Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ngôn từ trong tiểu thuyết y ban...

Tài liệu Ngôn từ trong tiểu thuyết y ban

.PDF
69
267
70

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ===***=== NGUYỄN THỊ THANH THÙY NGÔN TỪ TRONG TIỂU THUYẾT Y BAN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học HÀ NỘI – 2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ===***=== NGUYỄN THỊ THANH THÙY NGÔN TỪ TRONG TIỂU THUYẾT Y BAN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Người hướng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH HÀ NỘI – 2013 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài Ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo Nguyễn Thị Vân Anh - người đã hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn học đã tạo điều kiện giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình để tôi hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, ngày 30 tháng 05 năm 2013 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Thùy LỜI CAM ĐOAN Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Nguyễn Thị Vân Anh. Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi. Những gì được triển khai trong khóa luận không trùng khớp với bất cứ một công trình nghiên cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 30 tháng 05 năm 2013 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Thùy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 7 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 7 6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................................. 8 7. Bố cục khóa luận ......................................................................................................... 8 NỘI DUNG ................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1975 ........................ 9 1.1. Ngôn ngữ văn học và vai trò của ngôn ngữ trong sáng tạo và tiếp nhận văn học . 9 1.2. Một số đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 .................. 12 1.2.1. Ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực đời thường ............................... 13 1.2.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận ............. 14 1.2.3. Ngôn ngữ mang tính đa dạng về giọng điệu........................................ 15 CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ TRONG TIỂU THUYẾT Y BAN .... 17 2.1. Ngôn từ trong ý thức sáng tạo của Y Ban ............................................................. 17 2.2. Một số đặc điểm cơ bản của ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban ............................. 19 2.2.1. Ngôn ngữ đời thường.......................................................................... 20 2.2.2. Ngôn ngữ chợ búa, vỉa hè ................................................................... 23 2.2.3. Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn y học...................................................... 25 2.3. Ngôn ngữ trần thuật đa giọng điệu ........................................................................ 28 2.3.1. Ngôn ngữ trần thuật mang giọng bi hài, mỉa mai ................................ 29 2.3.2. Ngôn ngữ trần thuật mang giọng sắc lạnh, tỉnh táo, gai góc ................ 35 2.3.3. Ngôn ngữ trần thuật mang giọng chiêm nghiệm triết lí ....................... 41 2.3.4. Ngôn ngữ trần thuật mang giọng tâm tình, xót thương........................ 44 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ THỦ PHÁP SÁNG TẠO NGÔN TỪ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA Y BAN ............................................................................... 50 3.1. Sử dụng lớp ngôn ngữ báo chí ngắn gọn mang đậm lượng thông tin.................. 50 3.2. Sử dụng kết hợp lớp từ cổ, từ địa phương ............................................................. 52 3.3. Sử dụng linh hoạt các kiểu câu .............................................................................. 52 3.4. Câu văn liền mạch, không xuống dòng ................................................................. 55 3.5. Ngôn ngữ mạng, sử dụng hình thức viết thư......................................................... 56 KẾT LUẬN ................................................................................................. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, yếu tố thứ nhất của văn học. Nói như M. Gorki: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống - là chất của văn học”. Như vậy, không có ngôn từ thì không có tác phẩm văn học, bởi ngôn từ đã vật chất hóa, cụ thể hóa sự biểu hiện của chủ đề, tư tưởng, cốt truyện … Với tiểu thuyết, một thể loại tiêu biểu của văn xuôi nghệ thuật thì ngôn từ lại càng đóng vai trò quan trọng. Trong tiểu thuyết, ngôn ngữ được xem là một trong những phương diện quan trọng nhất để khu biệt nó với các thể loại văn học khác. Qua đây, tiểu thuyết thực sự tạo thành một trung tâm hoàn toàn mới mẻ, năng động và sáng tạo. Những cách tân độc đáo của thể loại này có thể được tìm thấy trên các khía cạnh khai thác ngôn từ như: tổ chức lời văn nghệ thuật, đặc điểm từ ngữ, câu văn, các thủ pháp sáng tạo về ngôn ngữ,… Trong việc nghiên cứu một tác phẩm văn học nói chung, một tiểu thuyết nói riêng thì tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. 1.2. Văn học là bức tranh chân thực phản ánh đời sống. Theo dòng chảy của thời gian, văn học cũng có những thay đổi cho phù hợp với cuộc sống mới, với nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ mới. Đổi mới, sáng tạo là quy luật phát triển của văn học mọi thời. Văn học sau năm 1975 là một cuộc chuyển dòng ngoạn mục của tiến trình văn học dân tộc. Sau năm 1975 đặc biệt là từ thời kì đổi mới (1986) nền văn học nước nhà có nhiều biến chuyển và khởi sắc. Sự đổi mới diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau: từ cảm hứng chủ đạo, quan niệm nghệ thuật về con người đến các phương thức thể hiện. Trong dòng chảy ấy thấy nổi lên một số tên tuổi tiêu biểu mà khởi sắc là sáng tác của đông đảo các cây bút nữ vừa trẻ về tuổi đời, vừa giàu nội lực sáng tạo. Đây là thời kì mà người ta thường gọi là thời kì “văn học mang gương mặt nữ”. Y Ban là một trong những gương mặt nổi bật ấy. Cùng với Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan 1 Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Việt Hà, chị là người có nhiều đóng góp trong việc tạo nên diện mạo của đời sống văn học đương đại. Y Ban là một trong những nhà văn có những tìm tòi sáng tạo lối viết, cây bút nữ quen thuộc trong làng văn học hiện đại những năm đổi mới. Chị xuất hiện nổi bật từ giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội (1989- 1990) với truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà. Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực truyện ngắn, Y Ban còn sáng tác cả tiểu thuyết. Lần đầu tiên nhà văn cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Đàn bà xấu thì không có quà (2004) đã thu hút sự quan tâm của độc giả và giới phê bình, kích thích được cảm hứng tranh luận trên văn đàn. Lần lượt sau đó là các tiểu thuyết: Xuân Từ Chiều (2008) - Giải C cuộc thi viết tiểu thuyết lần thứ ba (2006- 2010) của Hội Nhà văn Việt Nam, Trò chơi hủy diệt cảm xúc (2012). Đã có không ít những cuộc phỏng vấn, những bài báo, tạp chí, không ít những cuộc trao đổi trên các diễn đàn về tiểu thuyết của Y Ban, trong đó có cả những trang diễn đàn đăng tải trên mạng internet của người Việt ở nước ngoài. Càng viết, độ chín ngòi bút Y Ban càng đậm đà. Chị đi vào các ngõ ngách cuộc sống với những trang viết chân thật, dung dị, có lúc bạo liệt. Sáng tác của chị được nhiều người đón đọc. Nhiều tác phẩm có những dư vang, ám ảnh day dứt. Với những tác phẩm táo bạo đổi mới trong nghệ thuật, tư tưởng, đến nay, Y Ban đã có những đóng góp nhất định cho văn học nước nhà thời kì đổi mới. Hơn nữa, việc nghiên cứu tiểu thuyết của một cây bút tiêu biểu của văn học đương đại như Y Ban là cần thiết. Đây cũng là lí do thôi thúc tác giả khóa luận lựa chọn đề tài kể trên. 1.3. Một điều đặc biệt quan trọng với tác giả khóa luận – một giáo viên Ngữ văn ở ngưỡng cửa tương lai, thông qua tìm hiểu ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban, người viết sẽ có cơ hội tốt để nâng cao trình độ tư duy và thao tác tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật – một phương diện, một chất liệu đặc thù của văn học nghệ thuật. Đây được xem là phần việc quan trọng hàng đầu với người dạy văn. Bởi chỉ khi có một năng lực tư duy nhạy bén và thành thục với các thao 2 tác giảng dạy tác phẩm, người giáo viên mới có thể giúp học sinh đến được với cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương. Xuất phát từ những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban. Qua đó, người viết, một mặt, tìm hiểu những cách tân mới mẻ của Y Ban trên góc độ ngôn ngữ nghệ thuật, mặt khác, nhằm ghi nhận những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam đương đại về phương diện này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Các bài viết về tác phẩm của Y Ban in trên các báo và tạp chí Những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trước, văn học xuất hiện nhiều cây bút trẻ, đây là một sự kiện mới được nhiều người chú ý trong đó nhiều tác giả đã quan tâm tới những sáng tác của Y Ban. Nhận định về sáng tác của Y Ban, nhà nghiên cứu phê bình văn học Bùi Việt Thắng trong bài “Một giọng nữ trầm trong văn chương” đã chỉ ra những cái được và những cái chưa được trong truyện của Y Ban: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống tiêu biểu”, cũng trong bài viết này ông khái quát: “Truyện của Y Ban có thể được xếp vào dạng tâm tình - không đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng đọng trong người đọc bởi chiều sâu tâm tư của tính cách da diết của tình đời, tình người” [31]. Vẫn là của tác giả Bùi Việt Thắng, bài viết “Khi người ta trẻ” in trên báo Văn nghệ số 43/1993, Y Ban cũng là một nhà văn nhận được nhiều lời ngợi khen từ tác giả: “Y Ban quan tâm đến yếu tố thời gian nghệ thuật nên truyện của chị đậm chất chiêm nghiêm, triết lí” [30]. Báo Văn nghệ số 25/2003, đăng bài “Y Ban và những thân phận đàn bà” của Xuân Cang. Trong đây, tác giả đã phân tích và lí giải về cách xây dựng nhân vật nữ của Y Ban. Ông đánh giá: “Y Ban là một người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm và chị cảm nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người” [9]. 3 Trong “Báo cáo kết quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội”, giám đốc Nhà xuất bản Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B) lại có một lối kể chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn người đọc vào những suy tư và tự xem lại cách sống của mình”. Nhìn chung những bài viết về sáng tác của Y Ban in trên các báo và các tạp chí chưa thực sự phong phú về số lượng và chưa sâu về mức độ khảo sát. Đa số các tác giả chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu, nhận diện tác giả mà chưa có những nghiên cứu cụ thể các bình diện của tác phẩm. 2.2. Các bài viết, trao đổi về tác phẩm của Y Ban trên các trang diễn đàn và báo mạng Các bài viết và đánh giá về những tác phẩm của Y Ban trên mạng internet chủ yếu là quan điểm và cảm nhận của độc giả nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp. Số lượng rất phong phú, dưới đây xin được hệ thống một số bài viết của các nhà báo và một số cuộc trao đổi của độc giả là thành viên của những diễn đàn có uy tín trên mạng. Trên trang www.phunucali.com một trang tạp chí của người Việt Nam ở nước ngoài có đưa bài viết khá công phu về “Tình dục và văn chương nữ giới trong nước” của Nguyễn Mạnh Trinh. Bài viết thể hiện một cái nhìn khá cởi mở về vấn đề tình dục trong văn chương. Nguyễn Mạnh Trinh đã tìm hiểu tương đối kỹ lưỡng về phản ứng của dư luận trong nước đối với một số tác phẩm mang yếu tố sex mà tác giả là các nhà văn nữ: Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Tre rừng (Năm con Ngựa Trời), I am Đàn bà (Y Ban). Cũng trên diễn đàn này, thống kê cho thấy có tới hơn hai mươi bài viết của các thành viên trao đổi xung quanh chủ đề “Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc nhìn văn hóa”. Đa số các ý kiến đều đánh giá cao tác phẩm có chứa sex của Y Ban trong đó có nhiều bài viết sắc sảo, thú vị tỏ ra người viết là độc giả có trình độ. 4 Mới gần đây khi Nhà xuất bản Phụ nữ cho phát hành tiểu thuyết Xuân Từ Chiều (6/2008), trên báo mạng cũng liên tục có những bài viết về tác phẩm này. Chưa có nhiều bài viết đi sâu mà chủ yếu là những tóm tắt về số phận của ba nhân vật và đều thống nhất ở những nhận định chung về nội dung cũng như lối viết của nhà văn. Trang www.evan.vnxpress.net có bài viết “Xuân Từ Chiều” của Thanh Huyền. Tác giả nói về người đàn bà ẩn sau câu chuyện “Xuân Từ Chiều câu chuyện về ba người đàn bà bị trêu ngươi. Hình bóng thứ tư hoặc nhẹ lẫn vào ba con người đó là dáng dấp của Y Ban – người viết có khuôn mặt cười nhưng đã không ít bận nuốt nước mắt vào trong những khi mải mốt đi tìm hạnh phúc”. Cuối bài viết tác giả đã nhận định thêm về kết cấu của cuốn tiểu thuyết: “Truyện không có một cái cốt chặt chẽ mà như một ghi chép lộn xộn, ngẫu hứng những lời kể của người trần thuật. Nhà văn dường như cũng chỉ kể một cách tự nhiên mà không quan tâm đến việc kiến tạo cho câu chuyện của mình một cấu trúc. Lối kể đó phù hợp với những chuyện vặt vãnh trong nhà, ngoài phố, nhìn đến đâu kể đến đó. Và vì thế mà tác phẩm cuốn hút” [18]. “Xuân Từ Chiều – chua xót với nỗi con người” là tên bài viết của Trần Thanh Hà được đẩy trên trang báo www.antd.vn, tác giả không đi sâu vào phân tích tác phẩm mà có tính chất tóm tắt nội dung và nhận diện lối viết mới mẻ của Y Ban: “Nhà văn Y Ban vốn chuyên viết về đàn bà, lần này chọn một cách viết rất đàn bà, là lối kể chuyện vô cùng ngồi lê đôi mách. Chính bởi cách viết này mà tất cả những câu chuyện to nhỏ trong đời sống của người đàn bà đều được truyền tải một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn… Mới đọc tưởng đây chỉ là chuyện ngồi lê đôi mách của đàn bà, nhưng càng đọc càng thấy chua xót với nỗi đàn bà, nỗi con người trong thời đại chúng ta” [14]. Cũng trên tinh thần của những bài viết trên, Nguyễn Đức Dương cũng bị lay động và day dứt bởi “những câu chuyện rất thường” của Xuân Từ Chiều: “Cũng ám ảnh và dữ dội không kém I am Đàn bà, Xuân Từ Chiều là câu chuyện về cuộc đời của những người phụ nữ mà chúng ta có thể dễ dàng 5 bắt gặp khuôn mẫu trong xã hội… Hãy đọc tác phẩm để thấy được một phần của mình trong đó” [12]. Mở đầu cho bài phỏng vấn của mình với nhà văn Y Ban, nhà báo Hà Linh cũng có những cảm nhận riêng của mình về những tác phẩm: “Vẫn viết về phụ nữ, cuốn tiểu thuyết mới của Y Ban là câu chuyện về ba người đàn bà bị trêu ngươi. Tác phẩm mở ra một không gian của một cái chợ đời, nơi nhân vật buôn chuyện buồn số phận, những mong mua lấy chút nhân tình” [19]. Bài viết “Xuân Từ Chiều – một lát cắt mới về cuộc sống người phụ nữ” của Minh Văn Chất cũng là lời giới thiệu về nội dung của cuốn sách kèm theo những cảm nhận rất riêng: “Đọc Xuân Từ Chiều độc giả dường như nín thở, hồi hộp lo lắng cho những nhân vật của tác phẩm, mạch tiểu thuyết diễn tiến nhanh, liên tục như cuốn hút độc giả từ trang đầu đến trang cuối của tác phẩm. Với kết cấu liền mạch (không chia đoạn) có vẻ như Y Ban đã lấy một hơi dài để kìm nén cảm xúc lòng mình, để viết và chỉ thở hắt ra khi đã tuôn trào hết. Chính điều đó đã tạo nên sự hụt hẫng, lắng đọng trong lòng độc giả khi đọc hết tác phẩm” [10]. Mới gần đây khi nhà văn cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Trò chơi hủy diệt cảm xúc cũng đã gây được nhiều tranh luận trên văn đàn văn học đương đại. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Cuốn sách này bày ra một trò chơi? Hay là một sự thật… Trò chơi đã cuốn các nhân vật tham gia vào những cười khóc, những lú lẫn và những bừng tỉnh… Khi Y Ban chọn trò chơi này thì chị đã chọn được một cách thể hiện rất đặc biệt và vô cùng hiệu quả cho cuốn tiểu thuyết mới của mình” [5]. Nhìn lại chặng đường đã qua, ta thấy có nhiều ý kiến bình luận khác nhau về các tiểu thuyết của Y Ban và hầu hết đều khẳng định vị trí quan trọng của tác phẩm trong loại hình tiểu thuyết đương đại. Những công trình nghiên cứu tuy nhiều nhưng chưa tập trung đi sâu vào tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật một cách toàn diện, sâu sắc. Tìm hiểu sâu ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Y Ban, tác giả luận văn muốn góp phần tạo thêm cơ sở vững chắc vào việc 6 khẳng định tài năng của Y Ban, đồng thời qua đó thấy được sự cách tân của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của khóa luận là tìm tòi, phát hiện những nét độc đáo về ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Y Ban; chỉ ra những thủ pháp tiêu biểu trong sáng tạo ngôn từ của nhà văn, tất nhiên không tách rời nó với việc thể hiện, làm sáng tỏ giá trị nội dung của các tiểu thuyết. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Xuất phát từ việc nắm vững những kiến thức về ngôn từ văn học nói chung và ngôn từ trong tiểu thuyết đương đại nói riêng, khóa luận có nhiệm vụ chỉ ra những đặc điểm cơ bản về ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Y Ban. 3.2.2. Khóa luận đi sâu phát hiện những sáng tạo độc đáo về ngôn từ của nhà văn và hiệu quả nghệ thuật của những sáng tạo đó trong khi thể hiện nội dung tác phẩm. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Y Ban. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát các tiểu thuyết của Y Ban: 1. Đàn bà xấu thì không có quà (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2004) 2. Xuân Từ Chiều (Nhà xuất bản Phụ nữ - 2008) 3. Trò chơi hủy diệt cảm xúc (Nhà xuất bản Trẻ - 2012) 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận sử dụng chủ yếu những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống - Phương pháp phát sinh lịch sử 7 - Phương pháp thống kê, so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 6. Đóng góp của khóa luận Trên cơ sở những kiến thức lí luận cơ sở, khóa luận chỉ ra những nét độc đáo về tổ chức ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Y Ban. Phát hiện và phân tích những thủ pháp sáng tạo ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban. Với những phát hiện này, khóa luận khẳng định đóng góp to lớn của Y Ban trong hành trình cách tân thể loại tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đặc biệt là về mặt ngôn từ. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của khóa luận sẽ được triển khai thành các chương sau: Chương 1: Những vấn đề chung về ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 Chương 2: Đặc điểm ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban Chương 3: Một số thủ pháp sáng tạo ngôn từ trong tiểu thuyết Y Ban 8 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1975 1.1. Ngôn ngữ văn học và vai trò của ngôn ngữ trong sáng tạo và tiếp nhận văn học 1.1.1. Từ trước tới nay, ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp trọng yếu và quan trọng nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người truyền đạt được những tư tưởng, ý định, mục đích với nhau. Trong Từ điển tiếng Việt có định nghĩa: “Ngôn ngữ là hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng đồng” [24; 688]. Cuốn Bàn về ngôn ngữ thì nhận định: “Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy cùng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác nữa” [22; 14]. Xét ở lĩnh vực văn chương, ngôn ngữ nghệ thuật chính là ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông: “Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt bao gồm những dấu hiệu, kí hiệu được sử dụng với mục đích trao đổi hoặc truyền tải thông tin. Trong nghệ thuật, mỗi chuyên ngành đều có ngôn ngữ riêng để diễn đạt loại hình nghệ thuật của mình” [23; 116]. 1.1.2. Trong văn học, ngôn ngữ mang những giá trị đặc biệt, vừa truyền tải dung lượng thông tin nhất định vừa mang tính thẩm mĩ cao. Ngôn ngữ ở vị trí trung tâm của văn học thể hiện phông văn hóa, cá tính sáng tạo của nhà văn và xu thế ngôn ngữ chung của thời đại. Phân biệt ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ nói chung, Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có tính chất rộng hơn, nhằm bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được 9 dùng một cách chuẩn mực trong các biên bản nhà nước, trên báo chí, trên đài phát thanh, trong văn học và khoa học” [15; 183]. Ngôn ngữ văn học không vì thế mà từ bỏ cội nguồn tự nhiên của nó. Từ cội nguồn này nhà văn đã lựa chọn, chắt lọc để tạo nên vốn ngôn ngữ của riêng mình. Giải thích về cội nguồn của ngôn ngữ văn học Từ điển thuật ngữ văn học nhận xét: “Ngôn ngữ văn học chính là dạng ngôn ngữ đời thường được lựa chọn đưa vào trong tác phẩm văn học. Cội nguồn của nó bắt đầu từ kho ngôn ngữ của nhân dân. Ngôn ngữ nhân dân càng phong phú thì ngôn ngữ văn học càng tiếp thu và sáng tạo được nhiều hơn” [12; 183]. Bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi thông tin mà ngôn ngữ ra đời, bắt nguồn từ nhu cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp mà văn học ra đời. Ngôn ngữ văn học đã đem lại bản chất nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên nét khu biệt giữa ngôn ngữ văn học với ngôn ngữ nói chung. 1.1.3. M. Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nếu tác phẩm văn học là tổng hòa của nhiều yếu tố thì ngôn ngữ chính là yếu tố căn cốt, yếu tố đầu tiên để kiến tạo nên tác phẩm văn học. Vai trò của ngôn ngữ đối với văn học được thể hiện ở một số điểm sau: Ngôn ngữ là chất liệu của văn học. Khác với các loại hình nghệ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, hình tượng nghệ thuật trong văn học được xây dựng bằng ngôn từ, vì thế không tác động trực tiếp vào thị giác, thính giác công chúng mà tác động đến trí tưởng tượng, cảm xúc của người đọc, làm lay động tâm hồn người đọc. Đó là tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ có tính chất bắc cầu: ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc khai thác và khám phá của văn học. Ngôn ngữ giúp cho văn học mở rộng phạm vi, đối tượng phản ánh theo không gian, thời gian, giúp cho người đọc sống với nhiều cuộc đời, nhiều cảm xúc, sống với chiều trôi chảy của thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. Như vậy, ngôn ngữ văn học đã giúp người đọc mở rộng tầm hiểu biết của mình. 10 Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong thể hiện cá tính của nhà văn. Nó cũng là sự biểu hiện phong cách, tâm lí, quan điểm, lập trường, ý thức sáng tạo, tâm huyết của nhà văn gửi gắm trong đó. Tác giả có phong cách ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo phải là người có quan niệm nghệ thuật riêng, cái nhìn riêng đối với đời sống con người và phải được biểu đạt bằng một giọng điệu riêng, tiếng nói riêng của mình. Chẳng hạn như Nguyễn Huy Thiệp đã dùng giọng nói châm biếm, mỉa mai hài hước cay độc để phơi bày những cái xấu xa, đồi bại, tha hóa, lố bịch của con người trên trang giấy của mình. Phạm Thị Hoài lại dùng lối văn phê phán phủ định, trào phúng, bắt người đọc phải suy nghĩ, trăn trở, day dứt và luôn cảm thấy không yên ổn. Nhưng dù nói thế nào đi nữa một khi đã gắn với người nghệ sĩ thì ngôn ngữ cũng là thứ đã được ý thức sáng tạo một cách sâu sắc. Bởi vì “Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ chẳng khác gì anh chàng mất trí lao xuống sông cuồn cuộn mà không biết bơi” [23; 71]. 1.1.4. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng, dẫn dắt người đọc tìm hiểu tác phẩm. Theo góc nhìn của thi pháp học hiện đại thì ý nghĩa tác phẩm là một thuộc tính hàm ẩn, nó phải được khám phá qua nhiều lần cảm thụ. Cách tiếp cận theo lối ấn tượng chủ nghĩa không còn thuyết phục nữa. Do vậy, khi đọc tác phẩm phải nắm được ngữ cảnh, trong đó, ngữ cảnh đầu tiên là các quy tắc ngôn ngữ. Tiếp cận văn học từ góc độ ngôn ngữ giúp cho người đọc tránh được lối đọc thụ động, tránh được lối suy diễn tài tử được đâu trúng đó. Điều kiện để đến với tác phẩm bằng con đường chân chính là phải nắm được toàn bộ yếu tố tác phẩm, một cách trực diện là nắm được ngôn ngữ tác phẩm. Có như vậy mới là đối xử công bằng với tác phẩm văn học. Ngôn ngữ văn học là cầu nối giữa tác phẩm với người đọc, giữa nhà văn với độc giả. Đọc có nghĩa là đồng sáng tạo cùng với nhà văn. Như vậy ngôn ngữ văn học là yếu tố đầu tiên cần xem xét khi tiếp cận tác phẩm văn học. Giải thích văn học bằng ngôn ngữ đã và đang là một xu thế 11 của tiếp cận văn học hôm nay. Văn học chân chính là văn học sử dụng hệ ngôn ngữ có ý thức. 1.2. Một số đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang chuyển biến và chưa định hình. Ra đời và đang trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử, nó trở thành thể loại khác biệt, không tham gia vào sự tác dụng hữu cơ của thể loại khác. Nó có sức mạnh để đứng riêng độc lập, lấn lướt các thể loại khác, thu hút các thể loại vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng. Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ của thời hiện tại năng động và đa dạng, có sự ý thức, cá tính hóa phong cách nhà văn, bởi nhà văn vừa tổ chức hệ lời sống động, vừa không triệt tiêu tính chất của văn bản, vừa bảo đảm xây dựng một trung tâm ngôn ngữ trong cuốn tiểu thuyết của mình. Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam có những đổi mới và biến chuyển sâu sắc cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện để phù hợp với đời sống mới. Gác lại cảm hứng sử thi, hùng tâm tráng trí, văn học hướng đến cuộc sống thường nhật với bao lo toan, bộn bề, phức tạp. Sự đổi mới trong văn chương diễn ra theo nhiều phương diện: từ quan niệm về hiện thực phản ánh, quan niệm nghệ thuật về con người đến các phương thức biểu hiện phong phú. Cảm hứng chủ yếu của văn học thời kì này cũng thay đổi: từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự, đời tư. Ngay trong bản thân các thể loại văn học đã và đang diễn ra quá trình hoài thai, co thắt tự làm mới mình. Trong số các thể loại văn học, văn xuôi là thể loại ghi nhận nhiều đổi mới nhất cả về số lượng và chất lượng, cả chiều rộng và chiều sâu. Tiểu thuyết giống như người khổng lồ của nền văn xuôi hiện đại, nơi tập trung nhiều thành tựu rực rỡ nhất, đã ghi nhận những thử nghiệm đổi mới và thành công bước đầu. Nhận diện về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 ít nhiều cũng chính là nhận diện ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam sau năm 1975. Ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 có một số đặc điểm cơ bản sau: 12 1.2.1. Ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực đời thường Nói về ngôn ngữ văn chương sau 1975, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình nhận xét: “Chưa bao giờ ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt - thế sự đến thế. Chưa bao giờ trong văn chương (kể cả thơ, kịch, phim) những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần tục, bụi bặm, dân dã xuất hiện nhiều đến thế” [5; 173]. Thực vậy, các nhà văn thời kì này có khát vọng diễn đạt cái thô nhám, đời thường, phức tạp của đời sống, nơi con người là cá nhân đa đoan, đa sự của kiếp người. Ngôn ngữ văn xuôi không còn trang trọng mà suồng sã và mang nặng tính khẩu ngữ để có thể ôm trọn được mảng hiện thực phức tạp. Câu văn linh hoạt về cú pháp, thoải mái trong cách diễn đạt, đậm tính phê phán và tươi rói sự sống. Trong văn xuôi thời kì đổi mới xuất hiện những lớp từ đi liền với đời sống - sinh hoạt. Chưa bao giờ trong văn chương những câu chửi thề, chửi tục, lời nói trần tục lại xuất hiện nhiều như vậy. Nó làm cho nhân vật sống thật hơn với tính người phức tạp, nhân vật không được bao bọc trong một bầu không khí sạch sẽ vô trùng nữa. Cái đẹp của nhân vật chính là độ chân thật cao mà nó đạt được. Chính ngôn ngữ đã góp phần tạo nên độ chân thật ấy của nhân vật, của văn chương mang cảm quan hiện thực - đời thường. Cách sử dụng ngôn ngữ đậm chất hiện thực đời thường đã góp phần thể hiện dấu ấn tác giả rõ nét. Nhà văn không yên vị là người rao giảng đạo đức, mà quan tâm đến nhu cầu gọi đúng tên, chỉ ra đúng bản chất của sự vật. Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Thị Hoài bày tỏ quan niệm: “Tôi chán văn chương cùng giọng trước kia, tôi quan tâm tới bút pháp hơn là phản ánh” [23; 356]. Trong văn chương cái để lại dấu ấn lâu dài đối với bạn đọc chính là cách nhà văn sử dụng vốn ngôn ngữ của mình thế nào. Cho nên, không ai bắt chước được cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân, của Thạch Lam,… Văn học Việt Nam thời kì đổi mới in đậm dấu ấn cá nhân trong cách ứng xử với ngôn ngữ. Chúng ta thấy Nguyễn Huy Thiệp nhại rất tài tình thứ văn chương lãng mạn, cải lương, đồng thời thổi sức sống vào lớp ngôn từ bụi bặm, 13 chợ búa. Ở nhà văn này những lớp ngôn ngữ gân guốc của cuộc đời như chửi thề, nói tục cứ đầy vơi, cứ đi về không đệm đậy, không né tránh. Ngôn ngữ này tạo nên linh hồn cho câu chuyện, khiến người ta thấy mình trong từng trạng huống tâm lí, từng lời ăn tiếng nói của nhân vật. Văn chương thực sự đã trở thành cuộc trình diễn của cá tính người nghệ sĩ. Với tất cả sự sắc sảo của mình, nhà văn đã đưa lớp ngôn ngữ bụi bặm vào văn học, theo cách này hay cách khác, bằng sự trỗi dậy cao độ của ý thức cá nhân. 1.2.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận Chiến tranh qua đi, cuộc sống lại trở về với muôn mặt đời thường của nó. Văn chương lại trở về với nhiệm vụ soi tỏa từng ngõ nghách nhỏ trong tâm hồn con người. Từ đó, nhu cầu tăng cường tốc độ và lượng thông tin trong văn học được đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại công nghệ kĩ thuật cao và chuyển động “siêu tốc”, phù hợp với nhịp độ của cuộc sống hiện đại, với guồng quay của cơ chế thị trường. Ngôn ngữ văn xuôi sau năm 1975 có sự tăng cường đáng kể tính tốc độ. Ta bắt gặp trong văn xuôi thời kì này những mạch chuyện dồn dập, lối vào truyện nhanh, đặc biệt là vai trò của đối thoại trong việc mở rộng cốt truyện, dẫn dắt liên tưởng. Bạn đọc có lúc bị choáng ngợp trong dòng thác ngôn từ của tác phẩm. Những câu văn co duỗi linh hoạt mà nội dung chính lại nằm ở thành phần mở rộng, những kết cấu trần thuật trùng điệp tăng độ nén của văn bản. Tất cả đã góp phần vào việc tái hiện cuộc sống với những hối hả gấp gáp, nơi ấy tình yêu, hạnh phúc, thù hận, nhục nhã, ê chề chỉ gói gọn trong một không gian, thời gian chật chội. Ưu thế tốc độ này thuộc về lớp trẻ như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ,…. Văn chương trở thành một “trò chơi ngôn ngữ” để độc giả tự tìm lời giải mã. Tăng cường tốc độ đi đôi với nhu cầu gia tăng lượng thông tin. Làm sao để có thể truyền tải được dung lượng thông tin vừa đủ trong một khuôn khổ cú pháp có nhiều thay đổi? Điều đó làm nảy sinh lối nói giản lược, nói tắt 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan