế
của sản xuất đã vượt quá khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng
thương và học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện.
Kene được K.Marx đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển
và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho
việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu thặng dư
sau này . Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để phê phán chủ nghĩa
trọng thương , Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc đổi
giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá. Hai bên
không có gì để mất hoặc được cả bởi trong thương nghiệp không thể đẻ ra
được . Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản
chi phí về thương mại và của cải có thể tạo ra trong lĩnh vực nông ngiệp
chính quan điểm này đã chuyển việc nghiên cứu của cải từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực sản xuất ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm
thặng dư.Ông cho rằng sản phẩm thặng dư được chỉ được tạo ra do sản
xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp tạo ra được sản phẩm mới nhờ có sự giúp đỡ của
tự nhiên . Đây là một quan điểm sai lầm nhưng ông cũng manh nha bước
đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư.Ông cho chi phí sản xuất là
tiền lương, sản phẩm thuần tuý là chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương
đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra .
Với Petty lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và Petty cho
rằng phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý .Đó là công
lao cho sự mạo hiểm cho nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất .
Đối với A.Đ Smith thì ông cho rằng lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ
hai “ vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là
lao động không được trả công của người công nhân. Một mặt ông gắn lợi
nhuận với quá trình sản xuất, là kết quả của sự bóc lột, nhưng mặt khác
ông đã phạm phải một sai lầm đó là cho rằng lợi nhuận được tạo ra trong
lưu thông. Khi nói về lợi tức, ông xem lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận
mà nhà Tư Bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nợ để được sử
dụng Tư Bản. Ông đã thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu
hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng Tư Bản tăng lên,vạch ra
một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận với Tư Bản.
Về địa tô, A.Smith chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái trọng nông,
ông đã thấy được địa tô và lợi nhuận có cùng nguồn gốc với nhau, đều là
kết quả lao động của người khác. Địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản
Đề án kinh tế chính trị
3
Đại học kinh tế quốc dân
phẩm người lao động còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai. Về mặt chất
nó phản ánh quan hệ bóc lột.
Tuy nhiên A.Mith còn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như:
Chưa nêu ra được lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Mặt khác ông không
phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên cho rằng Tư Bản trong
lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều tạo ra lợi nhuận như nhau.
Hơn nữa ông còn quan niệm lợi nhuận là số tiền trả cho chủ xí nghiệp về
sự rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ông cũng phủ nhận
lý luận giá trị thặng dư.
1.2.2.Quan điểm của Ricacdo.
Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển
mạnh mẽ thì D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là
điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng
lại. Theo Mác thì D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp.
D.Ricardo cho rằng: “ Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà
tư bản trả cho công nhân “. Ông đã thấy được xu hướng giảm sút tỉ suất lợi
nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động
biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: Địa chủ, công nhân và nhà tư bản. Ông
cho rằng do qui luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm
ngày càng tăng lên làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng theo còn
lợi nhuận không tăng. Do đó “lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên giảm
xuống “. Như vậy theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi
cũng như không bị hại còn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm
xuống.
Mặc dù có nhiều tiến bộ so với những học thuyết trước nhưng ông
cũng vấp phải nhiều sai lầm như: ông đã giải về lợi nhuận căn cứ vào năng
suất lao động, ông không phân biệt được giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư.
Cũng xuất phát từ việc chưa phân biệt được tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá
trị thặng dư nên ông đã kết luận rằng tỷ suất lợi nhuận giảm là do tăng
lương.
1.2.3.Quan điểm của Samuelson.
Lợi nhuận trong học Theo Samuelson lợi nhuận là phần thưởng choviệc
gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền.
Ông cho rằng phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là
phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ hay do
vốn đầu tư của họ mang lại. Nếu loại bỏ tất cả các lợi tức Èn thì ta được lợi
Đề án kinh tế chính trị
4
Đại học kinh tế quốc dân
nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất
định. Doanh thu của công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng chầm trong chu
kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các trường hợp rủi ro nên họ
đòi hỏi phải có mức phí dự phòng cho các đầu tư không chắc chắn nhằm
bù đắp cho những rủi ro này.
1.3.Quan điểm của trường phái trọng nông .
Những người trọng nông cho rằng lợi nhuận thương có được chẳng qua
là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại . Vì theo họ thương mại chỉ
đơn thuần là “việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như
thế ”. Và trong quá trình trao đổi đó nếu xét nó dưới hình thái thuần tuý thì
cả người mua lẫn người bán chẳng có gì để được hay mất cả . Thương
nghiệp không sinh ra của cải. “trao đổi không sản xuất ra được gì cả ”.Trao
đổi không làm cho tài sản tăng lên ,vì tài sản được tạo ra trong sản xuất ,
còn trong trao đổi thì chỉ có sự trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử
sụng khác mà thôi.K .Marx trong khi phê phán chủ nghĩa trọng thương
cũng viết: “người ta trao đổi những hàng hoá với hàng hoá hay những hàng
hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó , tức là trao đổi những vật
ngang gía , rõ ràng là không ai rót ra được từ trong lưu thông ra nhiều giá
trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó.Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không
thể hình thành ra được ”.Điều này chững tỏ sự trưởng thành của các quan
điểm kinh tế của phái trọng nông, phản ánh một giai đoạn mới trong sự
phát triển tư tưởng kinh tế trong thế kỷ XVIII.
2.Lợi nhuận trong học thuyết của Mac – Lênin.
2.1.Sù tạo ra giá trị thặng dư.
Marx viết :tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động biểu hiện trong hàng hoá.Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là
lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình lao
động tạo ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Những yếu tố cơ bản của quá trình lao động là sức lao động và tư liệu
sản xuất. Quá trình lao động là quá trình kết hợp hai yếu tố cơ bản đó.
Quá trình lao động dưới chủ nghĩa tư bản là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng hàng hoá đã mua được, đó là hàng hoá sức lao động và tư liệu sản
xuất nên có các đặc trưng sau:
- Người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
Đề án kinh tế chính trị
5
Đại học kinh tế quốc dân
- Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Ví dô: một nhà tư bản sản xuất sợi trong một ngày:
Để sản xuất sợi , nhà tư bản cần phải mua 10 kg bông hết 10USD.
Mua sức lao động sử dụng trong một ngày hết 3USD.
Để chuyển 10 kg bông thành sợi, hao mòn máy móc hết 2USD.
Giả định trong 4 giê, người công nhân bằng lao động cụ thể của mình
đã chuyển hết 10 kg bông thành 10 kg sợi và bằng lao động trừu tượng của
mình đã tạo ra một giá trị mới là 3USD, nếu đến đây người công nhân nghỉ
thì nhà tư bản không có lợi gì. Nhưng nhà tư bản thuê công nhân trong một
ngày không phải là 4 tiếng mà có thể là 6 tiếng, 8 tiếng, 12 tiếng...Giả định
ở đây là 8 tiếng, như vậy người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 4
tiếng nữa. Trong 4 giê lao động tiếp theo, nhà tư bản cũng chi 10 USD để
mua 10 kg bông, khấu hao máy móc là 2 USD, nhưng không phải bỏ tiền
ra thuê công nhân nữa. Nhưng trong 4 giê này, người công nhân chuyển
hết 10 kg bông thành 10 kg sợi, đồng thời lại tạo ra một giá trị mới là 3
USD cho nhà tư bản .
Như vậy, trong một ngày lao động là 8 tiếng, nhà tư bản chi phí :
Bông 20 kg= 20 USD. = 20 USD.
Hao mòn máy móc= 4 USD. = 4 USD.
Thuê công nhân= 3 USD. = 3 USD.
Tổng số tiền chi ra để sản xuất trong một ngày là 27 USD. Nhưng giá
trị của sản phẩm mới (sợi) mà nhà tư bản thu về là 30 USD như vậy là dôi
ra 3 USD, 3USD đó chính là giá trị thặng dư.
Vậy giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động của
người công nhân tạo ra đã bị nhà tư bản chiếm không. Đến đây ta có thể
định nghĩa về tư bản là :
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân
làm thuê.
Như vậy tiền tệ đã được chuyển hoá thành tư bản và mâu thuẫn của
công thức chung của tư bản đã được giải quyết.
Để phân biệt rõ tác dụng khác nhau của các bộ phận tư bản chuyển hoá
thành sức lao động và tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư, Mác đưa ra hai phạm trù tư bản bất biến và tư bản khả biến.
2.2.Lợi nhuận.
Mặc dù giá trị thặng dư (m) chỉ là con đẻ của tư bản khả biến (v)
nhưng khi quá trình sản xuất kết thúc thì m lại là khoản tăng thêm của giá
trị tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), tức là toàn bộ tư bản đã chi phí
Đề án kinh tế chính trị
6
Đại học kinh tế quốc dân
.Do đó công thức w=c + (v+m) chỉ ra rằng m là do v sinh ra, có thể viết là
w=(c+v)+m , tức là m do (c+v) sinh ra.
Vậy khi hình thành phạm trù chi phí sản xuất thì nguồn gốc của sự tăng
thêm giá trị từ tư bản khả biển chuyển sang toàn bộ tư bản.
Tuy nhiên m là phần tăng thêm của tư bản đã chi ra trong tổng tư bản
đã ứng ra
Cứ thoạt nhìn, ta thấy rằng lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là mét ,
lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư.
Thực ra giá trị thặng dư là nội dung bên trong do sức lao động của
công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất, còn lợi nhuận là hình thức
chuyển hoá của giá trị thặng dư biểu hiện bên ngoài thông qua trao đôỉ .
Về mặt lượng, nếu hàng hoá bán ra theo đúng giá trị của nó thì số
lượng lợi nhuận thu được bằng số giá trị thặng dư chứa đựng trong giá trị
của hàng hoá ( p=w-k-m),nếu hàng hoá bán ra dưới giá trị của nó, nhưng
vẫn cao hơn chi phí sản xuất thì lượng lợi nhuận thu được sẽ nhỏ hơn
lượng giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hoá. Và ngược lại, nếu hàng
hoá bán ra cao hơn giá trị của nó thì lượng lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn
lượng giá trị thặng dư chứa trong nã.
Như vậy, từng tư bản cá biệt có thể thu được một lượng lợi nhuận lớn
hơn, nhỏ hơn hoặc bằng lượng giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hoá
của mình. Nhưng trong toàn xã hội thì do tổng số giá cả bằng với tổng số
giá trị của hàng hoá, nên tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư.
2.3.Tỷ suất lợi nhuận- Và những nhân tố ảnh hưởng .
a.Tỷ suất lợi nhuận .
Nhà tư bản sản xuất hàng hoá chỉ quan tâm đến phần dôi ra của hàng
hoá so với giá trị của tư bản đã dùng để sản xuất ra nó. Họ ứng trước toàn
bộ tư bản mà không cần chú ý đến tác dụng khác nhau của các bộ phận cấu
thành tư bản trong việc sản xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản chẳng cần biết
hắn ứng ra tư bản bất biến để rút lãi ra từ tư bản khả biến, hay ứng tư bản
khả biến để làm cho tư bản bất biến tăng thêm giá trị .
Mặc dù chỉ có bộ phận khả biến tạo ra giá trị thặng dư, nhưng điều đó
chỉ có thể thực hiện được khi tư bản bất biến phải được ứng ra theo một tỷ
lệ tương ứng. Cho nên trong tư tưởng của các nhà tư bản thì cả hai loại tư
bản nói trên đều nhập làm mét .
Dù bắt nguồn từ đâu chăng nữa giá trị thặng dư cũng là phần dôi ra so
với tổng tư bản ứng trước.Vậy khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi
Đề án kinh tế chính trị
7
Đại học kinh tế quốc dân
nhuận thì tỷ suất gía trị thặng dư sẽ chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận, ký
hiệu là p’.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản ứng
trước.
p’=m\k
Tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư là hai tỷ lệ khác nhau của
cùng một lượng (m) do dùng thước đo khác nhau (tư bản khả biến và toàn
bộ tư bản) nên số lượng chúng khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận bao giê cũng
nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư:
p’=m\(c+v)
- Xem thêm -