TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN THANH LIÊM
MSSV: 6095861
NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: ThS. GVC. CHIM VĂN BÉ
Cần Thơ, 5/2013
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Nhờ ngôn ngữ con
người có thể trao đổi thông tin, thể hiện tình cảm cũng như phát triển năng lực trí tuệ.
Khi giao tiếp nói năng, con người cũng đồng thời thực hiện những hành động khác
nhau thông qua lời nói của mình. Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe
và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: Bên nghe lại trở thành bên nói
và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Và hội thoại cũng là hình thức giao
tiếp căn bản, phổ biến nhất của con người. Những hành động mà con người thực hiện
trong các cuộc hội thoại được giới nghiên cứu ngôn ngữ gọi là hành động ngôn từ.
Nghiên cứu về hội thoại và hành động ngôn từ thông qua ngôn ngữ nhân vật trong tác
phẩm văn học là một lĩnh vực khá thú vị vì nó gắn liền với thực tiễn giao tiếp của con
người. Bởi lẽ, thông qua các cuộc hội thoại và hành động ngôn từ được thực hiện trong
các cuộc thoại đó, chúng ta không chỉ thấy được tâm tư, tình cảm của người nói mà
qua đó còn có thể đánh giá được nhân cách, phẩm giá của người nói.
Ở Việt Nam, việc dùng lí thuyết hội thoại và lí thuyết hành động ngôn từ làm cơ
sở cho việc phân tích ngôn ngữ nhân vật trong một tác phẩm văn học là một cách làm
khá mới mẻ và xa lạ so với phương pháp phân tích truyền thống. Tìm hiểu tính cách,
tâm lý nhân vật hay cao hơn nữa là phát hiện chủ đề của tác phẩm thông qua con
đường phân tích các cuộc hội thoại là một việc làm thú vị. Nó mở ra một con đường
mới trong cuộc phiêu lưu tìm đến thế giới của các nhân vật văn học, cũng như phát
hiện ra sự tinh tế của tác giả trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Vì mỗi phát
ngôn của nhân vật trong các tình huống đối thoại, độc thoại cụ thể sẽ phần nào thể hiện
được tính cách, tâm lí, phẩm chất của nhân vật. Câu ca dao Việt Nam “Chim khôn hót
tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe” là một minh chứng cho điều
đó. Bên cạnh việc giáo dục hành vi nói năng, câu ca dao còn muốn đề cập đến khía
cạnh lời nói cũng góp phần thể hiện đặc điểm tính cách của con người. Đây là lí do
chúng tôi chọn đề tài Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan để
nghiên cứu trong luận văn này.
II. Lịch sử vấn đề
Ở nước ngoài, hội thoại đầu tiên được một số ngành như xã hội học, ngôn ngữ
học xã hội nghiên cứu. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, hội thoại trở thành đối tượng
nghiên cứu của phân ngành ngôn ngữ học phân tích hội thoại (Conversation Analysis)
ở Mĩ, rồi được du nhập sang Anh với tên gọi phân tích diễn ngôn (Discouse Analysis),
rồi ảnh hưởng ra khắp lục địa châu Âu và thế giới. Trên thế giới, ngôn ngữ hội thoại đã
được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu: N. Chomsky, J.Austin, J. Fillmore,
H.P. Grice, S.C. Dik... trong đó H.P.Grice là tác giả có những đóng góp lớn đối với
việc nghiên cứu lí thuyết hội thoại hơn cả. Ở Việt Nam, lí thuyết hội thoại được một số
nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Chim Văn Bé tiếp thu, vận dụng
vào việc xem xét ngôn ngữ hội thoại trong tiếng Việt, và được quan niệm như một bộ
phận của ngữ dụng học.
Trong cuốn Ngữ dụng học – Tập một, Nguyễn Đức Dân khi để cập đến hội thoại
đã giải thích như sau: “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản
hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: Bên nghe trở thành bên nói và bên nói
lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến, căn bản nhất
của con người là hội thoại” [5; tr.76]. Ông cũng cho rằng hội thoại là vấn đề được đặc
biệt quan tâm trong ngữ dụng học. Hội thoại có thể chỉ gồm hai bên (song thoại) cũng
có thể có ba bên (tam thoại) hoặc nhiều bên (đa thoại). Và theo Nguyễn Đức Dân,
trong các loại hội thoại thì song thoại là quan trọng nhất.
Còn Đỗ Hữu Châu, trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học – Tập hai – Ngữ dụng
học, khi viết về lý thuyết hội thoại, cho rằng: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn
ngữ khác” [3; tr.201]. Trong phần này, Đỗ Hữu Châu tập trung phân tích điểm khác
nhau của các cuộc thoại như: thoại trường (không gian, thời gian nơi diễn ra cuộc
thoại), số lượng người tham gia, cương vị và tư cách của những người tham gia hội
thoại, các cuộc thoại khác nhau ở tính có đích hay không có đích, tính có hình thức
hay không hình thức và cuối cùng là ngữ vực.
Chim Văn Bé, trong cuốn Ngôn ngữ văn chương Việt Nam, định nghĩa hội thoại
như sau: “Hội thoại là quá trình tương tác trực tiếp bằng lời giữa những người đang
tham gia vào hoạt động giao tiếp, diễn ra trong một thoại trường (không gian, thời
gian) cụ thể, xoay quanh đề tài và chủ đề nào đó. Sản phẩm hoàn chỉnh của một quá
trình hội thoại là ngôn bản hội thoại còn đơn vị cơ sở của ngôn bản hội thoại là đoạn
ngôn hay đoạn thoại”. [2; tr99]. Chim Văn Bé xem xét hội thoại ở cả hai phương diện:
động và tĩnh. Ở phương diện động, hội thoại diễn ra như một quá trình vận động. Ở
phương diện tĩnh, hội thoại được xem xét như là một sản phẩm đã được tạo tác.
Về lý thuyết hành động ngôn từ, người đầu tiên nghiên cứu, đúc kết và đưa ra lý
thuyết này là nhà triết học người Anh, J.L. Austin, trong chuyên đề về triết học ngôn
ngữ, thể hiện qua 12 bài giảng được trình bày tại Đại học Harvard, năm 1955. Năm
1962, các bài giảng này được tập hợp lại và xuất bản thành sách với tiêu đề How to
Do Things with Words. Lý thuyết hành động ngôn từ của J.L. Austin đã được John R.
Searle kế thừa và phát triển trong công trình Speech Acts. Ở Việt Nam, lý thuyết hành
động ngôn từ đã được một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu
tiếp thu và trình bày trong các chuyên đề ngữ dụng học.
Gần đây nhất, công trình nghiên cứu mang tên Ngữ pháp học chức năng tiếng
Việt – Cú pháp học của Chim Văn Bé ra đời, đã đánh dấu bước phát triển trong việc
nghiên cứu lý thuyết hành động ngôn từ. Trong công trình này, Chim Văn Bé đã lí giải
rõ ràng hơn về lý thuyết hành động ngôn từ dựa theo nguyên văn tiếng Anh, điều mà
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam trước nay luôn nhập nhằng. Với việc tiếp
cận lý thuyết nguồn cùng sự dịch thuật chính xác các thuật ngữ tiếng Anh, Chim Văn
Bé đã hệ thống lại lý thuyết hành động ngôn từ một cách rõ ràng, mạch lạc, giúp người
đọc dễ tiếp cận hơn.
III. Mục đích, yêu cầu
Thứ nhất, phân loại và thống kê được những cuộc thoại, lượt thoại, độc thoại
trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Từ đó, áp dụng lí thuyết hội thoại và lí
thuyết hành động ngôn từ để phân tích các cuộc thoại, lượt thoại, độc thoại của các
nhân vật trong truyện.
Thứ hai, sau khi phân tích các cuộc thoại, lượt thoại, độc thoại trong 5 truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan, đưa ra được đánh giá về tính cách, tâm lý nhân vật cũng
như nghệ thuật xây dựng tình huống hội thoại và khắc họa chân dung nhân vật của nhà
văn.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có
phạm vi khá rộng. Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu tập trung tìm hiểu các cuộc
thoại, lượt thoại, độc thoại theo quan điểm Ngữ dụng học và đối tượng nghiên cứu của
luận văn là các cuộc thoại, lượt thoại, độc thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan.
Về văn bản, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đi sâu vào khảo sát 5 truyện
ngắn nằm trong quyển Nguyễn Công Hoan – Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà văn,
1999 do Lê Minh sưu tầm, tuyển chọn.
V. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài nghiên cứu này, đầu tiên, chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp
để hệ thống lại một số tài liệu có liên quan đến đề tài. Đồng thời, chúng tôi cũng sử
dụng phương pháp này để đối chiếu quan điểm của một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam
nhằm tạo nên một nền tảng lý thuyết thống nhất vè hội thoại và hành động ngôn từ.
Sau khi đã tổng hợp những tài liệu có liên quan, chúng tôi tiến hành khảo sát,
thống kê các cuộc thoại, lượt thoại, độc thoại trong 5 truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan và đưa ra số liệu cụ thể. Cuối cùng, chúng tôi sẽ đưa ra kết luận chung về vấn đề
khảo sát ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan để làm rõ mục đích
nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT:
QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU
VIỆT NAM VỀ LÝ THUYẾT HỘI THOẠI VÀ LÝ THUYẾT
HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
I. Quan niệm của Nguyễn Đức Dân
1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên và phổ biến nhất của con người.
Nguyễn Đức Dân khi đề cập đến hội thoại đã giải thích: “Trong giao tiếp hai chiều,
bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: Bên
nghe trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động
giao tiếp phổ biến, căn bản nhất của con người là hội thoại”. [5 ; tr.76]. Theo quan
điểm này của Nguyễn Đức Dân thì giữa người nói và người nghe có sự tương tác với
nhau và có sự luân phiên lượt lời với nhau để tạo thành một cuộc hội thoại.
2. Cấu trúc của một cuộc thoại
Cấu trúc của một cuộc hội thoại bao gồm ba phần : mở thoại – thân thoại – kết
thoại
Mở thoại: lúc bắt đầu cuộc nói chuyện, luôn luôn do một bên chủ động
Thân thoại: là phần trung tâm của cuộc thoại, nằm giữa mở thoại và kết thoại
Kết thoại: lúc kết thúc cuộc nói chuyện, cũng do một bên chủ động đề ra
3. Cấu trúc hội thoại
3.1. Lượt lời (A: turn, B: tours)
Đơn vị cơ bản của hội thoại là lượt lời. Tức người thứ nhất nói xong lượt lời của
mình – giữ vai trò là người nói, còn những người khác giữ vai trò người nghe, sau đó
lần lượt đến những người nói tiếp theo. Sẽ không thành lượt lời nếu nhiều người cùng
nói một lúc. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ: “chỉ có ngoại lệ là khi đám đông
đứng trước một cá nhân trong một hội thoại xưng tụng, thề nguyền trong các lễ nghi
tôn giáo, đồng thanh hô, hò reo: vạn tuế, muôn năm, hoan hô, đúng rồi, xin thề, quyết
tâm, đả đảo, rõ…” [5; tr.87]
Trong phần này Nguyễn Đức Dân cũng đưa ra quan điểm về các vấn đề như trao
lời, tranh lời. Trao lời là sự chuyển lời tự nhiên, có ý thức chủ động của người đang
giữ lượt lời. Một người có thể trực tiếp chuyển giao lượt lời cho một đối tượng xác
định. Trái với trao lời là tranh lời, hay còn gọi là ngắt lời. Đây là những lời nói “xen
ngang” vào lời của người khác. Hoặc vì nhầm tưởng họ đã nói xong, hoặc vì một phản
ứng tức thời, tích cực hay tiêu cực, như: “Đúng quá !”, “Hoan hô !”, “Phải vậy thôi”,
“Không đúng !”, “Tầm bậy !”, “Làm gì có chuyện đó !”, “Tôi xin giải thích ngay điều
này”, “Vậy mà cũng nói”…Như thế lượt lời có thể chuyển sang lượt lời của người
khác một cách không tự nhiên.
3.2. Mở thoại
Có những lời nói được dùng trong một lúc nào đó để người khác cảm nhận được
sẽ có một hoặc một chuỗi những lời nói tiếp theo. Lời nói đó là mở thoại. Khi người
con nói với bố “Bố ạ !” thì có nghĩa là người con muốn nói với bố một chuyện gì đấy.
Đó là lời mào đầu hay mở thoại.
3.3. Cặp thoại
Nguyễn Đức Dân cho rằng, các cặp thoại không phải được nói ra một cách ngẫu
nhiên, tùy tiện. Chúng được tổ chức, thực hiện theo một quy cách chặt chẽ, tuân theo
những quy tắc chi phối hội thoại, việc gì sẽ dẫn tới việc gì, ai nói và sẽ nói khi
nào…Trong một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ
hai. Khi nói một điều, người ta dự đoán, chờ đợi một điều gì khác sẽ xảy ra. Sau khi
thực hiện một hành vi ngôn ngữ, người ta chờ đợi một hành vi ngôn ngữ đáp ứng. Sau
một nội dung mệnh đề người ta chờ đợi một nội dung mệnh đề. Nghĩa là hai lượt lời có
quan hệ mật thiết với nhau.
Các cặp hành vi ngôn ngữ thường gặp như: hỏi / trả lời (đáp); chào – chào; đề
nghị - đáp ứng; đề nghị - bác bỏ; mệnh lệnh – sự tuân theo (chỉ tuân theo trên lời
nói)…
3.4. Cặp thoại: lượt lời ưa dùng
Trong hội thoại, có nhiều lượt lời thứ hai ưa dùng. Cùng một lượt lời thứ nhất có
thể gây ra nhiều lượt lời thứ hai khác nhau, trong đó có những lượt lời ưa dùng hơn và
những lượt lời ít dùng hơn. Nguyễn Đức Dân khẳng định: “lượt lời ưa dùng thường
ngắn hơn, lượt lời ít dùng thường dài hơn”. [5; tr.102]
3.5. Cặp thoại: Lời chêm xen
Ở một lượt lời trong cặp thoại có thể xuất hiện những lời chêm xen (A: insertion).
Chúng không làm đặc điểm căn bản của lượt lời đó bị phá vỡ, và do vậy những lời
chêm xen về căn bản không ảnh hưởng tới sự tiếp tục bình thường của cặp thoại. Gọi
là chêm xem vì nó không cùng một cấp độ với những câu khác trong một lượt lời. Nó
dùng làm cho người đối thoại chú ý, để cặp thoại vượt qua được khó khăn trước một
trở ngại nào đó, để cuộc thoại vẫn diễn ra bình thường. Những trở ngại này thường liên
quan tới những phương châm hội thoại và nói chung là phương châm ứng xử xã hội.
Một khi đã vượt qua được trở ngại, người ta không chú ý tới những lời chêm xen đó
nữa. Chẳng hạn, giữa cặp thoại có thể xuất hiện lời nhắn chào, thăm hỏi xã giao không
liên quan tới chủ đề chính của cặp thoại.
3.6. Sự liên kết các phát ngôn
Các phát ngôn trong hội thoại phải tuân theo nguyên lí liên kết, cũng gọi là
nguyên lí mạch lạc (A: coherence principle). Theo đó, mỗi phát ngôn phải là một mắt
xích trong một chuỗi các phát ngôn có liên kết với nhau, mỗi phát ngôn có liên kết
chặt chẽ với một hay nhiều phát ngôn trước đó, đáp ứng hiệu lực tại lời và phù hợp với
những tiền giả định ngữ dụng của những phát ngôn đi trước. Có sự phân biệt liên kết
các phát ngôn với sự liên kết tối thiểu trong văn bản (A: text cohesion). Sự liên kết tối
thiểu này là sự liên kết cục bộ giữa hai phát ngôn nào đó trong một văn bản. Có điều
sự liên kết cục bộ này chưa làm nên sự liên kết mạch lạc trong văn bản.
4. Nguyên lí cộng tác hội thoại
Nguyên lí cộng tác hội thoại được Nguyễn Đức Dân tiếp thu từ H.P. Grice: “Hãy
làm cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng
như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và mình đã chấp nhận tham
gia”.
Nguyên lí này có 4 tiểu nguyên lí hay 4 phương châm như sau:
4.1. Phương châm lượng:
- Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi
cho mục đích của cuộc thoại.
- Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà nó được đòi hỏi.
4.2. Phương châm chất:
- Đừng nói điều mà mình tin là sai.
- Đừng nói điều mà mình không có bằng chứng chính xác.
4.3. Phương châm quan hệ:
Hãy đóng góp những điều có liên quan (A: relevant).
4.4. Phương châm cách thức:
Hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt là:
- Tránh tối nghĩa.
- Tránh mơ hồ.
- Ngắn gọn.
- Có mạch lạc.
5. Hành vi ngôn ngữ
Hành vi ngôn ngữ là một thuật ngữ được dịch từ “speech atcs”. Thuật ngữ này
được nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam sử dụng, trong đó có Nguyễn Đức Dân. Phần
này Nguyễn Đức Dân tiếp thu quan điểm của nhà triết học người Anh, J.L. Austin.
Theo Austin, có 3 loại hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn:
Thứ nhất là hành vi tạo lời: Austin đặt tên cho hành động “nói một điều gì đó” là
hành vi tạo lời. (A: Locutionary act). Theo ông, có 3 phương diện khác nhau của hành
vi này. Quan sát một phát ngôn, trước hết ta thấy hành vi ngữ âm (A: phonetic act) để
tạo ra chuỗi âm thanh làm nên phát ngôn đó. Tất cả mọi cách thức âm thanh để thực
hiện một âm tố, một từ thuộc lớp từ vựng hay ngữ pháp nào đó với những kiểu nhấn
giọng, ngữ điệu xác định gọi là hành vi đưa giọng (A: “phatic” act). Một cách tổng
quát, hành vi thực hiện một câu hay những thành tố của nó với những “nghĩa” đã xác
định nào đó cũng như “sự quy chiếu” xác định được gọi là hành vi tạo vật (A: Rhetic
acts)
Thứ hai, hành vi tại lời: Austin đặt vấn đề: Nói một điều gì đó là để thực hiện một
hành động gì đó nghĩa là thế nào? Trong giao tiếp, chúng ta có những hành vi như hỏi,
trả lời, ra lệnh, yêu cấu, đề nghị, khẳng định, cam kết, khuyên bảo…Muốn thể hiện
chúng ngay trong lời nói (A: in saying something) thì cần “nói một điều gì đó”. Cái
hành vi này được gọi là hành vi tại lời (A: illocutionary act).
Thứ ba, hành vi mượn lời: Khi thực hiện một hành vi tại lời, chúng ta có hai loại
hiệu quả khác nhau. Thứ nhất đó là giá trị tự tại của hành vi tại lời. Thứ hai đó là hiệu
quả mà người nói chủ bụng gây ra đối với người nghe. Loại hiệu quả này (A:
performance) của một hành vi tại lời được Austin gọi là hành vi mượn lời (A:
perlocutionary act).
II. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu
1. Khái niệm hội thoại
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến
của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”. [3 ;
tr.201]
Các cuộc hội thoại có thể khác nhau ở: Thứ nhất, đặc điểm của thoại trường tức
là không gian và thời gian diễn ra cuộc hội thoại đó. Thoại trường đó có thể là nơi
công cộng như cuộc mít tinh, hội nghị, hội thảo… hay riêng tư như trong một phòng
ngủ giữa vợ và chồng…Thoại trường cũng ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc hội thoại. Ví
dụ rằng có một đôi nam nữ đang trò chuyện ngoài công viên thì cuộc hội thoại vẫn là
riêng tư mặc dù công viên là không gian công cộng.
Thứ hai, ở số lượng người tham gia. Số lượng nhân vật hội thoại - còn gọi là đối
tác hội thoại hay đối tác - thay đổi từ hai đến số lượng lớn.
Thứ ba, cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại. Ở phần này, Đỗ
Hữu Châu xem xét đến hai mặt sau: a) Tính chủ động hay thụ động của các đối tác.
Cuộc hội thoại chủ động là cuộc hội thoại mà cả vai nói và vai nghe đều có quyền chủ
động tham dự vào cuộc hội thoại như nhau theo nguyên tắc anh nói tôi nghe, tôi nói
anh nghe, và cả hai luân phiên nhau nói và nghe. Cuộc hội thoại thụ động là cuộc hội
thoại chỉ có một bên giữ cương vị nói, bên kia chỉ lắng nghe, không tham gia vào cuộc
hội thoại hoặc có tham gia vào thì cũng rất hạn chế. b) Sự có mặt hay vắng mặt của vai
nghe trong cuộc thoại. Ví dụ phát thanh, truyền hình là những hình thức hội thoại mà
người nghe vắng mặt.
Thứ tư là các cuộc hội thoại khác nhau ở tính có mục đích hay không có mục
đích. Những cuộc hội thoại như thương thuyết ngoại giao, hội thảo khoa học có đích
được xác định rõ ràng. Những cuộc tán gẫu được coi là cuộc hội thoại không có mục
đích.
2. Vận động hội thoại
Trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp
và tương tác.
2.1. Sự trao lời (allocution, allocution)
Chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu
cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói ra chuỗi lượt lời của mình là
một lượt lời.
2.2. Sự trao đáp (éxchange, exchange)
Cuộc hội thoại được hình thành khi người nghe đáp lại lượt lời của người nói.
Vận động trao đáp, cái lõi của hội thoại diễn ra liên tục, lúc nhịp nhàng, lúc khúc mắc,
lúc nhanh lúc chậm với sự đổi thay liên tục vai nói, vai nghe. Sự hồi đáp có thể thực
hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc bằng lời, thường thường thì hai loại yếu tố này cùng
đồng hành với nhau.
2.3. Sự tương tác
Trong cuộc hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hưởng nhau, tác động qua lại
với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước một cuộc hội thoại giữa các nhân vật tham gia
hội thoại có sự khác biệt, đối lập về hiểu biết, tâm lí, tình cảm, ý muốn…Không có sự
khác biệt này thì giao tiếp thành thừa. Trong hội thoại và qua hội thoại những khác
biệt này giảm đi hoặc mở rộng ra, căng lên có khi thành xung đột.
3. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Đỗ Hữu Châu cũng đã tiếp thu, vận dụng nguyên tắc cộng tác hội thoại theo quan
điểm của H.P. Grice.
4. Phát ngôn ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là những phát ngôn mà khi người ta nói chúng ra thì đồng thời
người ta thực hiện ngay cái việc được biểu thị trong phát ngôn. Khi chúng ta nói:
Chúng tôi xin đảm bảo đây là hàng thật. Nếu sai, chúng tôi xin chịu bồi thường. Trong
phát ngôn này ta thấy một hành vi bảo đảm.
5. Các hành vi ngôn ngữ
Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành
động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Theo Austin thì có ba loại hành động ngôn
ngữ lớn. Đó là hành vi tạo lời (acte locutoire), hành vi mượn lời (acte perlocutoire) và
hành vi ở lời (acte illocutoire) .
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ các kiểu
kết hợp thành câu... để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung. Một bộ phận
của hành vi là ở đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học tiền ngữ dụng học.
Hành vi mượn lời là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ, hay nói
đúng hơn chính là mượn những phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào
đó ở người nghe,người nhận hay chính cả người nói. Ví dụ khi nghe thông báo trên đài
phát thanh: Ngày mai, 25 tháng 7 ở Hà Nội sẽ có mưa lớn, gió mạnh, sức gió cấp 4
cấp 5 tức 40 đến 50km một giờ. Khi nghe phát ngôn này một số người rất lo lắng và tỏ
ra bực mình nếu họ là những người ở xa cơ quan công tác, một số người khác trái lại
sẽ thờ ơ, một số khác nữa có thể lại vui mừng vì trời đỡ nóng bức.
Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả
của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng
ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Ví dụ về hành vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra
lệnh, mời, hứa hẹn…khi chúng ta hỏi ai về cái gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ
trả lời cho chúng ta, cho dù có thể trà lời không biết.
III. Quan niệm của Chim Văn Bé
1. Khái niệm về hội thoại
Về khái niệm hội thoại, Chim Văn Bé khẳng định như sau: “Hội thoại là quá
trình tương tác trực tiếp bằng lời giữa những người đang tham gia vào hoạt động giao
tiếp, diễn ra trong một thoại trường (không gian, thời gian) cụ thể, xoay quanh đề tài
và chủ đề nào đó.
Sản phẩm hoàn chỉnh của một quá trình hội thoại là ngôn bản hội thoại còn đơn
vị cơ sở của ngôn bản hội thoại là đoạn ngôn hay đoạn thoại”. [2; tr. 99]
2. Cấu trúc hội thoại
Chim Văn Bé xem xét cấu trúc hội thoại ở hai phương diện: tĩnh và động. Ở
phương diện động, hội thoại diễn ra như một quá trình vận động. Ở phương diện tĩnh,
hội thoại được xem xét như là sản phẩm đã được tạo tác.
2.1. Mở thoại
Mở thoại là hành động nói ra lượt lời nhằm mục đích đưa đẩy, dẫn dắt vào cuộc
thoại. Người nói có thể mở thoại gián tiếp bằng cách chào, hỏi thăm sức khỏe, hay mở
thoại trực tiếp bằng cách đề nghị đối tác trao đổi ý kiến về đề tài nào đó. Lượt lời thực
hiện chức năng mở thoại gọi là lời khai thoại. Lời khai thoại có thể là toàn bộ hay một
bộ phận nào đó trong lượt lời được nói ra.
“Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia ! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố, trả lời khe khẽ:
- Có.”
“Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.”
(Kim Lân: Làng)
2.2. Trao lời
Trao lời là hành động nói ra và hướng lược lời của mình đến đối tác. Mỗi lược
lời là một phát ngôn, có thể tương đương với một từ, một câu hay một chuỗi câu dài.
Sản phẩm của hành động trao lời là lời trao.
2.3. Đáp lời
Đáp lời là hành động nói ra lược lời của mình nhằm hồi đáp lại hành động trao lời
của đối tác. Sản phẩm của đáp lời là lời đáp.
Xét trong mối quan hệ với lời trao, lời đáp có thể là tương thích hay không tương
thích. Lời đáp tương thích là lời đáp có đáp ứng lời trao theo hướng khẳng định hay
phủ định. Sự tương thích có thể hiện trên bề mặt ngôn từ hay thể hiện gián tiếp qua
mối quan hệ giữa các hành động qua lời.
“Ông Cứu tiến lên gần nhỏ nhẻ thưa:
- Lạy quan lớn, còn vong hồn con con kia. Nếu có thế nào, con cam chịu tội trước
cửa quan lớn. Xin quan lớn cho phép con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan quay lại nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người có trái tim dễ
cảm. Ngài hỏi:
- Anh định tạ tôi bao nhiêu?
- Lạy quan lớn, con xin khấn một nén.
Quan cười:
- Anh phải biết cứ tiền xăng dầu khứ hồi ô tô tôi về đây cũng đã đáng một nén
rồi.”
(Nguyễn Công Hoan: Thịt người chết)
Lời đáp không tương thích là lời đáp không đáp ứng lời trao, có thể kênh giao
tiếp bị nhiễu hay người nói bị tổn thương, nghe không chính xác lời trao, nên đáp lời
lệch lạc. Lời đáp không tương thích còn có thể do nguyên nhân tâm lí nào đó, khiến
cho người đáp “đánh trống lảng”.
“Bà cô Thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:
- Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo.
Thị cười và nói lảng:
- Hôm quan làm biên bản, Lí Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người
lại thiệt của.”
(Nam Cao: Chí Phèo)
Lí giải về mối quan hệ giữa hành động trao lời và đáp lời, Chim Văn Bé viết:
“Hành động trao lời và đáp lời tạo thành quan hệ trao – đáp, là hạt nhân của vận
động hội thoại. Quan hệ trao – đáp trong hội thoại sẽ tạo nên các động qua lại giữa
các đối tác giao tiếp, làm thay đổi tri thức, thái độ, ý thức, tình cảm… của các đối tác.
Sự tương tác có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực. Trong tương tác
tích cực là tương tác hợp tác, qua đó, khoảng cách về tri thức, thái độ, ý chí, tình
cảm… giữa các đối tác được rút ngắn dần, hội thoại diễn ra trong không khí thân
thiện, nhịp nhàng. Tương tác tiêu cực là tương tác bất đồng, đối chọi nhau về lập
trường, thái độ, ý chí, tình cảm giữa các đối tác, làm cho cuộc thoại không đạt được
mục đích giao tiếp, thậm chí dẫn đến xung đột, cuộc thoại không đạt được mục đích
giao tiếp, thậm chí dẫn đến xung đột, cuộc thoại trở thành cuộc cãi lộn. Lời trao và lời
đáp hợp thành cặp trao – đáp hay cặp kế cận (adjacency pair) trong cấu trúc tĩnh của
đoạn thoại.” [2; tr.101]
2.4. Xen lời
Xen lời là hành động ngắt lời, nói chen vào khi đối tác chưa kết thúc lượt lời. Kết
quả của hành động xen lời là lời xen.
“Xuân ngẩn ngơ mà rằng:
- Tự nhiên người ta đánh con, người ta đuổi con, người ta áp chế…
- Thôi đi, anh đừng chối!”
“Thế anh này, anh hỏi gì?
Xuân lúng túng xua tay:
- Bẩm…bẩm…bà lớn Phó Đoan hôm qua…
Văn Minh cắt ngay:
- Im! Anh phải gọi là bà Phán, không thì bà không bằng lòng.”
(Vũ Trọng Phụng: Số đỏ)
2.5. Kết thoại
Kết thoại là hành động kết thúc cuộc thoại. Người nói kết thúc cuộc thoại bằng
các thông báo trực tiếp, hay bằng lời chào, lời hẹn. Lược lời thực hiện chức năng kết
thúc cuộc thoại là lời kết thoại.
“-Này bác Tràng! Bác Tràng!...
Sau một khuôn của tối, một cái đầu đọc thò ra gọi giật giọng. Tràng lật đật quay
lại.
- Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.
Tràng đứng lại thoái thác:
- Thôi, ông để cho đến hôm khác.
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bá hóm hỉnh:
- Cánh nào đấy?
- À hà…người quen. Thôi để hôm khác, ông nhá.”
(Kim Lân: Vợ nhặt)
“- Chị Tuất ơi, chị Tuất!
Cô Tuất ngơ ngác một lúc rồi hỏi:
- Ơ! Cậu Phú đấy à? Cậu về từ lúc nào thế?
- Ở nhà có ai việc gì không chị? Đẻ đâu? Cháu đâu?
- Ở nhà cả chứ đâu!
- Thôi, thế tôi mừng. Rõ phúc đức? Chị đi đâu về thế? Tôi sang bè ấy liệu có
được không hay chìm?
- Được! Ba người ngồi cũng không sao.
Phú bèn quay lại người lái đò:
- Thôi thế tôi sang bè kia, ông trở ra một mình nhé. Cảm ơn ông nhé!
- Không dám!”
(Vũ Trọng Phụng: Vỡ đê)
3. Nguyên tắc cộng tác trong hội thoại
Tương tự Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu, Chim Văn Bé tiếp thu nguyên tắc
cộng tác hội thoại theo quan điểm của Grice dựa theo nguyên văn bằng tiếng Anh.
Chim Văn Bé dẫn nguyên văn nguyên tắc cộng tác của Grice và dịch ra tiếng Việt như
sau:
“Make your contribution such as is required, at the state at which it occurs, by
the accepted purpose or direction of the talk exchange in which you are engaged.”
(Hãy làm cho phần đóng góp của bạn đúng như nó được đòi hỏi, ở giai đoạn mà nó
xuất hiện, phù hợp với mục đích hay phương hướng của cuộc trò chuyện mà bạn tham
gia vào.)
Để đảm bảo nguyên tắc này, người nói phải tuân thủ một số tiểu nguyên tắc, được
chia thành bốn phạm trù, mỗi phạm trù có “siêu phương châm”, phương châm và các
tiểu phương châm:
“I. Maxims of quanlity (which relate to the amount of information to be provided):
1. Make your contribution as informative as is required for the current purpose
of the exchange.
2. Do not make your contribution more informative than is required.
II. Maxims of quality
Supermaxim: Try to make your contribution one that is true.
More specifically:
1. Do not say what you believe to be false.
2. Do not say that for which you lack adequate evidence.
III. Maxims of relation: be relevant.
IV. Maxims of manner (which concern not so much what is said, but how it is
said):
Supermaxim: Be perspicuous.
More specifically:
1. Avoid obscurity.
2. Avoid ambiguity.
3. Be brief (avoid unnecessary prolixity).
4. Be orderly.”
(Phương châm về lượng (liên quan đến lượng thông tin được cung cấp):
1. Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin như được đòi hỏi đối
với mục đích của phần thoại đang được diễn ra trong cuộc trao đáp.
2. Không làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin nhiều hơn lượng
thông tin được đòi hỏi.
II. Phương châm về chất
Siêu phương châm: Cố gắng làm cho sự đóng góp của bạn là chân thực.
Cụ thể:
1. Không nói điều mà bạn tin là sai.
2. Không nói điều mà bạn thiếu chứng cứ xác thực.
III. Phương châm quan hệ: quan yếu
IV. Phương châm cách thức (không liên quan nhiều đến cái được nói đến mà liên
quan đến cách nói):
Siêu phương châm: Dễ hiểu
Cụ thể:
1. Tránh tối nghĩa.
2. Tránh mơ hồ.
3. Ngắn gọn (tránh dài dòng không cần thiết)
4. Có trật tự.) [2 ; tr.104 – 105]
4. Hành động ngôn từ
Khác với Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu; gọi “speech act” là hành vi ngôn
ngữ; Chim Văn Bé gọi “speech act” trong tiếng Việt là hành động ngôn từ.
Phần nội dung của hành động ngôn từ, Chim Văn Bé cũng xem xét theo quan
điểm của J. L. Austin, gồm 3 phương diện.
(1) Hành động tạo lời
Hành động tạo lời là hạnh động sử dụng các phương tiện ngữ âm, từ vựng (và các
quy tắc kết hợp có sẵn trong ngôn ngữ) để tạo ra câu / phát ngôn với nội dung ngữ
nghĩa và chiếu vật ít nhiều xác định.
(2) Hành động trong lời
Hành động trong lời là hành động được người nói thực hiện bằng cách nói ra và
khi nói ra điều gì đó. Chẳng hạn như chúc mừng, cám ơn, mời, hứa, van xin, ra lệnh,
kết tội, đánh cược, phản bác, đề nghị, gợi ý…Hành động trong lời là hành động có chủ
định, mang tính quy ước và tính định chế, mặc dù những quy ước và định chế về việc
sử dụng hành động trong lời là bất thành văn, và được mọi người trong một cộng đồng
ngôn ngữ tuân thủ không tự giác.
(3) Hành động qua lời
Hành động qua lời là hành động mà người nói thực hiện thông qua hành động
trong lời, nhằm gây ra những hiệu quả nào đó đối với xúc cảm, suy nghĩ và hành động
của người nghe, của chính người nói hay người khác một cách có chủ định, có mục
đích.
Không phải lúc nào hành động qua lời cũng thu được kết quả như dụng ý ban đầu
của người nói. Hiện tượng này gọi là phản hiệu lực.
5. Độc thoại nội tâm
Chim Văn Bé cho rằng: “Độc thoại nội tâm là lời nói thầm của nhân vật, gắn liền
với tình huống cụ thể. Độc thoại nội tâm trực tiếp phản ánh quá trình tâm lí diễn ra
bên trong nhân vật, trước những tác động bên ngoài nào đó.” [2; tr. 110]
Đồng thời, Chim Văn Bé cũng lí giải: “Độc thoại nội tâm là hình thức tự bộc lộ.
Trong phân tích ngôn từ nghệ thuật, việc tiếp cận, xem xét độc thoại nội tâm có tầm
quan trọng đặc biệt đối với việc nắm bắt các quá trình tâm lý phức tạp bên trong nhân
vật song song với việc khái quát hóa, xác định các đặc điệm về tính cách của nhân
vật.” [2; tr.110]
Trong văn bản truyện, độc thoại nội tâm có thể được người kể chuyện báo trước
bằng câu trần thuật, trong đó phần thuyết có vị từ trung tâm biểu thị hành động nói
năng, tri nhận như: nghĩ, nghĩ thầm, nhủ, tự nhủ và lời độc thoại được đặt sau dấu hai
chấm, (trong dấu ngoặc kép):
“Bà lão nhìn nhị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này thì
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là
mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì
thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó; chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu,
chứ biết thế nào mà lo cho hết được.” (Kim Lân: Vợ nhặt)
6. Hệ quy chiếu trong việc đánh giá ngôn từ nhân vật
Chim Văn Bé cho rằng khi đánh giá ngôn từ nhân vật trong truyện cần phải xác
lập một hệ quy chiếu. Bởi vì: “Trong truyện, nhân vật là phương tiện khái quát nghệ
thuật của nhà văn. Thông qua cuộc đời, số phận của nhân vật, nhà văn nêu lên những
vấn đề nào đó về con người, xã hội, lịch sử. Là lời của nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và
độc thoại nội tâm có chức năng đặc biệt trong việc khái quát nghệ thuật của nhà văn.
Vì thế, cần phải xác lập một hệ quy chiếu để làm cơ sở tiếp cận, xem xét, đánh giá
ngôn ngữ nhân vật.” [2 ; tr.112]
Theo quan điểm của Chim Văn Bé, hệ quy chiếu đó là ba chức năng nghệ thuật
chính của ngôn ngữ nhân vật, đó là: chức năng thể hiện đời sống tâm lý và quá trình
vận động, chuyển biến tính cách của nhân vật. Chức năng này có 3 phương diện nhỏ:
Thứ nhất là cách nói năng của nhân vật trong mối quan hệ với con người cá nhân của
- Xem thêm -