Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Người yêu dấu (beloved) của toni morrison dưới góc nhìn huyền thoại...

Tài liệu Người yêu dấu (beloved) của toni morrison dưới góc nhìn huyền thoại

.PDF
138
209
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________________ Đường Thị Thùy Trâm “NGƯỜI YÊU DẤU” (BELOVED) CỦA TONI MORRISON DƯỚI GÓC NHÌN HUYỀN THOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________________ Đường Thị Thùy Trâm “NGƯỜI YÊU DẤU” (BELOVED) CỦA TONI MORRISON DƯỚI GÓC NHÌN HUYỀN THOẠI Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1 . Huyền thoại và vai trò của huyền thoại trong sáng tác văn học Ngay từ khi vũ trụ đang còn là một cõi hỗn mang, cùng với tư duy nguyên thủy còn khá hạn chế của loài người thuở khai thiên lập địa, huyền thoại xuất hiện như một công cụ để con người nhận thức thế giới và nhận thức chính bản thân mình. Những luận giải về giới tự nhiên về sau được tập hợp, gìn giữ và truyền tụng như một hình thức lưu dấu về giai đoạn khởi thủy của nhân loại và dân tộc. Ngày nay, kho tàng các tích truyện dân gian vô cùng quí báu ấy luôn chiếm một vị trí quan trọng trong cơ tầng văn hóa của mỗi dân tộc. Bất cứ một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nào trên thế giới đều lưu giữ cho riêng mình một hệ huyền thoại, có khi khu biệt, có khi giao thoa với các dân tộc khác, nhưng cho dù có sự gặp gỡ đi chăng nữa thì những gì thuộc về bản sắc văn hóa vẫn luôn hiện diện trong các dị bản. Khi giải thích về nguồn gốc của vạn vật, huyền thoại chứa đựng trong mình đặc trưng của mỗi vùng đất sản sinh ra nó nhưng đồng thời cũng mang dáng dấp của tư duy nguyên thủy và được xem là tài sản chung của nhân loại. Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, những tưởng một kho thần thoại vĩ đại của nhân loại đã hoàn tất nghĩa vụ xa xưa của nó, chấp nhận lui về quá vãng, nhưng không, huyền thoại vẫn chứng tỏ tầm ảnh hưởng sâu sắc lên nhiều lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội. Ngay từ khi xuất hiện, huyền thoại đã mang trong mình trọng trách thiêng liêng: “là mô hình đầu tiên của mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của nhiều loại hình văn hóa khác nhau – văn học, nghệ thuật, tôn giáo và ở mức độ nào đó, cả triết học, thậm chí cả khoa học” [39, tr. xiv]. Chính vì vậy, bất kì một hiện tượng nào của cuộc sống thường nhật dù nhỏ nhặt hay lớn lao đều có thể tìm thấy trong đó sự kết nối với những cội rễ huyền thoại. Trong công trình nghiên cứu Những huyền thoại [05], Roland Barthes đã ví huyền thoại như là hệ thống kí hiệu thứ hai, một siêu ngôn ngữ. Hay nói cách khác, huyền thoại bao gồm hai hệ thống kí hiệu, hệ thống này chèn lên hệ thống kia. Trong đó, hệ thống thứ nhất chính là mô hình ba thành phần theo lí thuyết kí hiệu học của nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure: cái biểu đạt – cái được biểu đạt – kí hiệu (là sự kết hợp của hai yếu tố trước). Dựa trên mô hình này, Barthes đã phát triển lên thành một hệ thống kép, trong đó yếu tố kết thúc của hệ thống thứ nhất chính là yếu tố bắt đầu cho hệ thống thứ hai. Khi ấy, cái biểu đạt của huyền thoại vừa là nghĩa vừa là hình thức và “với tư cách là tổng các kí hiệu ngôn ngữ, nghĩa của huyền thoại có giá trị đặc thù, nó thuộc về một câu chuyện” [05, tr. 303] chứ không đơn thuần là nghĩa biểu đạt của các kí hiệu riêng rẽ. Với tư cách là một hệ thống kí hiệu, một thứ siêu ngôn ngữ, huyền thoại hiện diện ở khắp mọi nơi. Thậm chí ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới đâu đó vẫn còn tồn tại những tộc người sống biệt lập với xã hội bên ngoài và lối tư duy nguyên thủy vẫn chi phối hành vi, cách ứng xử của họ một cách sâu sắc. Lịch sử loài người trải qua hàng thế kỉ tồn tại và phát triển cùng với sự đồng hành của văn học nghệ thuật. Là một hình thái ý thức của huyền thoại, văn học cũng không nằm ngoài trường lực tác động của “cái nôi nguyên hợp” này. Có thể nói trong bất kì một thể loại văn học nào, từ huyền thoại (hay thần thoại – theo cách gọi thường gặp), sử thi đến truyện cổ tích hay thơ ca,… đều thấp thoáng trong đó các tích truyện huyền thoại. Điều này đã được Meletinsky – một học giả Xô Viết nổi tiếng về folklore học và kí hiệu học - chứng minh và khẳng định nhiều lần trong các công trình nghiên cứu của ông về huyền thoại, ví dụ như: truyện cổ tích là một mảnh vỡ được “văng ra” từ huyền thoại, hay “truyện cổ tích thoát thai từ huyền thoại” [39, tr. 355], hoặc “nguồn gốc chủ yếu của việc hình thành các sử thi cổ đại là các truyện cổ tích – tráng ca (…) và đặc biệt là huyền thoại” [39, tr. 364]. Cùng với bao thăng trầm của cuộc sống, văn học đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi về phương pháp sáng tác, hình thành nên những trào lưu văn học khác nhau, bổ sung và thay thế cho nhau. Nếu như thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ của những sáng tác thuộc trường phái hiện thực chủ nghĩa thì thế kỉ XX lại được chứng kiến sự lên ngôi của những sáng tác theo khuynh hướng “huyền thoại hóa”. Tiểu thuyết của J. Joyce, Th. Mann, F. Kafka,… thơ của T. S. Eliot, W. B. Yeats,… kịch của J. Anouilh, Claudel, Cocteau,… là những ví dụ tiêu biểu. Một cách lặng lẽ, huyền thoại ngả bóng vào địa hạt sáng tác văn chương như một lẽ tất yếu. Điều này một lần nữa chứng tỏ sự trường tồn của những giá trị tinh thần được trầm tích qua thời gian, được đảm bảo bởi một độ lùi lịch sử đáng kể, đủ dài để loại bỏ những gì không xứng đáng và chưng cất nên những gì tinh túy nhất. 1.2 . Toni Morrison – nhà văn của những thân phận nô lệ cùng khổ Hòa vào khuynh hướng huyền thoại hóa trong sáng tác văn học thế kỉ XX là một nữ văn sĩ mà cho đến nay sáng tác của bà vẫn nhận được sự quan tâm sâu rộng của đông đảo độc giả. Đó là những trang tiểu thuyết làm dấy lên trong lòng người đọc những trạng thái xúc cảm trái ngược: vừa giận giữ vừa thương xót, vừa kinh hãi nhưng cũng đầy thán phục, bàng hoàng mà lại cảm thông vô hạn,… Toni Morrison đã dành trọn cuộc hành trình trên trang viết để phơi bày một hiện thực bấy lâu hoặc bị phớt lờ (bởi những người Mỹ da trắng) hoặc cố tình trốn chạy (bởi những người Mỹ gốc Phi) – đó là chế độ nô lệ (Slavery) và nạn phân biệt chủng tộc (Apartheid) khắc nghiệt kéo dài hàng mấy trăm năm (1619 – 1865) trên đất Mỹ. Cùng các nhà văn Mĩ gốc Phi khác, Morrison sử dụng huyền thoại (huyền thoại Hi Lạp, huyền thoại châu Phi…) trong các tác phẩm của mình với ý nghĩa mang những giá trị văn hóa của tổ tiên đến gần hơn với các thế hệ hậu duệ và đồng thời cũng gần hơn với cả những ai đã cố tình đánh cắp nó. Toni Morrison, tên khai sinh là Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1931. Bút danh “Toni” được hình thành trong những năm tháng học đại học bởi những người bạn cùng lớp của bà, còn “Morrison” được lấy theo họ của người chồng đầu tiên gốc Jamaika. Sinh trưởng trong một gia đình người Mỹ gốc Phi (African – American hoặc Afro – American) nên ngay từ nhỏ, cô bé Chloe đã sớm cảm nhận được sự bất bình đẳng trong xã hội Mỹ. Mặc dù không trực tiếp hứng chịu sự khắc nghiệt của chế độ nô lệ, hơn nữa nạn phân biệt chủng tộc đến thế hệ của nhà văn cũng đã giảm đi phần nào nhưng những gì được hấp thu từ thời niên thiếu vẫn tác động không nhỏ đến trực cảm sáng tác của bà sau này. Ông bà ngoại của tác giả vốn là những người da đen di cư từ Alabama (Kentucky) đến Ohio (bối cảnh chính của tiểu thuyết Người yêu dấu) vào năm 1912. Hơn ai hết, họ vô cùng thấu hiểu nỗi cùng cực của cuộc sống nô lệ, sự nghèo đói và thái độ kì thị của những người da trắng đối với cư dân da màu. Bố của tác giả là một nông dân chuyên trồng hoa màu nhưng do không chịu được sự áp chế chủng tộc của tiểu bang Georgia nên phải chạy lên mạn Bắc. Vốn là một tiểu bang nằm ở phía Bắc Hoa Kì, Ohio được hình thành bởi những người dân nhập cư da màu đa sắc tộc đổ về từ khắp nơi trên thế giới. Thị trấn Lorain - nơi nhà văn sinh sống - cũng mang những đặc điểm văn hóa tương tự. Ở một đất nước được mệnh danh là Tân Thế giới, là miền đất hứa như Hoa Kì, chế độ nô lệ và nạn phân biệt chủng tộc mặc dù trên danh nghĩa đã được chấm dứt từ lâu nhưng kì thực thì những hậu quả mà nó để lại cho đến nay vẫn chưa thể gột sạch. Luật pháp có thể khống chế nạn bạo hành và sự bất công, thời gian có thể xoa dịu những vết thương trong quá khứ nhưng tư tưởng kì thị trong cộng đồng da trắng cũng như những chấn thương tinh thần mà người da màu phải gánh chịu thì không thể biến mất trong chốc lát được. Những nô lệ da đen – đối trọng chủ yếu của người Mĩ da trắng trong tư tưởng phân biệt chủng tộc – bị cho là nguyên nhân chủ yếu khiến cho dòng máu của những người Mĩ da trắng – những con người ưu tú “được Chúa lựa chọn” – bị lai tạp. Và cho đến tận bây giờ, ở một xã hội hiện đại vào bậc nhất như Mĩ, những tư tưởng lạc hậu trên vẫn còn tồn tại. Tiểu thuyết gia Toni Morrison bộc lộ niềm yêu thích văn chương từ khá sớm. Thuở nhỏ, bà chăm chỉ học tiếng Latinh, say mê đọc tiểu thuyết của Gustave Flaubert, Jane Austen, L. Tonxtoi,... Tốt nghiệp trung học loại ưu, Toni Morrison học ngành khoa học xã hội tại đại học Howard – nơi chuyên giáo dục những sinh viên da đen. Hoàn tất bậc đại học vào năm 1953, bà theo học cao học tại Đại học Cornell chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ Anh, sau đó là quãng thời gian chuyên tâm tìm hiểu các tác phẩm của Virginia Woolf và William Faulker – hai tác giả có tầm ảnh hưởng không nhỏ trong sáng tác của nhà văn sau này. Bên cạnh đó, bà cũng từng theo học những bậc thầy của phong trào bảo vệ người da màu như: nhà thơ Sterling Brown, nhà triết học Alain Blocke,… Chính vì sớm được hấp thu một nền văn hóa, giáo dục luôn có sự gắn bó mật thiết với những vấn đề khá nhạy cảm như chủng tộc, giai cấp, dân quyền, nhân quyền… nên ngay từ những năm tháng tuổi trẻ, Toni Morrison đã tích cực tham gia vào các phong trào tranh đấu cho Dân quyền của người da đen. Ở người phụ nữ này dường như luôn thường trực một xúc cảm mạnh mẽ về những gì thuộc về ý thức bản ngã. Chính vì vậy, việc lên tiếng khẳng định và bảo vệ giá trị tồn tại của giống nòi như một bản năng sẵn có nơi bà, là hệ quả tất yếu của những gì tuổi thơ được thụ cảm. Hiện nay, bà là “Giáo sư phụ trách bộ môn Xã hội học” tại Đại học Princeton, Hoa Kì. Toni Morrison đến với văn chương như một sự bày tỏ những suy nghĩ của một người dân yếm thế trên đất Mĩ, một sự phơi bày những góc khuất của xã hội hiện đại, một tiếng nói mạnh mẽ vì quyền bình đẳng, một hành động khơi gợi lại những gì cố tình bị lãng quên trong quá khứ. Tiểu thuyết của bà là những trang viết tìm về quá khứ được sáng tác hướng về số phận của cộng đồng nô lệ da đen cùng khổ. Mắt biếc (The Bluest Eye) – tác phẩm đầu tiên được hoàn thành vào năm 1970 kể về câu chuyện của Pecola – cô bé da đen luôn cầu xin Thượng Đế cho mình có được một đôi mắt xanh biếc – vốn là biểu tượng về vẻ đẹp của người Mĩ da trắng. Rồi lần lượt những tác phẩm sau đó như Sula (1973), Bài ca của Solomon (Song of Solomon – 1977), Tar Baby (1981), Người yêu dấu (Beloved - 1987), Jazz (1992), Thiên đường (Paradise – 1998), Tình yêu (Love – 2003), và cuốn tiểu thuyết gần đây nhất là A Mercy (tạm dịch là Lòng khoan dung, xuất bản vào tháng 11 – 2008) đều là những xúc cảm về cuộc đời của người nô lệ da đen trên đất Mỹ. Trong số chín tiểu thuyết vừa nêu thì tác phẩm được phần lớn độc giả đánh giá là nổi bật hơn cả, “thành công và tinh tế hơn cả” là tiểu thuyết Người yêu dấu. Đó là lịch sử thân phận cá nhân tải nặng cả một quá khứ tập thể. Một bản thánh ca dâng tặng tình yêu, tình mẫu tử. Một cuốn tiểu thuyết của lầm lỗi và lòng khoan dung, của sự lãng quên và nỗi ám ảnh, của cái chết như sự hi sinh tất yếu và khát vọng sống mãnh liệt, của những giày vò đau đớn đối với tâm hồn và ngọn lửa yêu thương bất diệt. (Lời tựa của tiểu thuyết Beloved [95] được xuất bản ở Việt Nam với tên gọi Thương [42]). Thuở nhỏ, Toni Morrison chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nguồn cội văn hóa châu Phi, từ truyền thống gia đình, bên cạnh đó là những câu chuyện kể nhuốm màu huyền thoại của cha mẹ. Khi trưởng thành, trên cuộc hành trình đến với văn học, nhà văn lại được tiếp cận với khuynh hướng huyền thoại hóa trong văn học của thế kỉ XX, đồng thời tự nghiên cứu và chịu ảnh hưởng khá rõ nét về phương pháp sáng tác của hai tác giả Woolf và Faulker. Những nguồn lực khách quan trên đã đóng vai trò không nhỏ trong việc hình thành nên phong cách sáng tác của tác giả: chú trọng khai thác đề tài về người nô lệ da đen và những tàn tích của một thời kì xưa cũ dưới ánh sáng của huyền thoại. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Hiện nay, ở Việt Nam đang lưu hành hai bản dịch của tiểu thuyết Beloved. Bản dịch thứ nhất có tên gọi Người yêu dấu được xuất bản vào năm 2007 của hai dịch giả Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thanh Tâm (nhà xuất bản Văn Học). Bản dịch thứ hai là Thương, xuất bản vào năm 2008 do tác giả Hồ như dịch, nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành. Vào thời điểm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại” thì chỉ mới xuất hiện duy nhất một bản dịch. Chính vì vậy, chúng tôi đã giải quyết vấn đề trong sự đối sánh giữa hai văn bản: nguyên tác bằng tiếng Anh – Beloved và bản chuyển ngữ sang tiếng Việt với tên gọi Người yêu dấu [41]. Để thuận tiện về vấn đề ngôn ngữ cũng như giúp cho những ai quan tâm dễ dàng hơn khi tìm hiểu cả bản dịch lẫn nguyên tác, chúng tôi đã lấy tên đề tài ở cả hai ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Anh. Khi bản dịch của tác giả Hồ Như xuất hiện, có lẽ do đã có sự tham khảo và đối sánh với bản dịch truớc nên trong lần chuyển ngữ này, chúng tôi cũng nhận thấy những ưu trội của bản dịch sau. Chính vì vậy, chúng tôi xem đây là tài liệu tham khảo bổ sung để hiểu hơn về nguyên tác. Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi cũng tìm hiểu thêm những tiểu thuyết khác của Toni Morrison để nắm bắt tư tưởng xuyên suốt trong các sáng tác của bà. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Ở thể loại tiểu thuyết, mỗi tác phẩm của Toni Morrison đều có một tầm ảnh hưởng nhất định đối với độc giả. Đó đều là những tác phẩm “tuyệt đẹp và gắn bó máu thịt với cuộc sống và con người” (đánh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển). Tuy vậy, cho đến thời điểm này, trong số các sáng tác của bà thì sức lan tỏa rộng lớn của Người yêu dấu 1 là điều không ai có thể phủ nhận. Với Người yêu dấu, Toni Morrison một lần nữa khẳng định vai trò của thủ pháp huyền thoại hóa như là một thủ pháp nghệ thuật đắc dụng và xuyên suốt, góp phần quan trọng tạo nên tầm ảnh hưởng cho những tác phẩm của bà. Nghiên cứu “yếu tố huyền thoại” trong tiểu thuyết Người yêu dấu, chúng tôi sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau: - Giới thuyết về các khái niệm trung tâm như: huyền thoại, cổ mẫu, hiến tế, tái sinh,… nhằm tạo tiền đề cho việc thuyết minh những nội dung sau đó một cách hiệu quả. - Sự tái hiện đầy ám ảnh của “những hình tượng mang tính hằng số” (cách gọi của C. Jung) hay là những “cổ mẫu” (archétype). - Bàn về “nguyên lý tính Mẫu” trong tác phẩm. “Tính Mẫu” thể hiện qua hình tượng của những người phụ nữ bất hạnh nhưng vĩ đại như Baby Suggs, Sethe, và trong vô vàn những nhân vật hữu danh cũng như vô danh khác. Nội dung này được triển khai trong sự đối sánh với huyền tích về vai trò của người phụ nữ trong thần thoại cổ xưa. - Sự hóa thân của Beloved, ý nghĩa ẩn giấu sau câu chuyện kinh hoàng về quá trình “hiến tế” và “tái sinh” của cô, các tầng nghĩa của “tái sinh” và “hiến tế” đối với các nhân vật trong tác phẩm nói riêng và của cả dân tộc châu Phi trên đất Mĩ nói chung. 1 Kể từ trang này, để tránh nhầm lẫn, chúng tôi sẽ thống nhất cách viết như sau: Người yêu dấu – chỉ tên tác phẩm và Beloved – chỉ tên nhân vật. - Cuộc hành trình tìm kiếm tự do của mỗi cá nhân trong Người yêu dấu. Để thoát khỏi kiếp nô lệ, họ đã phải chấp nhận đánh đổi không ít và những chấn thương về tinh thần sau này vẫn không thôi giày vò, ám ảnh họ. Sự “tái sinh” liệu có được như mong muốn sau khi những người nô lệ da đen đã chấp nhận “hiến tế” quá nhiều? … Tất cả những vấn đề trên đã tạo nên không khí huyền thoại cho một tác phẩm mang hơi thở hiện đại. Người yêu dấu là sự kết hợp giữa cái thường nhật và cái đột hiện, hiện thực và siêu thực trộn lẫn nhưng lại khiến độc giả chấp nhận như một điều tất yếu. Đặc điểm này cũng giúp khẳng định giá trị của tác phẩm trong việc phơi bày một hiện thực đau lòng vốn đã ăn sâu bén rễ trong lòng xã hội Mĩ hàng mấy thế kỉ. Đó là chế độ nô lệ (Slavery) và nạn kì thị chủng tộc (Apactheid). Bên cạnh đó thủ pháp huyền thoại hóa có tác dụng nâng cao tầm vóc của tác phẩm khiến cho những vấn đề được phản ánh trở nên chân thực như nó vốn dĩ, bởi lẽ không ai có thể thay đổi được những gì đã thuộc về huyền thoại. Người yêu dấu kể một câu chuyện về lịch sử nhưng lại không gợi nên trong lòng độc giả cảm giác đang đọc một bản trần thuật khô cứng mà như đang chứng kiến một câu chuyện đầy xúc cảm, giàu tính nhân văn và giá trị hiện thực. Trong quá trình tìm hiểu đề tài, vì một số điều kiện khách quan và chủ quan chi phối nên ở luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu khai thác những biểu hiện của phương pháp sáng tác theo khuynh hướng huyền thoại hóa trong tiểu thuyết Người yêu dấu – một dấu ấn quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Toni Morrison, là tác phẩm giúp bà đạt giải thưởng Pulitzer về sáng tác tiểu thuyết vào năm 1988, đồng thời cũng là tiền đề cho giải thưởng vô cùng danh giá sau này, giải Nobel văn học năm 1993 như một sự ghi nhận những đóng góp của tác giả trong công cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng của người da màu trên đất Mĩ. Tiểu thuyết Người yêu dấu đã được chuyển thể thành phim vào năm 1998. 3. Lịch sử vấn đề Trong phần này chúng tôi sẽ điểm qua những công trình nghiên cứu, những đánh giá, nhận định của các tác giả trong và ngoài nước xung quanh tác phẩm Người yêu dấu và ít nhiều có liên quan đến phạm vi của đề tài: “Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại”. Chúng tôi sẽ không giới thuyết về các khái niệm cũng như bàn về nội dung của tác phẩm mà những vấn đề này sẽ được đề cập đến trong phần nội dung chính. Hiện nay, Toni Morrion là một trong những tác giả nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà lý luận, phê bình văn học cũng như của đông đảo độc giả trên thế giới. Có lẽ không quá lời khi cho rằng bà là một nhà văn khá đặc biệt so với những nhà văn người Mĩ khác cùng thời. Toni Morrison là một tiểu thuyết gia Mĩ gốc Phi. Chính vì vậy mà những gì được bà lựa chọn để phản ánh trong tác phẩm hầu hết đều liên quan đến các khía cạnh khá nhạy cảm của cộng đồng người dân nhập cư da đen trên đất Mĩ. Chúng chạm đến nỗi đau lâu nay vẫn còn âm ỉ trong họ. Tự do và nô lệ, sự đối trọng giữa (người Mĩ) da trắng và (người Mĩ) da không trắng hay nạn phân biệt chủng tộc, chứng bệnh tự căm ghét chính dòng giống mình, sự sợ hãi khi đối diện với kí ức,… tất cả những vấn đề trên đều thuộc về một góc khuất vẫn nằm rất sâu đâu đó trong mỗi một người Mĩ da đen. Và trong tiểu thuyết của Toni Morrison, những sự thật bị lảng tránh ấy không những đều được chạm đến mà còn bị khuấy đảo một cách dữ dội. Vì những đề tài mang tính thời sự luôn xuất hiện trong tiểu thuyết của Toni Morrison nên dù cho chúng có ẩn mình sau những phép ẩn dụ, những biểu tượng đa nghĩa hay thủ pháp huyền thoại hóa đi nữa thì người đọc vẫn nhận ra ý nghĩa hiện thực được gửi gắm trong tác phẩm. Trong một bài phỏng vấn, tác giả của tiểu thuyết Người yếu dấu từng khẳng định “một tác phẩm nghệ thuật phải mang ý nghĩa chính trị” nên những bài nghiên cứu về tác phẩm của bà nói chung hoặc tiểu thuyết nói riêng thường hướng vào việc khai thác khía cạnh này. Về Người yêu dấu, hiện nay, trên thế giới tuy có nhiều hướng tiếp cận khác nhau nhưng tựu trung đều chú ý đến hai trọng tâm sau: Thứ nhất là nghiên cứu về tư tưởng của tác giả. Thứ hai là nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết Toni Morrison. Ở đây, sự phân tách đôi khi không quá rạch ròi giữa hai khuynh hướng tiếp cận, chúng có thể giao thoa lẫn nhau trong cùng một bài nghiên cứu nên sự phân định chỉ mang tính chất tương đối để vấn đề trở nên hệ thống và dễ nắm bắt hơn. Thuộc khuynh hướng thứ nhất là nhóm những bài nghiên cứu đa dạng về góc độ tiếp cận. Đó là những bài viết đề cập trực tiếp đến một hoặc một vài khía cạnh thuộc về nội dung của tác phẩm. Đó có thể là những bài phân tích dựa trên biểu hiện về tâm lí, tính cách nhân vật như: “Được yêu thương và tiếng khóc xấu hổ”: một cách đọc ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison theo tâm lí học (“To be Loved and Cry Shame": a psychological reading of Toni Morrison's Beloved [90]), Có phải Morrison cũng nằm trong số những nhà tiên tri?: kế hoạch “phân tâm học” trong ‘Người yêu dấu’ (Toni Morrison) (Is Morrison also among the prophets?: "psychoanalytic" strategies in 'Beloved.' (Toni Morrison) [97]), hay “Người yêu dấu”; nghiên cứu nhân vật (“Beloved”; character studies [98])… Những bài viết trên chủ yếu hướng về nội dung của tác phẩm, đi vào phân tích các nhân vật trung tâm và những khó khăn mà họ phải đối mặt như: lòng nhân từ và sức mạnh thần thánh của Baby Suggs, sự hiếu thảo của Halle, quá trình chuyển biến tâm lí của Paul D, Amy Denver, Sethe và Beloved,… từ đó bàn đến những khía cạnh thuộc về lịch sử hình thành của cộng đồng người Mĩ gốc Phi, những nhục nhằn mà họ phải trải qua, phải khuất phục và chịu đựng trong suốt những năm tháng bị kìm kẹp của chế độ nộ lệ, những chấn thương tinh thần đeo bám họ khi quá khứ đã lùi xa và thái độ của họ khi đối diện với quá khứ,… Trong số những bài phân tích tâm lí nhân vật, các tác giả đặc biệt quan tâm đến một nhân vật được cho là tải nặng quá khứ của dân tộc, khiến cho câu chuyện được kể ra “làm đau độc giả”, đó là Sethe, người nữ nô lệ nhỏ nhắn bất hạnh ẩn chứa một bản năng làm mẹ mãnh liệt. Phân tích nhân vật này, các tác giả chủ yếu khai thác mối qua hệ về tình mẫu tử. Trong Mối quan hệ Àjé giữa mẹ và con gái trong ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison (The mother – daughter Àjé relationship in Toni Morrison’s Beloved [104]), người viết đã mang đến những nhận định khá mới mẻ với những ai ít có dịp tìm hiểu về văn hóa và quan niệm của người dân châu Phi về tình mẫu tử, thuyết minh về khái niệm “Àjé” (“Àjé”, theo tác giả của bài viết, là “một từ Yoruba và là khái niệm miêu tả về sức mạnh tinh thần được cho rằng tồn tại cố hữu trong người phụ nữ châu Phi; hơn nữa, những người được ban cho sức mạnh tinh thần sẽ được gọi là Àjé” [104, tr. 171]) và phân tích mối quan hệ giữa người mẹ và con gái trong một số tác phẩm khác viết về sự gắn bó mật thiết này trong gia đình những người Mĩ gốc Phi, chẳng hạn như Middle Passage của tác giả Charles Johnson, Maggie of the Green Bottles của Toni Cade Bambara, The Color Purple của Alice Walker và đặc biệt là Người yêu dấu của Toni Morrison. Hay trong Gieo hạt: quyền sở hữu của người mẹ, con cái, bầu sữa và giọng nói trong ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison (Lối giải thích phi thực dân hóa/ Khám phá ra Cái khác) (Spitting out the seed: ownership of mother, child, breasts, milk and voice in Toni Morrison’s ‘Beloved’ ([De]Colonizing Reading/ [Dis]Covering the Other [92]), bài viết nhấn mạnh đến quyền sở hữu của những người nô lệ da đen trong tiểu thuyết Người yêu dấu, từ những gì gắn bó nhất như các bộ phận cơ thể đến những người thân yêu ruột thịt của họ. Phân tích nhân vật Sethe, những nhà nghiên cứu cũng không quên đề cập đến hành động vừa mãnh liệt vừa dứt khoát của chị: “giết con để bảo vệ con”. Câu chuyện đau lòng của người phụ nữ này tuy chỉ được kể lại vỏn vẹn trong hai, ba trang sách bằng một giọng trần thuật trung tính nhưng lại có sức lay động mạnh mẽ trái tim của đông đảo độc giả. Xuất phát từ một câu chuyện có thật trong lịch sử, hành động giết con của nhân vật trong tác phẩm được nhìn nhận với một thái độ bao dung, không tuân theo những chuẩn mực đạo đức thông thường. Trong số những bài viết phân tích về vấn đề này, đáng chú ý là: Sự lựa chọn của Sethe: ‘Người yêu dấu’ và những đạo lí của việc đọc (Sethe’s choice: ‘Beloved’ and the ethics of reading [99]) – phân tích hành động dữ dội của Sethe, người nữ nô lệ tội nghiệp, người mẹ khốn khổ bị đặt trong tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Với Người yêu dấu, Morrison đã đặt chúng ta – độc giả trước những giá trị đạo đức bất thường: “Làm thế nào mà tình thương của người mẹ dành cho đứa con của cô ta lại dẫn dắt cô đến việc giết chết đứa trẻ?” Tự vấn đồng thời người viết cũng tự tìm ra cách giải thích của riêng mình: “điều quan trọng ở đây không chỉ bởi thời gian, tâm lí, cấu trúc, hay tính logic của chủ đề trong việc phát triển mạch truyện từ sự kiện đó mà còn do cách xử lí của Morrison về vấn đề này” [99, tr. 318]. Chính vì vậy, chúng ta – những độc giả - phải tỉnh táo trong việc nhìn nhận và đánh giá sự việc. Ngoài ra, các bài nghiên cứu “Người yêu dấu” và vấn đề tang tóc (“Beloved” and the problem of mourning [81]) cũng bàn đến câu chuyện đau lòng của Sethe nhưng lại khai thác ở khía cạnh khác: bài báo đưa tin về hành động của cô và thái độ của Paul D, người đàn ông mà cô hằng quí mến, khi anh nghe kể lại sự việc; Câu chuyện kể và sự khủng hoảng cộng đồng trong “Người yêu dấu” (Narrative and community of crisis in “Beloved” [84]) nhấn mạnh: Người yêu dấu của Toni Morrison là tác phẩm tràn ngập sự dữ dội, là cuộc chiến của cộng đồng chống lại sự dữ dội đó, không cho nó diễn ra. Cuộc chiến giữa những người da đen và da trắng trong tác phẩm là cuộc chiến không có máu đổ nhưng những chấn thương mà nó để lại thì không dễ gì liền sẹo được. Bài viết còn nhận định: “Trong Người yêu dấu, Toni Morrison chứng tỏ rằng sự dữ dội của cộng đồng người Mĩ gốc Phi ban đầu vốn bị áp đặt bởi những kẻ đàn áp da trắng” [84, tr. 147] và đó cũng là cội nguồn lí giải vì sao người da đen lại có thể thực hiện những hành động “khủng khiếp” như vậy. Cũng trong bài viết này, tác giả còn cho thấy quan niệm của nhà văn về cái gọi là “tình yêu” của những kẻ đàn áp: “Tình yêu, theo khái niệm phương Tây, là đầy sự chiếm hữu, sự xuyên tạc và đồi trụy” [84, tr. 147]. Tiếp cận Người yêu dấu từ hướng phân tích nhân vật, đôi khi các hình tượng nghệ thuật được phân tích đơn lẻ nhưng cũng có lúc đuợc đặt trong thế so sánh với những tiểu thuyết khác của Morrison, chẳng hạn như: Yên lặng như vốn dĩ: Nỗi xấu hổ, Sự tổn thương và Vấn đề chủng tộc trong tiểu thuyết Toni Morrison (Quiet as it’s kept: Shame, Trauma, and Race in the Novels of Toni Morrison [73]) – so sánh với Mắt biếc, Toni Morrison và Tình mẫu tử: Quan điểm của con tim (Toni Morrison and Motherhood: A Politics of the Heart [103]), Sula và Người yêu dấu: chân dung của Kẻ sát nhân trong tiểu thuyết Toni Morrison (‘Sula’ and ‘Beloved’: images of Cain in novels of Toni Morrison [88]) – so sánh với Sula, … hoặc đôi khi là với những tác phẩm của các nhà văn khác như ‘Absalom, Absalom!’ của William Faulker, ‘Big boy leaves home’ của Wright hay ‘Gilda’ của Gomez, …qua đó nhằm nêu bật tư tưởng của tác giả về vấn đề tự do và nô lệ, về thuyết nữ quyền, về tính gothic Mĩ gốc Phi như một mạch ngầm xuyên suốt trong tất cả tiểu thuyết của bà. Bên cạnh các bài phân tích nhân vật, chúng tôi nhận thấy còn có những bài viết tiếp cận tác phẩm và nội dung tư tưởng qua việc phân tích một chi tiết trong tác phẩm như: “Mười phút cho bảy kí tự”: bài hát như điều then chốt để đọc lại câu chuyện trong “Người yêu dấu” của Toni Morrison (“Ten minutes for seven letters”: song as key to narrative revision in Toni Morrison’s “Beloved” [105]) phân tích hành động tính dục giữa Sethe và người đào huyệt – cái giá phải trả khi cô yêu cầu ông khắc lên mộ con mình những lời yêu thương, và điều đó đã tác động xấu đến Beloved như thế nào khi “chứng kiến” việc làm của mẹ. Người yêu dấu là một câu chuyện kể về các sự kiện có thật trong lịch sử, về những chấn thương tinh thần vẫn đeo bám cộng đồng người Mĩ gốc Phi cho dù quãng thời gian thực xảy ra câu chuyện đau lòng thực chất đã lùi rất xa vào dĩ vãng. Nỗi ám ảnh như những bóng ma của quá khứ cứ mãi lởn vởn phủ lên cuộc sống hiện tại của họ, càng trốn chạy thì chúng lại càng đeo bám quyết liệt. Trong Tìm lại bản thân nhưng đã tự đánh mất mình: một cuộc thẩm vấn chủ quan trong “Người yêu dấu” (Looking into the self that is no self: an examination of subjectivity in 'Beloved' [85]), lời phát biểu của Toni Morrison về vấn đề này đã được trích dẫn để minh họa cho chủ đề của tác phẩm: “Có một điều gì đó mà các nhân vật không muốn nhớ, tôi không muốn nhớ, những người da đen không muốn nhớ, những người da trắng cũng không muốn nhớ” [85, tr. 415]. Beloved – đứa con gái bị mẹ mình sát hại trong tác phẩm - như là một nhân vật đại diện cho hơn sáu mươi triệu đồng bào của cô bị chèn ép trên những chuyến tàu buôn nô lệ vượt Đại Tây Dương để đến được với “giấc mơ Mĩ” xa xôi, phù phiếm. Tất cả họ đều là những số phận cần “được yêu thương” (beloved), được che chở và được trả lại sự công bằng. Trong thực tế, “số lượng những người da đen cần được hưởng sự công bằng nhiều hơn gấp nhiều lần tất cả các nhân vật trong ‘Beloved’ gộp lại” (theo Looking into the self that is no self: an examination of subjectivity in “Beloved”). Nhân vật Beloved được khoác lên một bầu không khí thiêng của “thứ ánh sáng đỏ ma quái” (chữ dùng của Morrison), hòa trộn giữa thực và ảo mà sự trở về của cô như một phép ẩn dụ cho tính cố chấp của lịch sử, như một bức thông điệp rằng: “chỉ khi nào con người thực sự thanh thản khi nghĩ về một thời đã qua thì kí ức mới không trở thành rào cản cho ta tiến bước đến tương lai”. Bên cạnh đó, cũng có những bài viết phân tích về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa cá nhân và tập thể trong Người yêu dấu như: Sự dữ dội, gia đình và cộng đồng trong Người yêu dấu của Toni Morrison (Violence, home, and community in Toni Morrison's “Beloved” [87]); Vấn đề tái thiết chủng tộc: gia đình, lịch sử và câu chuyện kể trong “Người yêu dấu” của Toni Morrison (tiểu thuyết) (Reconstructing kin: family, history and narrative in Toni Morrison's 'Beloved.' (novel) [83]); Sự phát triển của ý thức giai cấp ở Toni Morrison (Toni Morrison’s Developing Class Conciousness [91]),… Đó là về xu hướng thứ nhất. Những bài nghiên cứu thuộc xu hướng thứ hai không chú trọng đi sâu khai thác nội dung của tác phẩm mà chủ yếu quan tâm đến những khía cạnh thuộc về nghệ thuật tiểu thuyết của Toni Morrison. Với những ai từng một lần đọc và suy ngẫm về tiểu thuyết của Morrison, đặc biệt là Người yêu dấu ắt hẳn sẽ ít nhiều chú ý đến cách đặt tên của nhà văn: tên của tác phẩm lẫn tên nhân vật. Một nhà nghiên cứu từng khẳng định rằng những cái tên trong tiểu thuyết của Morrison luôn được định danh một cách có chủ ý. Người yêu dấu cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Tuy không là tất cả nhưng đọc Người yêu dấu, ngay lập tức độc giả sẽ cảm thấy ấn tượng bởi sự trái ngược giữa ý nghĩa bề mặt của các tên gọi và ý nghĩa ẩn dụ bên trong chúng. Từ “địa ngục ngọt ngào” Sweet Home ở Kentucky, nơi có gã “thầy giáo” cay nghiệt (Schoolteacher) đến ngôi nhà xám trắng không tên mang số hiệu 124 ở Ohio, nơi mà con ma trẻ con luôn tìm cách quấy nhiễu để đòi lại sự công bằng, đòi lại tình mẫu tử thiêng liêng và Beloved (Người yêu dấu) cũng chính là tên của nó. Không dừng lại ở một vài cái tên vừa kể, các nhân vật, sự vật trong Người yêu dấu dù hữu danh hay vô danh còn mang nhiều lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Bài viết Hữu danh và vô danh: 124 của Morrison và “nơi khác” của Naylor như là kí hiệu (The named and the nameless: Morrison’s 124 and Naylor’s “the other place” as semiotic chorae” [80]) khi phân tích về ý nghĩa của những tên gọi trong tác phẩm đã đưa ra nhận định: Nơi ở giống như Sweet Home có lẽ rất bình dị đối với những người chủ da trắng của nó, nhưng Paul D lại nói về những người da đen sinh sống trong đó, và đặc biệt là Sethe, người bị buộc phải sống trong tình trạng nô lệ lại cảm thấy không thoải mái trong việc thể hiện tình mẫu tử đối với những đứa con của cô, khi anh cho rằng: “Sweet Home không hề ngọt ngào và chắc chắn rằng nó cũng không phải là mái nhà”. [80, tr. 669-670] Hay trong bài Sweet Home: những thành phố ẩn trong tiểu thuyết Mĩ gốc Phi (Sweet Home: Invisible Cities in The Afro – American Novel [100]) cũng đề cập đến ý nghĩa của danh xưng đặc biệt này. Vấn đề này sẽ được chúng tôi trở lại phân tích kĩ hơn trong những chương sau. Tìm hiểu Người yêu dấu dưới góc độ thi pháp, các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến sự hiện diện của các biểu tượng trong tác phẩm, cấu trúc xoay vòng, chất “folklore” (văn hóa dân gian) trong văn chương hay nói cách khác là mối quan hệ giữa tiểu thuyết của Morrison với văn học dân gian Mĩ gốc Phi, sự ảnh hưởng của các nhà văn khác đối với Morrison về mặt thi pháp tiểu thuyết,… Đây cũng là những điều tạo nên điểm đặc biệt và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Theo hướng nghiên cứu này, có những bài viết sau: Đọc trên phương diện văn hóa: những biểu tượng về nỗi đau trong ‘Người yêu dấu’ (Lí thuyết, Văn hóa và Sự phê bình) (Reading at the cultural interface: the corn symbolism of ‘Beloved’ (Theory, Culture and Criticism) [78]) cung cấp cho người đọc những hiểu biết về ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa Phi châu; Sự hư cấu và Văn hóa dân gian: Tiểu thuyết của Toni Morrison (Fiction and Folklore: The Novels of Toni Morrison [79]); Việc nhớ lại quá khứ trong tiểu thuyết Mĩ gốc Phi hiện đại (Remembering the Past in Contemporary African American Fiction [72]);… Trong những công trình trên, chúng tôi đặc biệt chú ý đến Sách giáo khoa về Toni Morrison (The Toni Morrison Encyclopedia [69]), vì đây là một công trình có tính chất tổng hợp, trong đó các vấn đề được sắp xếp theo thứ tự của bảng chữ cái để tiện cho việc tra cứu. Tác giả đã hệ thống một cách khoa học những bài viết nghiên cứu tiểu thuyết Toni Morrison một cách đa diện: từ thuyết nữ quyền, tâm phân học, lịch sử, giáo dục, đến chất dân gian châu Phi cũng như tính huyền thoại trong tác phẩm. Người viết nhận định: “Người yêu dấu là một cuốn tiểu thuyết chìm ngập trong tính chất duy linh và huyền thoại châu Phi” [69, tr. 02]. Truyền thống văn hóa Phi châu là các quan niệm về giới tính, giai cấp, chủng tộc, thuyết nữ quyền và những phong tục dân gian như hình thức mai táng, hôn nhân, tính dục,... Những yếu tố này giữ một vai trò quan trọng trong Người yêu dấu, ảnh hưởng và chi phối sâu sắc đến các nhân vật như Baby Suggs, Sethe Suggs, Denver Suggs và cả nhân vật mang nặng yếu tố tâm linh như Beloved. Ở vùng đất Tân Thế giới (New World) – nơi hoàn toàn xa lạ và luôn kì thị với những nền văn hóa du nhập – thì chất dân gian của người Mĩ gốc Phi được bảo tồn trong “huyền thoại, những chuyện kể, trong kí ức, bài hát, trong toàn bộ sự hiểu biết và truyền thuyết được truyền miệng về sự đa dạng của văn hóa Negro” [69, tr. 126]. Trong Người yêu dấu, Toni Morrison đã tác động đến các nhân vật để họ “gọi” (calling) lại những tinh hoa của ông bà tổ tiên họ, thậm chí dù cho điều này có thể kéo theo cả một chuỗi những sự kiện phức tạp khác nhưng chỉ có như vậy mới khiến họ tự suy ngẫm trong quá trình tìm lại bản thân. Và người đọc muốn hiểu được tác phẩm thì trước hết phải tự xem mình là một thành viên trong gia đình người Mĩ gốc Phi, đặc biệt là Tây Phi với truyền thống văn hóa vô cùng phong phú và truyền thống lịch sử bi hùng. Ngoài những vấn đề trên, tiểu thuyết của Toni Morrison nói chung và Người yêu dấu nói riêng còn hấp dẫn người đọc ở một góc độ khác: tính nhạc trong tác phẩm. Như chúng ta đã biết, tác giả của những thiên tiểu thuyết này vốn là một phụ nữ Mĩ gốc Phi, mảnh đất nổi tiếng với nhạc Blues và Jazz. Chính vì vậy mà âm nhạc cũng là một yếu tố được tác giả quan tâm khai thác và đưa vào tác phẩm một cách hiệu quả, khiến cho những trang văn kể về các sự kiện lịch sử trở nên biểu cảm, giàu chất dân gian và sống động hơn rất nhiều. Trong Người yêu dấu, người đọc sẽ cảm nhận được nhạc tính của Jazz: đam mê, sâu sắc, giàu xúc cảm và đặc biệt là vô cùng ngẫu hứng. Điều này không chỉ tồn tại trong những bài ca lao động vốn quen thuộc với người dân Phi châu mà tính nhạc còn được thể hiện qua ngôn từ trong tác phẩm. Đối với các dân tộc châu Phi, và trong tiểu thuyết của Morrison cũng vậy, thông qua một bài dân ca, người ta có thể hiểu được thái độ của cộng đồng đối với một nhân vật hoặc mức độ quan tâm đến một sự kiện đặc biệt, chẳng hạn như lối hát biểu thị sự vui mừng của những cư dân Cincinnati khi Baby Suggs khỏi bệnh hay vẫn là họ nhưng múa hát đầy phấn khích trong những buổi được nghe giảng kinh Phúc âm,… Nhắc đến Jazz, có lẽ cũng cần phải nhắc đến “màn hợp ca” chan chứa yêu thương của ba mẹ con Sethe. Một tình yêu lớn nhất: những kế hoạch về nhạc Jazz trong Người yêu dấu của Toni Morrison (A love supreme: jazzthetic strategies in Toni Morrison’s Beloved [75]), Vượt quá khuôn khổ của “thói quen văn chương”: ngôn ngữ truyền thống và jazz trong Người yêu dấu (Beyond the “literary habit”: oral tradition and jazz in “Beloved” [77])… là những bài viết khai thác khía cạnh âm nhạc trong tác phẩm, cho rằng âm nhạc (như Blues, và đặc biệt là Jazz) như là một dạng thức để sáng tạo nên tác phẩm, là chất xúc tác khiến cho tiểu thuyết trở nên hấp dẫn hơn. Tóm lại, những công trình nghiên cứu được chúng tôi giới thiệu trên đây chắc chắn chưa phải là tất cả những bài viết có liên quan đến tiểu thuyết Người yêu dấu trên thế giới nhưng từ đó cũng có thể nhận biết được diện mạo chung của tình hình nghiên cứu về tác phẩm hiện nay là muôn màu muôn vẻ, qua đó phần nào chứng tỏ được sức hấp dẫn của tác phẩm và những vỉa tầng ý nghĩa ẩn giấu sau những câu chữ là vô cùng phong phú và giàu sức liên tưởng. Đối với tình hình nghiên cứu trong nước, cùng chung mối quan tâm với chúng tôi về tác phẩm của Toni Morrison nói chung và Người yêu dấu nói riêng là những công trình nghiên cứu sau: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hiếu Thiện với đề tài: Con đường tới tự do của người Mĩ da đen trong nghệ thuật tiểu thuyết của Toni Morrison (2003), Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu đối chiếu với hai xu hướng trên thì luận văn nghiêng về tìm hiểu tư tưởng của tác giả. Luận văn thạc sĩ: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison của tác giả Nguyễn Phương Khánh (2008), Đại học Sư phạm Hà Nội – nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết của Toni Morrison thông qua một tác phẩm cụ thể. Trong quá trình tìm hiểu tình hình nghiên cứu trong nước về nhà văn Toni Morrison và sau khi có dịp tiếp cận với hai luận văn trên, chúng tôi nhận thấy đây là những công trình được viết khá công phu, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của người viết về một tiểu thuyết gia còn khá mới mẻ đối với bạn đọc Việt Nam. Đồng thời qua những nhận định trong luận văn, chúng tôi cũng được gợi mở ít nhiều trong việc triển khai và giải quyết vấn đề. Ngoài ra, hai tác giả trên còn có một số bài viết trên các tạp chí bàn sâu hơn về một vài khía cạnh trong các tác phẩm như: “Cấu trúc xoay vòng trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison” [33] của Nguyễn Phương Khánh được đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ của Đại học Đà Nẵng phân tích về kết cấu độc đáo và tác dụng của kết cấu ấy trong việc chuyển tải chủ đề của tác phẩm. Nguyễn Thị Hiếu Thiện với “Bí ẩn của những con số trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison” [60] đã giải thích về ý nghĩa ngẩm ẩn sau những con số tưởng như xuất hiện ngẫu nhiên trong Người yêu dấu. Bên cạnh những công trình nghiên cứu vừa nêu, chúng tôi nhận thấy còn có một số bài viết trên các tạp chí: Khoa học, Văn học, báo Văn nghệ,… chủ yếu giới thiệu về tác giả.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan