Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam hiện nay...

Tài liệu Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam hiện nay

.DOC
166
64
93

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUỲNH CHÂU NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ngành: Luật kinh tế Mã số: 9.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngàytháng năm 2019 Tác giả Trần Thì Quỳnh Châu MỤC LỤC MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU....................................................................................................................8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................................................8 1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án..................................21 1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu.........................................................................................................27 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................33 2.1. Khái quát lý luận về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự........33 2.2. Khái quát lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự................................................................................................................................................................45 Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................67 3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay...............................................................................................67 3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.....................................................................................................................................................99 Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM....................................................................................................................126 4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam.......................................................................................................................126 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam.......................................................................................................................135 KẾT LUẬN...............................................................................................................................................148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................152 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự những năm qua, sự tham gia tố tụng dân sự của người đại diện của đương sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành phần không thể thiếu trong tố tụng dân sự.. Chế định đại diện của đương sự dân sự cũng đã và đang khẳng định ý nghĩa và vai trò của mình trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự, Việc xác định đúng đắn vai trò cũng như hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, với tư cách là người tham gia tố tụng dân sự, hoạt động của người đại diện cho đương sự có tác động không chỉ đến hoạt động của những người tham gia tố tụng khác, mà còn tác động đến cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, góp phần thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã hội, hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng dân sự, thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ án dân sự, đặc biệt trong trường hợp đương sự không tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Những quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định lần đầu trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và được tiếp tục quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Gần đây nhất, là chế định về người đại diện của đương sự được quy định tại BLTTDS năm 2015. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS). Tuy nhiên, khác với quy định về người đại điện được quy định trong BLDS là người đại diện nhân danh và vì lợi 1 ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, thì người đại điện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định là người tham gia tố tụng dân sự, thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án. Người đại diện của đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự có vai trò rất quan trọng, đó là, việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự có tác dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự. Thực tiễn hoạt động tố tụng trong những năm gần đây cho thấy, việc quy định chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Số lượng các vụ việc có người đại diện cho đương sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sư ngày càng tăng và có tính chuyên nghiệp hơn. Thông thường là hình thức đại diện theo ủy quyền với sự tham gia của các luật sư là những người tranh tụng chuyên nghiệp, nên chất lượng của bản án, quyết định của Tòa án cũng được nâng cao. Việc thực hiện các quy định về người đại diện cho đương sự được thực hiện khá nghiêm túc. Đồng thời, Tòa án cũng đã phối hợp, giúp đỡ góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện, kiểm tra, giám sát các quy định về người đại diện của đương sự. Tuy nhiên, trải qua thực tiễn áp dụng, những quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã bộc lộ một số điểm bất cập, chưa cụ thể, thiếu tính thống nhất, có những vấn đề cần thiết nhưng chưa được luật hóa, bên cạnh đó, những khó khăn từ thực tiễn áp dụng pháp luật cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng dân sự và lợi ích hợp pháp của đương sự không được đảm bảo như trong việc xác định vai trò của người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện… 2 Xuất phát từ vai trò của người đại diện của đương sự, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, việc tìm hiểu, nghiên cứu về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Cho nên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các quy định của pháp luật liên quan đến người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vấn đề này, nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích cho các bên tranh chấp là rất cần thiết. Với các lý do được phân tích ở trên, nên nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định cụ thể như sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án nhằm làm rõ các vấn đề, nội dung sẽ được kế thừa và các nội dung cần tiếp tục phải nghiên cứu và giải quyết trong nội dung luận án; làm rõ cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài luận án; - Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; 3 - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong thực trạng pháp luật và trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự có người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự; - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, để làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu, luận án cũng khảo cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước về chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự theo đúng yêu cầu của nội hàm đề tài. Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, cũng như thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự tại các Tòa án nhân dân ở Việt Nam. Việc khảo cứu kinh nghiệm pháp luật các nước về chế định đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự qua tài liệu thứ cấp chỉ là làm rõ hơn mô hình lý luận pháp luật về vấn đề này. Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về thực tiễn thực thi pháp luật có liên hệ với các vụ việc đã diễn ra ở các thời điểm trước đó. 4 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu theo phương pháp luận của triết học Mác Lênin, đồng thời, sử dụng các phương pháp truyền thống có độ tin cậy như phân tích tổng hợp, lịch sử cụ thể và các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: phương pháp phân tích quy phạm, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh… Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong từng chương của đề tài, những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ được tác giả áp dụng như sau: - Trong chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm tổng quan tình hình nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đã được giải quyết, những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu, từ đó đưa ra cơ sở lý thuyết nghiên cứu, xác định câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu… - Trong chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, từ đó phân tích làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Đồng thời phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng nhằm tìm hiểu chế định về người đại diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới nhằm làm rõ thêm mô hình lý luận pháp luật về vấn đề này. - Trong chương 3, tác giả sử dụng phương pháp phân tích quy phạm, để phân tích làm rõ các quy định của pháp luật, để thấy được những điểm tiến bộ, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành.. Mặt khác, phương pháp khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu điển hình một số vụ án cụ thể được sử dụng để đánh giá những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. - Trong chương 4, các phương pháp phân tích và dự báo khoa học được sử dụng chủ yếu trong việc đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. 5 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chế định đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam, cụ thể: - Làm rõ các nội dung về phương diện lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự như: Khái niệm, đặc điểm của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; căn cứ xác lập đại diện, điều kiện trở thành người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, hậu quả pháp lý của việc xác lập và chấm dứt đại diện, thời hạn đại diện, phạm vi đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. - Luận án cũng đã phân tích và đánh giá khách quan thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự tại Việt Nam; làm rõ những bất cập, chồng chéo và những hạn chế của các quy định pháp luật về người đại diện trong việc bảo vệ lợi ích của các bên đương sự trong tố tụng dân sự. Những nội dung chủ yếu của các quy định pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của người đại diện, căn cứ cũng như hậu quả pháp lý của việc xác lập và chấm dứt quan hệ đại diện đã được luận án hệ thống hóa, phân tích và giải thích, làm rõ. - Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được làm sáng tỏ, luận án đã đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp đồng bộ, khoa học để khắc phục những hạn chế và nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát và làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, làm rõ nội hàm pháp luật của người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự. Những kết luận, đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì 6 vậy, chúng có giá trị tham khảo trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ có giá trị tham khảo cho cán bộ, thẩm phán của Tòa án nhân dân khi nghiên cứu, xét xử các vụ việc dân sự có người đại diện của đương sự tham gia tố tụng; là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng pháp luật có liên quan đến chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. 7. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được kết cấu gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu. Chương 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay. Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nhóm nghiên cứu những vấn đề chung về lý luận và thực tiễn pháp luật về chế định đại diện Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, đại diện là một chế định quan trọng trong đời sống pháp lý xã hội. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều xem đây là một chế định quan trọng, chế định trung tâm của luật dân sự hiện đại. Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về nguời đại diẹn của đuong sự, điển hình như: Trong cuốn “Thủ tục tố tụng dân sự” của hai tác giả - Stephen Gerlis, Paula Loughlin - đã phân tích rõ nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật trong việc cung cấp thông tin cho khách hàng và cung cấp thông tin trước Toà án. Một đại diện pháp lý hành động cho một bên phải nỗ lực để đảm bảo rằng bên kia hiểu nhiệm vụ của mình tuân thủ việc tiết lộ. Một khi người được đại diện phát hiện có những tài liệu bất lợi cho vụ việc của mình thì một đại diện hợp pháp phải giải thích đầy đủ điều này cho khách hàng của mình. Thông tin phải được cung cấp cả bằng miệng và bằng văn bản. Người đại diện theo pháp luật được yêu cầu đưa ra bất kỳ lời giải thích nào bằng tiếng Anh đơn giản, để đảm bảo rằng khách hàng hoàn toàn hiểu được loại thỏa thuận mà anh ta đang ký kết [137]. Theo tác phẩm “Bàn về thủ tục tố tụng dân sự” của tác giả J.A.Jolowicz đã phân tích vai trò của người đại diện; nội dung những hoạt động của người đại diện tập thể trong các vụ việc dân sự, đó là một hệ quả của việc công nhận quyền trung gian rằng nếu các thủ tục tố tụng được đưa ra để bảo vệ họ, những người tố tụng phải được đưa ra bởi một người đại diện. Điều này dẫn đến một số câu hỏi về tính hợp pháp của người đại diện, cho dù cá nhân hay hiệp hội. Vai trò của người đại diện chỉ là đưa ra câu hỏi để đi tới quyết định của Tòa án. Hình thức tố 8 tụng tập thể hoặc hành động đại diện tập thể được xử lý tốt nhất khi hành động được đưa ra bởi một đại diện của một nhóm hoặc một nhóm người sẽ xuất hiện để cung cấp cái nhìn cơ bản về nội dung thủ tục tố tụng rõ ràng nhất để bảo vệ quyền lợi hoặc lợi ích của nhóm hoặc tập thể [138]. Trong cuốn “Các tài liệu và vụ việc về thủ tục tố tụng dân sự” của các tác giả - Jack H.Friedenthal, Arthur R.Miller, John E. Sexton & Helen Hershkoff – đã đề cập tới việc chỉ định người đại diện trong các vụ việc cụ thể; năng lực của người đại diện; vai trò của người đại diện của bị đơn trong quá trình tố tụng, từ thời gian được triệu tập để tiến hành thủ tục kiện tụng cho tới các phiên xét xử tại toà. Một số cá nhân hoặc tổ chức chỉ có thể xuất hiện tại Tòa án thông qua đại diện hợp pháp. Ví dụ như tài sản của một người quá cố, trẻ sơ sinh và một người thiếu năng lực về tinh thần. Trong một nền dân chủ, nơi mà nhiều người không có quyền lực lập pháp, vì họ quá ít về số lượng, hoặc quá phân tán để bầu đại diện, hoặc vì họ không có nguồn lực tài chính để gây ảnh hưởng đến các nhà lập pháp, tranh tụng tập thể trong lớp hoặc các hình thức đại chúng khác một chiến lược thay thế cho hành động nhóm [134]. Trong nội dung cuốn “Thủ tục tố tụng dân sự tại Pháp” của tác giả Peter E. Herzog đã nhắc tới việc chỉ định đại diện của Toà án tại Paris. Theo truyền thống lâu đời, đại diện của công chúng là việc có mặt tại hội nghị, nhưng không thực hiện bỏ phiếu. Bên cạnh đó, cuốn sách này còn đề cập tới việc một người chồng lập gia đình theo các chế độ khác nhau để anh ta có quyền quản lý tài sản của vợ mình cũng được coi là người đại diện của vợ, với kết quả là người vợ không thể sử dụng phe đối lập với một phán quyết được đưa ra trong tranh chấp được thực hiện bởi chồng cô mặc dù ảnh hưởng đến lợi ích của cô [136]. Trong cuốn “Mục tiêu pháp lý dân sự và thủ tục tố tụng dân sự trong hệ thống tư pháp đương đại” của tác giả Alan Uzelac có nêu tới nội dung phân tích về đại diện do Toà án chỉ định; các vụ kiện về đại diện; những rủi ro của người làm đại diện trong vụ việc dân sự; sự ảnh hưởng của người đại diện trong vụ việc dân sự. Chi tiết hơn thì nội dung của cuốn sách đề cập tới một số loại thủ tục 9 cung cấp quyền tiến hành kiện tụng đại diện cho một số hiệp hội hoặc cơ quan công cộng độc lập (ví dụ: Verbandsklage) tồn tại ở một số khu vực pháp lý, nhưng tất cả đều thu được nhiều lợi ích lý thuyết hơn mức độ liên quan thực tế. Trên thực tế, rất ít hệ thống tư pháp dân sự chín muồi trong việc xử lý đầy đủ các tuyên bố đa đảng ngay cả bằng phương pháp thông thường của vụ kiện và quản lý tòa án (sáp nhập các vụ kiện, tranh tụng chiến lược, v.v.). Điều này rõ ràng vẫn là thách thức để được giải quyết trong tương lai. Trong hai trường hợp: lợi ích cá nhân và siêu tư nhân thì thường được kết hợp với các loại thủ tục tố tụng đặc biệt, chẳng hạn như hành động tập thể hoặc đại diện. Luật Áo và Đức cho phép một số hiệp hội hoặc cơ quan công lập độc lập có quyền đưa ra một hành động đại diện cho việc cứu trợ bắt buộc hoặc tuyên bố trong các lĩnh vực cụ thể của pháp luật. Ngoài ra còn có những bài đăng như: “Vai trò khác nhau của đại diện” (The different roles of agents. De Voil Indirect Tax Intelligence) của tác giả Newark [129]; “Luật đại diện” (Law Agency) của tác giả Wolfram MüllerFreienfels cũng đề cập nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của chế định đại diện [149]. Ở Việt Nam, tác giả Ngô Huy Cương (2009) có bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ luật so sánh” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2009. Theo tác giả, pháp luật dân sự của các nước trên thế giới có nhiều cách hiểu và định nghĩa về đại diện khác nhau. Ví dụ, Điều 99 Bộ luật Dân sự của Nhật Bản năm 2005 quy định về đại diện như sau: Sự biểu lộ ý chí bởi người đại diện thể hiện rằng sự biểu lộ ý chí đó được lập ra nhân danh người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện ràng buộc người được đại diện; các quy định này được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí nào bởi người thứ ba tới người đại diện. Quy định này cho thấy: (i) Việc trao quyền đại diện không nhất thiết là một hợp đồng, có nghĩa là có thể bởi các nguồn gốc hay căn cứ khác; (ii) Người đại diện không nhất thiết phải hành động trong lĩnh vực xác lập hay thực hiện 10 giao dịch dân sự; (iii) Yêu cầu người đại diện phải thể hiện sự nhân danh người được đại diện. Pháp luật Anh giải thích thuật ngữ đại diện (agency) được sử dụng để chỉ mối quan hệ tồn tại khi một người có thẩm quyền hoặc năng lực để tạo lập mối quan hệ pháp lý giữa một người giữ vai trò là người được đại diện và người thứ ba. Và nó được giải thích thêm là quan hệ đại diện xuất hiện bất kỳ khi nào một người, được gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành động nhân danh người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và bằng lòng hành động như vậy. Tương tự, Luận thuyết về đại diện (lần thứ hai) của Hoa Kỳ định nghĩa: Đại diện là quan hệ ủy thác phát sinh từ việc biểu lộ sự ưng thuận bởi một người với một người khác mà người sau này hành động nhân danh và phụ thuộc vào sự kiểm soát của người trước, và sự ưng thuận bởi người sau hành động như vậy”. Theo pháp luật Hoa Kỳ, chế định đại diện có đặc điểm sau: Thứ nhất, là một quan hệ ưng thuận mà trong đó người đại diện đồng ý hay ít nhất bằng lòng hành động dưới sự chỉ dẫn hay kiểm soát của người được đại diện; Thứ hai, là một quan hệ ủy thác mà theo đó người đại diện đồng ý hành động cho và nhân danh người được đại diện. Từ sự so sánh pháp luật các nước về chế định đại diện, bài viết nêu lên những vấn đề nổi bật và những khiếm khuyết còn tồn tại của Bộ luật Dân sự năm 2005 cả từ phương diện lý luận lẫn trong thực tiễn dựa trên sự so sánh của pháp luật các quốc gia khác [19]. Trong bài viết “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí Nghề luật số 06/2010 cũng đã trình bày một cách tổng quát về một số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền của đương sự và người đại diện do Tòa án chỉ định. Bài viết phân tích những tồn tại và hạn chế trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, đồng thời có đưa ra một số ví dụ thực tế trong pháp luật về khía cạnh người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra được những khoảng trống trong Điều 73, 74, 75, 164 BLTTDS năm 2004 [32]. 11 Cũng tác giả Nguyễn Thị Hạnh có công bố bài viết “Một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự” trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03/2011. Theo quy định của BLTTDS, người đại diện của đương sự có thể là: Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do Tòa án chỉ định. Bên cạnh đó đánh giá thực trạng vấn đề người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự nhằm chỉ ra những thành công và hạn chế trong pháp luật hiện hành [33]. Năm 2012, tác giả Hồ Ngọc Hiển đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài: “Đại diện cho thương nhân trong pháp luật thương mại Việt Nam” [40]. Trong công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ các nội dung lý luận về đại diện cho thương nhân trong lĩnh vực thương mại, nêu bật được bản chất của quan hệ đại diện thương mại. Đồng thời tác giả đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện cho thương nhân, chỉ rõ những điểm phù hợp và những điểm hạn chế như không thừa nhận thông lệ thương mại, tập quán thương mại, quy định hình thức hợp đồng đại diện cho thương nhân phải bằng văn bản, không thừa nhận đại diện theo thỏa thuận ngầm định, đại diện hiển nhiên; người thứ ba chưa được quan tâm bảo vệ; một số quy định về quyền, nghĩa vụ của người đại diện, về chấm dứt quan hệ đại diện... chưa hợp lý, gây cản trở khó khăn cho các bên trong quan hệ đại diện, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện cho thương nhân trong lĩnh vực thương mại. Cũng vào năm 2012, tác giả Lê Hùng Nhân bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt Nam” [54]. Luận văn đã phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; phân tích các cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, lịch sử phát triển các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; phân tích, đánh giá những quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 12 2011) về người đại diện theo ủy quyền và thực tiễn thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó tác giả đã đánh giá những vướng mắc, bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện, bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Năm 2013, tác giả Trần Vũ Toàn bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam” [105]. Trong nội dung luận văn có phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại diện trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành; đánh giá những quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011); thực tiễn hoạt động của người đại diện trong tố tụng dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đã đánh giá những ưu điểm cũng như chỉ ra những mặt hạn chế của pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự. 1.1.2. Nhóm nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong tố tụng dân sự Quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong tố tụng dân sự là những vấn đề khá quan trọng nhằm quy định và xác lập địa vị pháp lý của người đại diện trong quá trình tham gia tố tụng dân sự. Trong cuốn “Thủ tục tố tụng dân sự” của tác giả Kevin M. Clermont đã nhắc tới nội dung hành động tập thể, ở đây cho phép một hoặc nhiều thành viên của một nhóm người có vị trí tương tự khởi kiện hoặc bị kiện, vì các bên đại diện tranh tụng thay mặt cho các thành viên khác trong tập thể ra Tòa án [135]. Trong khi đó, tại tác phẩm “Tranh chấp và thủ tục tố tụng dân sự” của các tác giả Jack S.Emery, Linda L.Edwards, J.Stanley Edwards lại đề cập rất chi tiết tới các nội dung về quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Để làm rõ hơn nội dung này, các tác giả cũng đưa vào các vụ việc thực tế để tiến hành phân tích vận dụng [139]. Tương tự, cuốn“Thủ tục tố tụng dân sự” của Joseph W. Glannon cũng đã phân tích những vụ việc liên quan tới người đại diện trong vụ việc dân sự thông thường [140]. 13 Trong nội dung cuốn sách “Sự năng động của thủ tục dân sự - xu hướng và phát triển toàn cầu” các tác giả Colin B. Picker, Guy I. Seidman [141] đã phân tích về đại diện đương sự trong vụ việc dân sự của hệ thống thông luật (Common Law), như là trong hệ thống pháp luật của châu Âu. Hành động tập thể ở châu Âu được hình thành như một hành động đại diện, vì đứng trước việc khiếu kiện chỉ các nước thành viên xác định trước hoặc cho các cơ quan công quyền: cả hai sẽ hành động thay mặt cho một nhóm cá nhân (hoặc pháp nhân) đều bị ảnh hưởng bởi các hành vi bất hợp pháp được thực hiện bởi bị đơn. Bên cạnh đó, sách cũng lưu ý về hoạt động tập thể ở Úc là cơ chế “chọn không tham gia”. Quy định này cung cấp một cách để một thành viên trong nhóm “chọn không tham gia” hoạt động tập thể. Một thành viên nhóm có thể chọn không tham gia tố tụng đại diện bằng văn bản thông báo được đưa ra theo Quy tắc của Tòa án trước ngày cố định. Nội dung cuốn “Vận dụng các quy định tố tụng dân sự” của Ian Grainger, Michael Fealy và Martin Spencer đã nêu ra nội dung đại diện của các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình tham gia tố tụng. Đưa ra phân tích về khái niệm đại diện pháp luật của đương sự theo đạo luật Toà án và Dịch vụ pháp lý năm 1990. Thời điểm này, tác giả đưa ra cách hiểu về đại diện pháp luật có thể là luật sư tranh tụng hoặc luật sư tư vấn được chỉ định tham gia tố tụng để thực hiện yêu cầu bồi thường của người được đại diện. Các tác giả còn nhắc tới báo cáo vụ án và các tài liệu khác do người đại diện theo pháp luật soạn thảo phải có chữ ký của người đó và nếu người đại diện theo pháp luật soạn thảo làm thành viên hoặc nhân viên của công ty thì họ phải ký tên công ty [142]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, có thể kể đến một số bài viết có liên quan đến vấn đề người đại diện của đương sự được đăng trên các tạp chí uy tín như: “Pháp luật và thực tiễn pháp luật và thực hành tại các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu về vấn đề đại diện thương mại và thoả thuận phân phối” (Commercial agency and distribution agreements: law and practice in the member states of the European Union) của các tác giả Geert Bogaert, 14 Ulrich Lohmann [125]; “Những án lệ liên quan tới luật đại diện” (Cases on the law of agency) của hai tác giả Warren A. Seavey và Livingston Hall [128]; “Quan hệ Pháp lý trong Luật Đại diện: Quyền lực của Đại diện và Thương mại” (Legal Relations in the Law of Agency: Power of Agency and Commercial) của tác giả W. Muler-Freinfels [150]; “Vấn đề đại diện, chiến lược pháp lý và thực thi” (Agency problems, legal stragegies and enforcement) của các tác giả John Armour, Henry Hansmann và Reinier Kraakman [145]; Bài viết “Những vấn đề về đại diện và Hội đồng quản trị” (Agency Problems and the Board of Directors) của tác giả Onetto, Tạp chí Ngân hàng và Luật pháp quốc tế (Journal of International Banking and Financial Law) [121]. Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình được công bố đã luận giải về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự, cũng như phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật, giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Văn Dũng có bài viết “Bàn về quyền của người đại diện của đương sự quy định tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự” đăng trên Tạp chí Nghề luật số 4 năm 2006. Nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập trong hoạt động tố tụng dân sự thời điểm đó, đặc biệt là tại Điều 243 BLTTDS năm 2004 và đưa ra những đề xuất đối với những người đại diện như việc người đại diện theo ủy quyền liên quan sử dụng quyền kháng cáo, không nên cho rằng quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm là quyền trực tiếp của mình, mà quyền đó là quyền được đương sự ủy quyền… và cần đặt quy định này trong tổng thể chung và trong mối liên hệ với các điều luật có liên quan. Tác giả cũng đã kiến nghị thay cụm từ “người đại diện hợp pháp” bằng “người đại diện theo pháp luật” quy định tại các khoản 4; 5; 6 và 7 Điều 57; Điều 161 BLTTDS năm 2004; cụm từ “người đại diện của đương sự” tại Điều 243 cần bằng cụm từ “người đại diện hợp pháp của đương sự” [24]. Trong khi đó, ở chủ đề khác: “Một người có thể ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng”, tác giả Nguyễn Hải An có bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15 17/2006. Bài viết đã phân tích quy định của pháp luật về việc một người ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng; những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đề này [2]. Cũng đề cập về quyền và nghĩa vụ của người đại diện, tác giả Hồ Ngọc Hiển có bài viết “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3 năm 2007. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số vấn đề nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền với nhau, nghĩa vụ các các bên với người thứ ba theo pháp luật Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định tương ứng của Việt Nam. Trong quá trình so sánh phát luật về người đại diện và người ủy quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, tác giả đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt bao gồm: (i) Về truyền thống luật pháp; (ii) Điều kiện kinh tế khác biệt dẫn đến sự khác biệt về tư quy pháp luật. Bài viết đánh giá mối tương quan giữa pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm nhận thức được một số tồn tại trong pháp luật trong nước về nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền. Thông qua đó, tác giả đề xuất pháp luật về đại diện cần bổ sung một số trường hợp về người ủy quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba khi người đại diện có lỗi [39]. 1.1.3. Nhóm các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và và thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Trong Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Hường với đề tài “Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ vào năm 2014 [44] đã nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự như quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) về điều kiện trở thành người đại diện theo ủy quyền; các căn cứ làm phát sinh và phạm vi đại diện theo ủy quyền, những trường hợp không được làm người đại diện theo ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, hậu quả pháp lý của 16 việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, công trình cũng phân tích những bất cập, hạn chế trong những quy định của pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện, tìm ra nguyên nhân của nó để đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự. Tác giả Nguyễn Thị Lan Anh bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” vào năm 2015 [1]. Công trình nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề lý luận về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền. Phân tích quy định của BLDS năm 2005 về về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền, chỉ những điểm phù hợp, những điểm chưa phù hợp, có sự so sánh với pháp luật của một số quốc gia có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới và nhìn nhận lại các quy định từng có trong lịch sử lập pháp của Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn đã chỉ ra được những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại mà pháp luật hiện hành chưa giải quyết được. Từ đó, luận văn ý kiến góp ý hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền nói riêng, về chế định đại diện nói chung. Tác giả Ngô Thị Lộc bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” vào năm 2016 [48]. Công trình đã nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về đại diện trong tố tụng dân sự như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, phân loại người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; sơ lược về sự phát triển các quy định về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; quy định về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự của một số quốc gia trên thế giới. Công trình nghiên cứu các quy định của BLTTDS Việt Nam năm 2015 về người đại diện của đương sự; So sánh sự thay đổi so với quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Bên cạnh đó, công trình cũng phân tích thực tiễn thực 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan