TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
********************
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG ANH
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN
VIẾT VỀ LOÀI VẬT CỦA TÔ HOÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới cô giáo TS. La Nguyệt Anh người đã hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa Giáo
dục Tiểu học đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình triển khai khóa luận.
Mặc dù đã có những cố gắng, tìm tòi nhất định, song chắc chắn khóa
luận không tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Phƣơng Anh
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, dưới sự hướng dẫn của TS. La Nguyệt Anh, khóa
luận tốt nghiệp “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện viết về loài vật của Tô
Hoài” được hoàn thành theo sự nhận thức vấn đề của riêng tác giả, không
trùng với bất kì khóa luận nào khác.
Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã kế thừa những thành tựu của các
nhà khoa học với sự trân trọng và biết ơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Phƣơng Anh
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 8
1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật ..................................... 8
1.1.1. Ngôn ngữ ................................................................................................. 8
1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................... 9
1.1.3. Lời văn trong tác phẩm là một hiện tượng nghệ thuật ......................... 16
1.2. Tô Hoài và truyện viết cho thiếu nhi........................................................ 19
1.2.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác ............................................................... 19
1.2.2. Bút lực của Tô Hoài qua mảng truyện viết cho thiếu nhi ..................... 21
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN VIẾT VỀ LOÀI VẬT CỦA TÔ HOÀI...................................... 29
2.1. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện viết về loài vật của Tô Hoài 29
2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật khách quan, chân thực ........................................ 29
2.1.2. Ngôn ngữ trần thuật có xu hướng xóa nhòa khoảng cách giữa lời kể và
lời nhân vật...................................................................................................... 32
iv
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật loài vật trong truyện của Tô Hoài ............. 37
2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, giản dị, sâu sắc .................................... 38
2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại đậm chất trữ tình .................................................. 45
KẾT LUẬN .................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 52
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc,
đường nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì
ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. Tác phẩm có thể trở thành
vốn liếng tinh thần quý báu của nhân loại hay không tùy thuộc vào nội dung
tư tưởng và hình thức biểu hiện. Bởi vậy, nhà văn không ngừng sáng tạo,
khám phá để mỗi dòng chữ viết ra đều được chắt lọc tinh tế, độc đáo đủ sức
thuyết phục lòng người và lắng đọng với thời gian, cuộc sống.
Ngôn ngữ trong văn học là ngôn ngữ chủ quan gắn liền với quan niệm
nghệ thuật của nhà văn. Đó là kết tinh trình độ ý thức của con người, phản
ánh tồn tại của con người. Cũng như ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ trong văn
học thể hiện cái nhìn, một quan niệm về thế giới của nhà văn. Chính vì thế,
những nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo
của họ, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Trong lao động nghệ
thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ về ngôn ngữ để mang đến một
“thực tại” và hình thức mới cho sáng tạo nghệ thuật.
Có thể ví ngôn ngữ trong tác phẩm văn học như cái ổ khóa bên ngoài
cánh cửa, nếu không mở được nó thì người nghiên cứu văn học không thể
bước vào lâu đài của thế giới nghệ thuật, không thể chiếm lĩnh thấu đáo ý
nghĩa cũng như cái đẹp của tác phẩm văn học.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ngành lí luận văn học ở nước ta được
mở ra thì việc tìm hiểu phong cách viết văn cũng như cách sử dụng ngôn ngữ
của một tác giả tiêu biểu trong văn học hiện đại như Tô Hoài là một vấn đề
thực sự có ý nghĩa với chúng tôi.
1.2. Tô Hoài là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Xuất
hiện và được chú ý từ rất sớm, Tô Hoài đã mau chóng trưởng thành. Ông là nhà
1
văn mở đầu và cũng là người có hành trình sáng tác văn học nghệ thuật bền bỉ,
đóng góp lớn cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
Bên cạnh đó, ở Tô Hoài là tài quan sát, nghệ thuật miêu tả tinh tế và có
năng lực sử dụng ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có. Tô Hoài đã góp phần làm
nên sự đa dạng cho nền văn học nước nhà. Trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật, ông đã góp phần làm hiện đại hóa ngôn ngữ văn học.
1.3. Tác phẩm của Tô Hoài đã được chọn giảng trong nhà trường ở các
bậc học: từ Tiểu học cho đến các cấp Phổ thông, Cao đẳng và Đại học. Sức
sáng tạo dẻo dai, bền bỉ của Tô Hoài và đặc biệt là những sáng tạo mới mẻ
trong cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn đã khiến cho sự khám
phá về ông cả về văn lẫn đời là một niềm say mê với chúng ta.
Tiếp thu thành tựu của những người đi trước, tìm hiểu kết quả nghiên
cứu về ngôn ngữ nghệ thuật những thập niên gần đây, chúng tôi thấy rằng đã
đến lúc cần thiết và có cơ sở để thực hiện một công trình nghiên cứu và có
chuyên sâu về ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài trong “truyện viết về loài
vật”. Từ việc tập trung, nhận diện, phân tích, đánh giá đặc điểm ngôn ngữ
nghệ thuật trong truyện viết về loài vật, khóa luận góp phần khẳng định
những đóng góp của tác giả Tô Hoài trong quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ
văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Trên phương diện ngôn ngữ, cho đến nay quả thực chưa có nhiều công
trình nghiên cứu về Tô Hoài. Vẫn còn những “khoảng đất trống” mà các nhà
nghiên cứu chưa kịp khai phá. Đó cũng chính là lí do thôi thúc chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài này. Hy vọng kết quả nghiên cứu vấn đề Ngôn ngữ
nghệ thuật trong truyện viết về loài vật của Tô Hoài không chỉ có ý nghĩa
thiết thực với chúng tôi mà còn có ý nghĩa tích cực đối với thực tiễn nghiên
cứu, dạy và học phân môn Tập Đọc trong nhà trường Tiểu học.
2
Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và nhu cầu thực tiễn trên, chúng
tôi lựa chọn đề tài: Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện viết về loài vật
của Tô Hoài.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài là những đóng góp đặc sắc cả
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Trong đó, truyện về loài vật là mảng
sáng tác khá thành công của ông. Đã có rất nhiều bài viết trên các tạp chí,
những khóa luận, luận văn, luận án, chuyên khảo đánh giá, nghiên cứu về
mảng sáng tác này. Theo đó, ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tạo của Tô Hoài
cũng được quan tâm.
Lí luận văn học hiện đại nghiên cứu ngôn ngữ trong tính hệ thống, toàn
diện. Đó là tiền đề phát hiện quan niệm nghệ thuật ngôn ngữ của nhà văn, là
cơ sở lí giải tính nội dung của ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong các bài nghiên cứu về văn học, các tác giả đã ít nhiều đề cập đến
phương diện ngôn ngữ của các tác phẩm Tô Hoài. Với sự tìm tòi khám phá rất
công phu, trong nhiều công trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến yếu tố
ngôn ngữ của Tô Hoài:
Vân Thanh nhận xét: “ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần
với khẩu ngữ của nhân dân lao động” [14, tr.64].
Ý kiến đó được Phan Cự Đệ tiếp tục nhấn mạnh: “Tô Hoài đã chú ý học
tập nghề nghiệp và ngôn ngữ địa phương” [14, tr.78]. Trong tác phẩm của Tô
Hoài nhìn chung ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao và nghệ thuật
hóa.
Cùng với Phan Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ
yếu làm bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”.
Theo Trần Hữu Tá, ở Tô Hoài “Không phải là chuyện chơi chữ hay
khoe chữ. Đây là hàng trăm lần quan sát và ngẫm nghĩ về thiên nhiên đất
3
nước để tìm chữ, để đặt tên cho sự vật: phải tìm kiếm chọn lọc rồi phải đúc
luyện thêm mới đưa cho người đọc. Đây là những sáng tạo của tình yêu đất
nước, tình yêu tiếng mẹ đẻ và của lao động cật lực.”.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng làm sáng tỏ về khả năng sáng tạo
trong cách dùng chữ đặt câu của Tô Hoài: “Câu văn cũng như cuộc đời – như
tôi vừa nói với anh – không bao giờ lặp lại cả. Cho nên, đời không lặp lại thì
câu văn cũng không được phép lặp lại. Phải làm thế nào để cho người đọc chỉ
nhận thấy dáng câu chứ không bao giờ thấy được kiến trúc câu. Vì kiến trúc
câu tức là cách để xây dựng nên cuộc đời. Cuộc đời đã không lặp lại thì kiến
trúc câu cũng không được quyền lặp lại”.
Cụ thể hơn, Giáo sư Hà Minh Đức kết luận: “Trong nghệ thuật ngôn
ngữ của Tô Hoài chú ý đến cách cấu trúc câu văn. Ông không viết theo
những mô hình câu có sẵn trên sách báo. Ông viết theo sự tìm từ riêng của
mình để diễn đạt cho được chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Câu văn của Tô Hoài
mới mẻ. Ông sáng tạo ra những quan hệ mới, cấu trúc mới trong cấu trúc thi
ca”. Giáo sư còn cho rằng: “Trong lĩnh vực ngôn ngữ, Tô Hoài đặc biệt chú ý
đến cái mới, cái đẹp của chữ nghĩa. Làm sao để thuần túy là chuyện chăm
chút và màu sắc ngôn ngữ. Tô Hoài tìm hiểu cách dùng chữ đẹp của quần
chúng trong lao động, trong từng nghề nghiệp và từ đấy suy nghĩ và sáng
tạo.” [14, tr.30].
Khi nghiên cứu những truyện loài vật của Tô Hoài, nhiều tác giả cũng
đã đề cập đến vấn đề ngôn ngữ:
Một trong những nhà nghiên cứu đáng chú ý về ngôn ngữ Tô Hoài đó
chính là Trần Hữu Tá. Trần Hữu Tá đã khái quát nên được phong cách nghệ
thuật của Tô Hoài. Ông cho rằng: “Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và
nghệ thuật miêu tả linh động người, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt,… tất cả
4
đều biểu hiện lên lung linh sống động nổi rõ cái thần của đối tượng và thường
bàng bạc một chất thơ.
Có thể nói bút kí Tô Hoài có chất thơ, chất nhạc và chất họa. Thơ,
nhạc, họa hòa quyện nhiều chương, đoạn và các nhà điện ảnh cũng có thể
tìm thấy trong tác phẩm của Tô Hoài những sáng tạo gần gũi với chuyên
môn của mình.
Tác giả còn nhận xét: “Điều cốt lõi trong nghệ thuật miêu tả của Tô
Hoài là công phu dùng chữ. Ông là một trong số ít những nhà văn đặc biệt coi
trọng khía cạnh này [9, tr.17]. Chính nhà văn Tô Hoài đã từng ao ước: “Mỗi
chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất
của mình tìm được do phong cách văn chương của mình mà có” [9, tr.22].
Bên cạnh đó, có thể kể đến các bài viết như: Ngôn ngữ một vùng quê
trong các tác phẩm đầu tay của Tô Hoài (Võ Xuân Quế) [14,tr.428]; Truyện
viết về loài vật của Tô Hoài (Giáo sư Hà Minh Đức) [14, tr.464]; Nhà văn và
những con chữ (Định Hải) [6]; Tô Hoài truyện phong tục, thôn quê và loài vật
(Thế Phong) [23] …
Như vậy, tuy các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Tô Hoài đã thu
được những kết quả đáng mừng, song do xuất phát từ nhiều mục đích, ở
những điều kiện khác nhau nên các kết luận ít nhiều còn mang tính khái quát,
chưa thực sự đi sâu vào các đặc điểm về ngôn ngữ. Vì thế, trong đề tài này
chúng tôi vận dụng những thành tựu về ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài –
những phương diện đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhận diện để
chúng tôi ứng dụng cơ sở lí thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật của lí luận văn học
làm tư liệu quý cho việc tham khảo, định hướng trong quá trình nghiên cứu
cái độc đáo trong đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài trong các tác
phẩm viết về loài vật.
5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận xác định đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ nghệ thuật trong
truyện viết về loài vật của Tô Hoài
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tập trung vào đối tượng nghiên cứu
chúng tôi khảo sát một số truyện viết về loài vật của Tô Hoài trong: Tuyển tập
văn học thiếu nhi (1977), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện, phân tích, khái quát những đặc điểm của ngôn ngữ nghệ
thuật trong truyện viết về loài vật của Tô Hoài. Từ đó, chúng tôi khẳng định
thành công trong sáng tạo nghệ thuật của ông đặc biệt là trên phương diện
ngôn ngữ. Và bằng những vốn ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn nhưng đậm chất
trữ tình như thế, Tô Hoài muốn gửi gắm tới các thế hệ bạn đọc đặc biệt là các
em thiếu nhi những bài học bổ ích và tự ý thức được lời ăn tiếng nói hằng
ngày trong giao tiếp với mọi người xung quanh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
1. Tìm hiểu cơ sở lí luận về ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật.
2. Chỉ ra đặc điểm cơ bản về ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện viết về
loài vật của Tô Hoài.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
Phương pháp này giúp chúng tôi thông kê, phân loại và miêu tả cụ thể
đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ những khảo sát tin cậy với những số liệu cụ
thể làm cơ sở chắc chắn cho quá trình triền khai các luận điểm khoa học.
6
- Phương pháp so sánh đối chiếu
Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật
của Tô Hoài với ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn sáng tác trước Tô Hoài
và các nhà văn cùng thời với Tô Hoài, để thấy những đặc điểm riêng trong
ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài.
- Phương pháp phân tích văn bản
Nếu phương pháp cấu trúc – hệ thống tạo nên “diện” thì việc phân tích
văn bản sẽ là điểm nhấn quan trọng tạo nên “điểm” của công trình nghiên
cứu. Việc đặt văn bản trong mối quan hệ tổng hòa với hàng loạt tương quan
và phân tích tháo gỡ những tương quan hữu cơ đó được xem như sự minh họa
sinh động gắn với từng yêu cầu cụ thể của khóa luận.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Khóa luận vận dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu khoa học của
nhiều chuyên ngành: kí hiệu học, thi pháp học, ngôn ngữ học, lí thuyết thông
tin nhằm khám phá đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện viết về
loài vật của Tô Hoài.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của
khóa luận gồm có 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện viết về loài vật
của Tô Hoài.
7
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ có vai trò đặc biệt trong đời sống của con người. Theo quan
niệm của ngôn ngữ học: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu trong
đời sống con người. “Ngôn ngữ là ý thức thực tại thực tiễn, ngôn ngữ cũng
tồn tại cho cả người khác nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do
nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác nữa” [17, tr.8].
Theo Từ điển văn học, ngôn ngữ là: “thuật ngữ chỉ hệ thống các
phương tiện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, giúp cho việc khách thể hóa hoạt
động tư duy, và làm công cụ giao tiếp trao đổi cách suy nghĩ, hiểu biết lẫn
nhau giữa người với người trong xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện bảo lưu và
truyền thông tin, là một trong những phương tiện điều chỉnh hành vi của con
người. Ngôn ngữ tồn tại dưới dạng nói và dạng viết” [7, tr.1088]. Do đó, ngôn
ngữ là một phương tiện của giao tiếp xã hội và là một phương tiện để tư duy.
Nó vừa là một sản phẩm, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu được
tập thể xã hội chấp nhận, để cho phép các cá nhân vận dụng năng lực này.
Tính chất xã hội, tính chất võ đoán là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ.
Người nói dùng ngôn ngữ theo quy phạm để biểu đạt ý nghĩa riêng của
mình. Trong đó, cơ chế tâm lí – vật lý cho phép người nói thể hiện những
cách kết hợp ngôn ngữ thành lời nói cụ thể. Theo đó, có thể hiểu, khi ta nói
ngôn ngữ tức là nói về lời nói cá nhân (parole) gắn với chủ thể phát ngôn
trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể và được tổ chức một cách sinh động.
Khi nói ngôn ngữ (langue) là nói đến kho từ chung với những đặc trưng tiêu
8
biểu mặc nhiên được toàn xã hội thừa nhận; Ngôn ngữ là tổng thể tất cả các
đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng như ngữ âm, từ vựng.
Khả năng của ngôn ngữ vô cùng to lớn, nó giúp cho việc giao tiếp của con
người ở tất cả mọi lĩnh vực hoạt động, ở khắp mọi nơi giữa các thời đại khác
nhau. Nó còn có khả năng biểu hiện tinh vi đời sống tình cảm, tư tưởng con
người. Với các khả năng ấy, ngôn ngữ là chất liệu, phương tiện tổ chức lời
văn nghệ thuật.
Ngoài chức năng giao tiếp, ngôn ngữ còn là phương tiện lưu trữ, bảo
toàn và cố định kết quả nhận thức tư duy. Ngôn ngữ và tư duy tạo thành một
thể thống nhất hữu cơ, bởi lẽ cái này không thể tồn tại nếu không có cái kia…
Nếu vỏ vất chất của ngôn ngữ là cái biểu đạt thì nội dung của ngôn ngữ - tức
cái được biểu đạt – là nhận thức tư duy. Mác nói: “hiện thực trực tiếp của
tư tưởng là ngôn ngữ và là công cụ giao tiếp quan trong nhất của con
người” [2, tr.109].
Như vậy, thuật ngữ ngôn ngữ cần được hiểu là ngôn ngữ tự nhiên của
con người. Đó là một hệ thống tín hiệu tồn tại không phải cho từng cá nhân
mà cho cả cộng đồng, mang bản sắc phong cách từng cộng đồng, từng xã hội,
đặc biệt là bản sắc từng dân tộc. Mỗi cá nhân sử dụng muốn sáng tạo ngôn
ngữ phải tuân thủ những quy ước chung của xã hội.
1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật
Trong văn học, ngôn ngữ mang những giá trị đặc biệt, vừa truyền tải
dung lượng thông tin nhất định, vừa mang tính thẩm mĩ cao. Ngôn ngữ ở vị trí
trung tâm của văn học thể hiện phông văn hóa, cá tính sáng tạo của nhà văn
và xu thế ngôn ngữ chung của thời đại. Phân biệt ngôn ngữ văn học với ngôn
ngữ nói chung, Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Ngôn ngữ văn học là ngôn
ngữ có tính chất nghệ thuật của các tác phẩm văn học. Trong ngôn ngữ học,
thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn, nhằm bao quát các hiện tượng ngôn ngữ
9
được dùng một cách chuẩn mực trong các biên bản nhà nước, trên báo chí,
đài phát thanh, trong văn học và khoa học” [7, tr.183].
Ngôn ngữ văn học không vì thế mà từ bỏ cội nguồn tự nhiên của nó. Từ
cội nguồn này, nhà văn đã lựa chọn, chắt lọc để tạo nên vốn ngôn ngữ của
riêng mình. Giải thích về cội nguồn của ngôn ngữ học Từ điển thuật ngữ văn
học nhận xét: “Ngôn ngữ văn học chính là dạng ngôn ngữ đời sống được lựa
chọn đưa vào trong tác phẩm văn học. Cội nguồn của nó bắt đầu từ kho ngôn
ngữ của nhân dân. Ngôn ngữ nhân dân càng phong phú thì ngôn ngữ văn học
càng tiếp thu và sáng tạo được nhiều hơn” [7, tr.183].
Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng đặc biệt, gắn
liền với các phẩm chất như: tính hình tượng, tính hàm súc, tính chính xác,
ngôn ngữ văn học là hình thái ý nghĩa mang tính thẩm mĩ. Nằm trong tổ chức
nội tại của văn học, ngôn ngữ trong văn học được phân hóa qua các thể loại
của văn học. Mỗi thể loại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo:
trữ tình là ngôn ngữ cách điệu, gợi cảm và giàu nhịp điệu; ngôn ngữ kịch gắn
với đối thoại, gần với ngôn ngữ đời thường; ngôn ngữ trong tự sự lại gắn bó
chặt chẽ với ngôn ngữ trần thuật.
Bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi thông tin mà ngôn ngữ ra đời, bắt nguồn
từ nhu cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp mà văn học ra đời. Ngôn ngữ văn học
đã đem lại bản chất nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên nét khu biệt
giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ nói chung.
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, dùng ngôn ngữ làm công
cụ để biểu đạt. Vì thế, ngôn ngữ có vai trò quan trọng vừa là yếu tố đầu tiên
vừa là chất liệu để tạo nên tác phẩm văn học. Sáng tạo ngôn ngữ văn học là sự
phấn đấu không ngừng của nhà văn chân chính. Đó cũng là công việc vô cùng
gian khổ. Từ rất sớm, các nhà lí luận, nhà thi pháp đã rất chú ý đến các cấp độ
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Theo cách nói của Vêxêlôpxki: có thể nói,
10
lịch sử ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người trần thuật cũng thể hiện lịch sử
văn học dưới dạng rút gọn.
Trong đó ngôn ngữ nghệ thuật còn được gọi là ngôn ngữ văn
học,“ngôn ngữ chuẩn”, “ngôn ngữ tiêu chuẩn”, và được xem là một trong
những hình thức tồn tại chủ yếu của ngôn ngữ” [22, tr.172].
Ngôn ngữ được dùng ở sáng tác văn học không chỉ đóng khung trong
phạm vi các chuẩn mực ngôn ngữ học, các nhà văn còn sử dụng các thành
phần ngôn ngữ thông tục, phương ngữ, biệt ngữ làm phong phú thêm tác
phẩm của mình. Phần lớn các ngôn ngữ hiện đại đều gồm cả dạng nói, dạng
hội thoại và dạng viết. Ngôn ngữ văn học vì thế mà luôn phát triển, không chỉ
là thành tựu và sự phản ánh của văn hóa dân tộc, mà còn là nơi gìn giữ tất cả
những gì có giá trị được biểu hiện bằng ngôn ngữ đã tạo ra bởi nhiều thế hệ.
Nếu ngôn ngữ tự nhiên thường mang tính ổn định thì ngôn ngữ nghệ
thuật – với tư cách là một “mã” nghệ thuật lại luôn thay đổi. Mỗi thời đại văn
học, mỗi trào lưu, khuynh hướng và ở mỗi thể loại, các tác giả lại có quy ước
riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ để mang đến một“thực tại” và hình thức
mới cho sáng tạo nghệ thuật.
Ngôn ngữ nghệ thuật: “Khái niệm chỉ loại hình ngôn ngữ dùng để biểu
đạt nội dung hình tượng của các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ (sáng tác lời
truyền miệng và văn học viết). Về mặt chất liệu, các phương tiện ngôn ngữ
nghệ thuật có thể không khác gì các phương tiện từ vựng, ngữ pháp của ngôn
ngữ toàn dân cũng như không khác gì các yếu tố phương ngữ, ngôn ngữ thông
tục và biệt ngữ…” [8, tr. 1090 – 1091].
Theo G.N.Pospelop, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ văn học của dân
tộc nào cũng nảy sinh trên cơ sở ngôn ngữ các dân tộc có các thổ ngữ địa
phương vốn biểu hiện trong thực tiễn của lời nói miệng. Dần dần với trình độ
phát triển tương đối cao của văn hóa dân tộc, ngôn ngữ văn học hình thành
11
dưới dạng viết và diễn thuyết; theo đó, nó “đã làm giàu kho từ vựng và ngữ
âm của ngôn ngữ dân tộc” [5, tr. 358].
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử: “Ngôn ngữ văn học… không
chỉ khác với lời nói tự nhiên hằng ngày, khác với các hình thức giao tiếp
phi nghệ thuật khác mà cũng khác với hình thức của nghệ thuật ngôn ngữ
khác” [4, tr. 208].
Từ các ý kiến trên, có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ
toàn dân và ngôn ngữ nghệ thuật. Theo đó có thể hiểu, ngôn ngữ nghệ thuật là
một lời nói (hoặc viết) do nhà văn sáng tạo trên cơ sở kho tàng ngôn ngữ
chung. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ của tác phẩm văn học, của thế giới
nghệ thuật, là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ nghệ thuật không
chỉ là một sinh thể tồn tại trong thế giới nghệ thuật, mà còn là biểu hiện đầy
đủ và nổi bật nhất ngôn ngữ dân tộc, là tinh hoa của ngôn ngữ toàn dân.
Mặc dù bắt nguồn và được nuôi dưỡng từ vốn ngôn ngữ toàn dân, ngôn
ngữ tự nhiên nhưng ngôn ngữ nghệ thuật vẫn mang những đặc trưng riêng.
Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật
Hình tượng văn học là hình tượng ngôn ngữ. Mắc-xim Gorky (nhà văn
Nga) đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nhà thơ Lê Đạt nói
mình là “phu chữ”. Trong phần đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật này, tôi chỉ
trình bày một cách ngắn gọn về Sự giống và khác nhau của ngôn ngữ thơ ca
và ngôn ngữ truyện. Từ đó ta có thể lựa chọn từ ngữ như thế nào để đưa vào
bài thơ hay truyện cho đúng lúc, đúng chỗ nhằm chuyển tải được những cảm
xúc, ý nghĩ của mình đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.
Một bài thơ hay với nhiều tầng liên tưởng không dễ gì ta cảm nhận
ngay được, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra cái “ý tại ngôn ngoại” ấy.
Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, đối chiếu ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc,
hương thơm man mát bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng
12
Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: “Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở
ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được, chỉ có thi nhân trông thì
mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon” [30]. Hay như Sóng Hồng (cố Tổng Bí thư
Trường Chinh) viết: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng
tượng”. Vì vậy để viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi
tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.
Một truyện ngắn hay, đọc rồi còn đọng lại trong ta bao điều trăn trở vui
buồn trước tình đất, tình người. Nếu nhà văn sáng tác theo lý thuyết “tảng
băng trôi” như Hê-min-uê thì nội dung, ý nghĩa của truyện nằm sâu ở bảy
phần chìm dưới nước không dễ gì nhận ra ngay như ba phần nổi. Muốn khám
phá phần chìm ấy ta không thể bỏ qua đội “âm binh” ngôn ngữ mà nhà văn đã
dày công lựa chọn.
Chúng ta thừa nhận một cách tương đối: Văn học chia làm 3 loại hình: thơ
(trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (xét ở góc độ kịch bản văn học). Riêng loại thơ
văn xuôi, và truyện thơ vừa có các yếu tố của thơ vừa có yếu tố của truyện. Giữa
ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện vừa có sự giống nhau lại vừa có sự khác nhau.
Song, chúng đều được gọi chung là “ngôn ngữ văn học”. Ngôn ngữ văn học có 3
đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tính hình tượng và tính biểu cảm. Chính vì
vậy, giữa ngôn ngữ văn học ở các loại hình vừa có điểm giống nhau, vừa có sự
khác biệt.
Sự giống nhau: Cả thơ và truyện đều dùng chất liệu chính là ngôn ngữ
để xây dựng tác phẩm. Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn
dân, nhà thơ hay nhà văn lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác
phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống... mới có được
những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” lên ở câu thơ, câu văn làm cho tác
phẩm “nổi gió”, “cất cánh”. Nhà thơ Nga Mai-a-côp-ski đã viết:
13
Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
Xuất phát từ đặc trưng của thể loại Thơ và Truyện mà ngôn ngữ văn
học ở hai thể loại này được các tác giả sử dụng ở những cấp độ khác nhau.
Sự khác nhau: Đối với truyện, do nhà văn phải xây dựng nhân vật điển
hình trong những hoàn cảnh điển hình nên việc miêu tả ngoại hình, nội tâm
nhân vật, bối cảnh xã hội... thường phải cụ thể qua nhiều tình tiết, mâu thuẫn.
Ở mỗi đoạn, mỗi chương lại có sự phát triển tâm lý nhân vật một cách trực
tiếp hay gián tiếp. Số câu chữ có thể giãn ra hay co lại theo ý đồ tác giả.
Nhưng nhìn chung là nó không có sự cô đúc như từ ngữ thơ ca.
Ví dụ: Khi miêu tả bộ mặt một tên quan huyện không thiện cảm mà dân
ta thường gọi là “Quan phụ mẫu”, Nguyễn Công Hoan viết:
“Quan phụ mẫu là người có nhiều cái đặc biệt. Đứng trước ngài ta có
cảm tưởng hỗn xược như phải ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi ta
đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống,
cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo là cứng, nó đùn lên, nó vẽ nên một nếp
nhăn chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung
núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi, giá chỉ một mũi ghim nhỏ
nhỡ đụng vào là có thể chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà ta quen gọi là
mỡ. Lông mi ngài rậm và vòng lên đối với đôi mắt hùm hụp cong xuống. Từ
thái dương đến chung quanh miệng ngài người ta tưởng mặt ngài làm bằng
cứt sắt vì nó đen đen. Nhưng không, đấy chỉ là di tích của một bộ râu quai
nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo. Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không
xứng đáng vì đối với cái bộ mặt vĩ đại ấy nó phải nhiều nếp hơn. Nó đai quanh
đầu ngài một cách rất chướng như cái đai quanh thùng gỗ đựng nước mắm...”.
14
Nguyễn Du miêu tả bộ mặt của Tú Bà - trùm nhà chứa:
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to béo đẫy đà làm sao.
(Truyện Kiều)
Ban zắc trong tiểu thuyết Ơ-giê-ni Grăng-đê đã miêu tả rất đúng tâm lý
của Ơ-giê-ni khi chớm yêu cậu em họ Sác-lơ:
“Trong cuộc đời trong trắng và tẻ nhạt của các cô thiếu nữ bỗng đến
một lúc cõi lòng bừng đón ánh nắng và tiếp nhận nỗi niềm tỉ tê của hoa lá.
Lúc ấy sự sống dào dạt dâng lên từ con tim phập phồng hòa tan mọi ý nghĩ và
niềm thèm khát mơ hồ. Cái giờ phút ấy là giờ phút bâng khuâng thơ ngây và
vui mừng thấm thía. Khi đứa trẻ nhìn thấy sự việc thì nó mỉm cười. Khi cô
thiếu nữ cảm thấy yêu đương chớm nở trong lòng, thiếu nữ cũng mỉm cười
như thời thơ ấu. Như nói ánh sáng là mối tình đầu trong đời người thì tình
yêu không phải là ánh sáng trong lòng người sao?”.
Viết về nỗi rung động đầu đời, nhà thơ Xuân Diệu lại có cách diễn
đạt khác:
Con đường nho nhỏ gió hiu hiu
La lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
(Thơ duyên)
Thực hiện nhiệm vụ của khóa luận, chúng tôi xin dành sự quan tâm đặc
biệt đến ngôn ngữ văn xuôi. Trong văn xuôi, ngôn ngữ nghệ thuật hay còn gọi
là lời văn nghệ thuật. Lời nói nghệ thuật là một tấm thảm ngôn từ mà người
nghệ sĩ thêu dệt nên trong toàn bộ chiều dài tác phẩm văn chương. Ngôn ngữ
là yếu tố đầu tiên của văn học, ngôn ngữ chất liệu để tạo nên tác phẩm văn học.
15
- Xem thêm -