VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TUỒNG
“TRUNG HIẾU THẦN TIÊN” CỦA HOÀNG CAO KHẢI
Ngành: Hán Nôm
Mã số: 9.22.01.04
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM
Hà Nội – 2021
Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí
Phản biện 1: PGS. TS. Phạm Văn Khoái
Phản biện 2: PGS. TS. Hà Văn Minh
Phản biện 3: TS. Trịnh Ngọc Ánh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng bảo vệ luận án cấp Học viện
Họp tại: Học viện Khoa học Xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
vào hồi..........giờ......... phút, ngày..........tháng......... năm 2021
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thanh Vân (2002), Những sự kiện sân khấu Việt Nam qua thư tịch
cổ (tuyển chọn, giới thiệu và dịch), Nxb Sân khấu,H.
2. Nguyễn Thị Thanh Vân (2004), “Ngôn ngữ văn tự trong ba vở tuồng Sơn
Hậu, Đào Phi Phụng, Lý Phụng Đình”, Thông tin Khoa học Nghệ thuật Sân
khấu – Điện ảnh, số 5, tr.50 – 53.
3. Nguyễn Thị Thanh Vân (2006), Yếu tố Hán Nôm trong một số văn bản
Tuồng cổ. Đề tài NCKH cấp Viện, Viện Sân khấu – Điện ảnh,HN.
4. Nguyễn Thị Thanh Vân (2012), “Văn bản Tuồng Hán Nôm với việc phục
hồi Tuồng cổ”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 340, tháng 10, tr.47-49.
5. Nguyễn Thị Thanh Vân (2016), “Sự tiếp nhận tiểu thuyết Trung Quốc Triệu
Thái tổ tam hạ Nam Đường vào nghệ thuật Tuồng truyền thống Việt Nam”,
(Kỷ yếu Hội thảo), Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ V “Phát triển bền
vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu”, tr.165-166.
6. Nguyễn Thị Thanh Vân (2018), “Bài Hịch trong Tuồng Trung hiếu thần tiên
của Diên Mậu Quận công Hoàng Thái Xuyên (tức Hoàng Cao Khải)”, Tạp
chí Xưa và Nay, số 499, tháng 9, tr 54-57.
7. Nguyễn Thị Thanh Vân (2018), “Hoàng Cao Khải với văn hoá và nghệ thuật
dân tộc”, Tạp chí Xưa và Nay, số 501, tháng 11, tr 18-22.
8. Nguyễn Thị Thanh Vân (2019), “Hình tượng Trần Hưng Đạo trong sân khấu
Tuồng”, Tạp chí Xưa và Nay, số 504, tháng 2, tr 62-65.
9. Nguyễn Thị Thanh Vân (2019), “Nhân vật lịch sử trong Tuồng của Hoàng
Cao Khải”, Tạp chí Xưa và Nay, số 509, tháng 7, tr 40- 43.
10. Nguyễn Thị Thanh Vân (2019), “Về văn bản Tuồng Trung hiếu thần tiên”,
Tạp chí Hán Nôm, số 5 (156), tr 63 - 73.
11. Nguyễn Thị Thanh Vân (2020), “Điển cố trong kịch bản Tuồng Trung hiếu
thần tiên”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 429, tháng 3, tr 88-91.
12. Nguyễn Thị Thanh Vân (2020), “Bàn thêm về khái niệm “trung hiếu” trong
tuồng Trung hiếu thần tiên”, Tạp chí Hán Nôm, số 2 (159), tr 70 - 79.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoàng Cao Khải 黃高啟 (1850 - 1933) làm quan trải năm triều vua và là
viên quan mẫn cán phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn (1802 - 1945). Ông sáng
tác trên nhiều lĩnh vực: văn học, sử học, nghệ thuật sân khấu. Các tác phẩm của
ông được in bằng chữ Hán, Nôm, Quốc ngữ, Pháp. Ngoài sáng tác, chúng ta
còn thấy ông tập hợp được các nhà trí thức, tổ chức nhiều cuộc thi thơ, bàn luận
văn chương, hoạt động biểu diễn Tuồng tại Huế và ấp Thái Hà.
Các tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên (TH thần tiên)忠孝神仙, Tây
Nam đắc bằng (Đắc bằng), Tượng kỳ khí xa (Khí xa) của Hoàng Cao Khải đều
được in năm 1916, nhưng chỉ có TH thần tiên là văn bản Tuồng trường thiên
duy nhất được khắc in bằng chữ Nôm. Đây là văn bản Nôm thuộc thời hậu kì,
ra đời khi chữ Quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán, cho nên trong văn bản chữ
Nôm vay mượn chiếm tỉ lệ lớn. Hiện nay, nó là văn bản Tuồng Nôm hiếm thấy
còn nguyên vẹn 25 hồi, thể hiện phong cách, lối viết chuyên biệt về nghệ thuật
sân khấu Tuồng. Văn bản này cũng là tác phẩm Tuồng đầu tiên phản ánh cuộc
đời nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo. Do đó, có thể nói TH thần tiên không
những là văn bản tuồng Nôm quan trọng, góp phần vào việc khai thác, nghiên
cứu mảng sân khấu quan trọng trong kho tàng thư tịch Hán Nôm mà nó còn là
một trong những kịch bản Tuồng tiên phong phản ánh nhân vật lịch sử nước
nhà, góp phần vào việc hình thành phong trào sáng tác Tuồng lịch sử Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900- 1930).
Với những lý do như trình bày ở trên và xuất phát từ mục đích khảo cứu
tác phẩm nghệ thuật sân khấu Tuồng của tác giả, NCS chọn vấn đề Nghiên cứu
văn bản Tuồng “Trung hiếu thần tiên” của Hoàng Cao Khải làm đề tài luận
án tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm, những mong có thể góp phần vào việc giữ
gìn, khai thác, kế thừa di sản Hán Nôm về lĩnh vực nghệ thuật sân khấu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nêu lên tình trạng các văn bản Tuồng
Nôm TH thần tiên hiện còn lưu trữ ở các thư viện trong nước về phương diện
văn bản học để thấy được giá trị việc khắc in văn bản Nôm, tìm hiểu nghệ thuật
biểu diễn sân khấu. Trên cơ sở tìm hiểu 06 văn bản chữ Nôm TH thần tiên, đem
so sánh với văn bản chữ Quốc ngữ, luận án chọn một văn bản chữ Nôm làm đại
1
diện nghiên cứu, phân loại đặc điểm và nhận xét về cách dùng chữ Nôm của tác
giả trong văn bản này. Đồng thời phân tích, lý giải về tích Tuồng, giá trị nội
dung, nghệ thuật của nó để thấy được vai trò của tác phẩm đối với các sáng tác
Tuồng của Hoàng Cao Khải và trong lịch sử nghệ thuật Tuồng giai đoạn đầu
thế kỷ XX (1900 - 1930). Từ đó, cung cấp cơ sở khoa học để giúp chúng ta thấy
được đóng góp của tác giả cho ngành Hán Nôm, văn học, nghệ thuật sân khấu
của dân tộc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu trên, đề tài đi sâu khảo cứu về các văn bản
Tuồng Nôm TH thần tiên hiện tồn trên các phương diện: nghiên cứu so sánh
giữa các văn bản Nôm, khảo sát chữ viết kiêng húy, đặc điểm chữ Nôm và đối
sánh văn bản AB.460 với bản in bằng chữ Quốc ngữ năm 1932; Nêu giá trị nội
dung của tác phẩm TH thần tiên, từ tích Tuồng, đề tài, nhân vật, cốt truyện và
những yếu tố có liên quan tới sự chân thực, hư cấu về nhân vật lịch sử Trần
Hưng Đạo; Làm rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm TH thần tiên về mặt kết cấu,
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ văn chương; Khẳng định những đóng góp của TH
thần tiên trong sân khấu Tuồng về Trần Hưng Đạo và tác gia Hoàng Cao Khải
trong lịch sử nghệ thuật Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900-1930).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là 06 văn bản Tuồng Trung hiếu thần
tiên bằng chữ Nôm của tác gia Hoàng Cao Khải lưu trữ tại các thư viện trong
nước: AB.460, VNb26/2 (VNCHN); Hv.309 (VSH), R.1519, R.1520, R.2228
(TVQG); VTS1, VTS2 (Vũ Tuấn Sán) và bản in chữ Quốc ngữ trên Nam
Phong năm 1932.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tài liệu có liên quan trực tiếp tới TH thần tiên, các kịch bản Tuồng
lịch sử viết về lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 – 1930), kịch bản Tuồng
viết về nhân vật Trần Hưng Đạo.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tác phẩm TH thần tiên của
Hoàng Cao Khải về mặt văn bản học, đặc điểm chữ Nôm, giá trị nội dung và
nghệ thuật, từ đó khẳng định phong cách sáng tác Tuồng của ông. Nhưng vì đây
là một trong những tác phẩm tuồng Nôm tiên phong xây dựng hình tượng Trần
Hưng Đạo trong sân khấu, đánh dấu sự hình thành và phát triển phong trào sáng
2
tác Tuồng lịch sử Việt Nam, cho nên luận án sẽ nghiên cứu sâu hơn mối tương
quan của tác phẩm Tuồng này với các tác phẩm Tuồng khác viết về nhân vật
Trần Hưng Đạo trong thế kỷ XX và trong phong trào sáng tác Tuồng lịch sử
Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX (1900 – 1930).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Luận án nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những tri thức Hán Nôm, văn
bản học, văn hoá học, lịch sử, nghệ thuật học... trong quá trình tiếp cận nghiên
cứu. Luận giải về cách tiếp cận đề tài lịch sử của tác giả trong sự sáng tạo kịch
bản sân khấu Tuồng, góp phần làm rõ sự chi phối của nội dung và hình thức
trong tác phẩm nghệ thuật.
4.2. Phương pháp nghiên cúu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu
văn bản học, Phương pháp nghiên cứu văn tự, Phương pháp nghiên cứu sử học,
Phương pháp nghiên cứu văn hoá học, Phương pháp nghiên cứu văn học,
Phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học, Phương pháp thống kê định lượng,
Phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đề tài nghiên cứu chuyên sâu về văn bản Tuồng TH thần tiên của tác gia
Hoàng Cao Khải nhằm giới thiệu với độc giả trong và ngoài nước trong kho
sách Hán Nôm, ngoài những văn bản lịch sử, triết học, tôn giáo v.v… còn có
một mảng sách viết về nghệ thuật Tuồng do các tác gia người Việt biên soạn.
- Hệ thống hóa và nghiên cứu so sánh một cách tổng thể các văn bản
Tuồng Trung hiếu thần tiên hiện lưu trữ ở thư viện nhà nước VNCHN, VSH,
TVQG và gia đình cụ Vũ Tuấn Sán (năm 2016 đã chuyển về VNCHN) để làm
sáng tỏ các nội dung trong 06 văn bản Nôm này. Chọn văn bản AB.460 còn
nguyên vẹn để khảo cứu, bổ sung vào việc khai thác các văn bản Tuồng sáng
tác dưới triều Nguyễn. Việc giới thiệu văn bản Tuồng Nôm TH thần tiên của
Hoàng Cao Khải dưới góc độ nghiên cứu văn bản học không chỉ cung cấp
nguồn tư liệu mới cho ngành Hán Nôm học, mà còn kết hợp những sáng tác về
các lĩnh vực khác của ông cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về sở trường
sáng tác chữ Nôm và thiên hướng nghệ thuật của Hoàng Cao Khải. Đồng thời
so sánh, đối chiếu văn bản AB.460 với bản chữ Quốc ngữ trên Nam Phong tạp
3
chí năm 1932 (7 kỳ từ số 170-176 năm 1932) để khẳng định nó là bản dịch từ
bản Tuồng Nôm này.
Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tuồng Nôm TH
thần tiên và so sánh về mặt nội dung với hai văn bản in bằng chữ Quốc ngữ Tây
Nam đắc bằng (Đắc bằng), Tượng kỳ khí xa (Khí xa), nêu lên phong cách sáng
tác Tuồng đề tài lịch sử của Hoàng Cao Khải và Tuồng của ông khác hẳn với
những văn bản Tuồng cổ lịch sử trước đó là mượn các nhân vật lịch sử, tích
truyện của Trung Quốc để sáng tác. Từ đó khẳng định TH thần tiên của Hoàng
Cao Khải là tác phẩm Tuồng Nôm đầu tiên sáng tác về nhân vật lịch sử Trần
Hưng Đạo, góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển phong trào sáng tác
Tuồng về người anh hùng dân tộc này trong thế kỷ XX. Từ đặc điểm Tuồng
lịch sử TH thần tiên của Hoàng Cao Khải, đề tài sẽ nêu lên vị trí của tác giả
trong lịch sử sân khấu Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900 – 1930).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kịch bản Tuồng TH thần tiên của Hoàng Cao Khải là một văn bản có vị
trí quan trọng trong lịch sử nghệ thuật Tuồng bởi vì nó là văn bản Tuồng viết
bằng chữ Nôm xuất hiện vào giai đoạn chữ Quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán.
Do đó, việc khảo cứu, giới thiệu văn bản Tuồng Nôm TH thần tiên của Hoàng
Cao Khải dưới góc độ văn bản học thông qua việc nghiên cứu đặc điểm chữ
Nôm, góp phần vào việc giữ gìn, khai thác và bảo tồn di sản Hán Nôm thời hậu
kì.
- Việc nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của văn bản Tuồng Nôm TH
thần tiên sẽ đi đến khẳng định nó là văn bản Tuồng trường thiên ít thấy hiện
còn nguyên vẹn 25 hồi và là tác phẩm đầu tiên phản ánh đầy đủ nhất về cuộc
đời người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo trong sáng tác Tuồng.
- Luận án sẽ đối sánh TH thần tiên với hai tác phẩm Đắc bằng, Khí xa dưới
góc độ lựa chọn đề tài để làm sáng tỏ vấn đề Hoàng Cao Khải là một trong
những người tiên phong sáng tác Tuồng về đề tài lịch sử nước ta. Từ đó khẳng
định sự ra đời bộ ba tác phẩm Tuồng đề tài lịch sử Việt Nam của ông ảnh
hưởng tới một số soạn giả Tuồng, góp phần không nhỏ vào sự hình thành và
phát triển Tuồng lịch sử trong nghệ thuật sân khấu Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ
XX (1900 – 1930).
- Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung vào việc khai thác các văn bản
Tuồng Nôm viết về lịch sử, các sáng tác Tuồng dưới triều Nguyễn.
4
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận, Tài liệu tham khảo chính, Phụ lục, luận
án chia làm 4 chương:
Chương 1: Một số khái niệm về Tuồng và tổng quan tình hình nghiên
cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Tác gia Hoàng Cao Khải và những vấn đề về văn bản
Tuồng Trung hiếu thần tiên
Chương 3: Giá trị nội dung tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên
Chương 4: Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên và
vị trí của Hoàng Cao Khải trong lịch sử nghệ thuật Tuồng giai đoạn đầu thế
kỷ XX (1900- 1930)
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TUỒNG VÀ TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề về Tuồng
1.1.1. Nguồn gốc và khái niệm về Tuồng, kịch bản Tuồng
Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu đi tìm hiểu về nguồn gốc
của nghệ thuật Tuồng, nhưng vẫn chưa thống nhất. Dựa trên nhiều cứ liệu,
chúng tôi cho rằng nghệ thuật Tuồng được hình thành trên cơ sở ca múa dân
gian từ thời Lý. Trong quá trình phát triển, chịu sự tác động của sự kiện Lý
Nguyên Cát, nghệ thuật Tuồng chịu ảnh hưởng của ca múa nhạc Chiêm Thành
và nghệ thuật hý khúc Trung Hoa. Đời Trần, nghệ thuật Tuồng mới bắt đầu có
hình thức trình diễn sân khấu, biểu diễn trong cung đình theo cốt truyện và đến
thời chúa Nguyễn (1802- 1945), nó hoàn thiện và phát triển phồn thịnh cả về
mặt nội dung lẫn hình thức, dần dần xuất hiện các đội Tuồng của các vua, quan,
các gánh hát biểu diễn chuyên nghiệp ở nhiều địa phương gần kinh kỳ và các đô
thị lớn.
Khái niệm Tuồng (hay còn gọi là Hát bội, Hát bộ) dùng để chỉ một loại
nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam. Trước kia, Tuồng là tên gọi
của người miền Bắc, Hát bội (hay Hát bộ) là tên gọi của người miền Trung,
miền Nam và hiện nay Tuồng là tên gọi của miền Bắc, miền Trung, còn miền
Nam là Hát bội.
5
Khái niệm kịch bản Tuồng: dựa theo quan niệm của Xuân Yến, kịch bản
Tuồng được hiểu theo nghĩa vừa là tác phẩm văn học, vừa là tác phẩm sân khấu.
1.1.2. Khái lược quá trình phát triển của nghệ thuật Tuồng
Từ sự kiện Lý Nguyên Cát đã đánh dấu sự hình thành nghệ thuật Tuồng ở
nước ta. Thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, nghệ thuật Hát bội đã được hoàn
chỉnh về hình thức, các kịch bản đã bắt đầu hình thành, xuất hiện hàng loạt kịch
bản (khuyết danh). Thời Tây Sơn xây dựng nơi để biểu diễn Tuồng. Triều
Nguyễn, nghệ thuật Tuồng phát triển cực thịnh với các tổ chức biểu diễn Tuồng
trong cung đình, các dinh quan lớn và xuất hiện nhiều tác phẩm. Đầu thế kỷ XX
(1900- 1930), bắt đầu xuất hiện những kịch bản viết về sự kiện, nhân vật lịch sử
của nước nhà và nghệ thuật biểu diễn của sân khấu Tuồng diễn ra ở một số rạp
do triều đình quản lý và trong thời gian này một số gánh hát tư nhân xuất hiện ở
các tỉnh miền Bắc.
1.1.3. Sáng tạo sân khấu Tuồng về đề tài lịch sử
Qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu tại hội nghị, hội thảo tọa đàm bàn
về kịch lịch sử, nhận thấy những vở viết về lịch sử là Tuồng về đề tài lịch sử.
Khái niệm sáng tạo Tuồng đề tài lịch sử là hình thức sân khấu, thường lấy
sự kiện, nhân vật lịch sử làm đối tượng miêu tả. Người viết cần nghiên cứu, tìm
hiểu, nắm bắt những tài liệu lịch sử một cách đầy đủ, chính xác và cũng có thể
lược bỏ chi tiết không điển hình, hoặc trên cơ sở hiện thực lịch sử, tác giả có
quyền tưởng tượng, hư cấu theo các quy luật của sự sáng tạo nghệ thuật, nhưng
không nằm ngoài phạm vi lịch sử thời bấy giờ, nhằm làm cho hình tượng nhân
vật sinh động hơn. Ngoài ra, tác giả cũng có thể đặt nhân vật lịch sử vào địa vị
lịch sử để đánh giá một cách đúng mức nhất.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên”
Nhóm tác giả Trần Nghĩa & Francois Gros, Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Tô
Lan, Đỗ Đức Hiểu, Vũ Văn Phái, Trần Ích Nguyên đã giới văn bản và nêu sơ
lược nội dung của TH thần tiên.
Nhận thấy TH thần tiên là tác phẩm Tuồng Nôm có giá trị, sau khi triển
khai đề tài luận án Nghiên cứu văn bản Tuồng Trung hiếu thần tiên của
Hoàng Cao Khải, chúng tôi đã khảo cứu các tư liệu liên quan đến tác giả và
các tác phẩm của Hoàng Cao Khải trên các phương diện. Các bài viết “Hoàng
Cao Khải với văn hoá và nghệ thuật dân tộc”, “Về văn bản Tuồng Trung hiếu
6
thần tiên”, “Hình tượng Trần Hưng Đạo trong sân khấu Tuồng”, “Bàn thêm về
khái niệm “trung hiếu” trong tuồng Trung hiếu thần tiên”, “Điển cố trong kịch
bản Tuồng Trung hiếu thần tiên”... đi sâu khảo cứu về văn bản, nội dung, tư
tưởng “trung hiếu” và một số vấn đề về ngôn ngữ trong TH thần tiên.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về tác gia và các sáng tác khác của
Hoàng Cao Khải
Việt sử yếu, Nam sử diễn âm... được các tác giả Trần Nghĩa, Trịnh Khắc
Mạnh, Nguyễn Tô Lan, Dương Quảng Hàm, Trần Văn Khải, Nguyễn Lộc, Trần
Đình Ngôn, Trần Ngọc Vương, Trần Việt Ngữ, Tôn Thất Cổn, Huỳnh Khắc
Dụng, Đặng Đức Thi, Lê Xuân Giáo, Nguyễn Thị Oanh, Đào Phương Chi,
Nguyễn Văn Minh, Sato Thụy Uyên... đã giới thiệu, cung cấp đầy đủ nhất về
tác giả, tác phẩm và nghiên cứu, trích dẫn một số tác phẩm sử học, bài thơ Nôm
của Hoàng Cao Khải.
1.3. Một số nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ quá trình khảo cứu các công trình, bài viết nghiên cứu trong và ngoài
nước có liên quan đến Tuồng TH thần tiên nhận thấy hầu hết các học giả đều
tập trung nghiên cứu vào các lĩnh vực sau:
Tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm: giới thiệu toàn bộ các sáng tác
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm của tác gia Hoàng Cao Khải.
Về sáng tác các tác phẩm sử học: tập trung nghiên cứu, trích dẫn tham
khảo các tác phẩm Việt sử yếu, Việt sử kính, Gương sử Nam.
Tác phẩm văn học: nghiên cứu tập trung các tác phẩm Tây Nam hai mươi
tám hiếu, Làm con phải hiếu và một số bài thơ; Tác phẩm Tuồng: hầu hết các
học giả đều khẳng định Hoàng Cao Khải có các tác phẩm Tuồng TH thần tiên,
Đắc bằng, Khí xa. Một số công trình đã nghiên cứu nội dung, văn thể chuyên
biệt của hai kịch bản Tuồng Đắc bằng, Khí xa. Còn về hoạt động Tuồng của tác
giả thì hầu hết các học giả đều khẳng định Hoàng Cao Khải có đội Tuồng riêng
biểu diễn ở điện Văn Minh (Huế) và sau đó chuyển ra biểu diễn ở ấp Thái Hà
(Hà Nội).
Tuy nhiên, liên quan trực tiếp và được xác định hữu ích đối với việc thực
hiện luận án là các công giới thiệu tác phẩm, kí hiệu sách, nội dung và nguồn
lưu trữ văn bản trong và ngoài nước của Tuồng TH thần tiên, nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu. Tuy đây là những nghiên cứu này riêng lẻ, dừng lại ở mức “điểm
7
tên” tác phẩm, nhưng nó là nguồn tài liệu quý, gợi mở cho tác giả nghiên cứu
những vấn đề tiếp theo của đề tài.
1.4. Định hướng những vấn đề nghiên cứu tiếp theo của luận án
Xuất phát từ mục đích khai thác văn bản nghệ thuật bằng chữ Nôm, trong
luận án này chỉ khai thác, khảo cứu văn bản Tuồng TH thần tiên dưới góc độ
văn bản học, nghệ thuật học. Bởi vì, trong bộ ba tác phẩm Tuồng về đề tài lịch
sử của Hoàng Cao Khải, TH thần tiên hiện còn là bản Tuồng duy nhất được
khắc in bằng chữ Nôm. Nó ra đời năm 1916, thuộc tác phẩm Nôm thời kì hậu
kì, cho nên ở đây dựa theo mô hình cấu trúc chữ Nôm thời hậu kì của Nguyễn
Tuấn Cường để khảo sát văn bản nhằm tìm ra đặc điểm của nó.
Đi sâu tìm hiểu TH thần tiên ở diện đề tài phản ánh, nhân vật và đặc biệt so
sánh sự chân thực, hư cấu giữa hình tượng nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật
và nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, còn so sánh các sự kiện có liên
quan tới nhà Trần trong cuộc chiến chống quân Nguyên – Mông phản ánh trong
tác phẩm với Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải, Đại Việt sử ký toàn thư của Lê
Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên. Giá trị nghệ thuật TH thần tiên cũng được khảo cứu
trên phương diện: kết cấu, nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật, ngôn ngữ
văn chương.
Các kết luận được rút ra từ những hướng nghiên cứu trên nhằm khẳng định
tác phẩm Tuồng TH thần tiên là tác phẩm Tuồng đầu tiên viết về nhân vật lịch
sử Trần Hưng Đạo và là một trong những tác phẩm Tuồng tiên phong trong
phong trào sáng tác Tuồng về nhân vật, sự kiện lịch sử nước nhà, góp phần vào
việc hình thành và phát triển nghệ thuật Tuồng về đề tài lịch sử Việt Nam giai
đoạn đầu thế kỉ XX (1900 – 1930).
Tiểu kết chương 1
Tuồng của Hoàng Cao Khải đã thu hút sự quan tâm của các tác giả trong,
ngoài nước và đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên văn bản Tuồng TH
thần tiên bằng chữ Nôm khắc in vào năm 1916 mới chỉ giới thiệu tên tác phẩm,
nêu khái quát nội dung mà chưa có bài viết hoặc công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu.
TH thần tiên là văn bản Tuồng ra đời trong thời kỳ lưu hành bốn loại văn
tự: chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và Quốc ngữ, nên nó sẽ mang đặc trưng tiêu
biểu của chữ Nôm thời kỳ này. Hơn nữa, cho đến thời điểm hiện tại nó là văn
8
bản Tuồng Nôm trường thiên còn đầy đủ các hồi (25 hồi) và là tác phẩm Tuồng
Nôm đầu tiên, duy nhất viết về nhân vật Trần Hưng Đạo.
Các khái niệm về Tuồng, kịch bản Tuồng và vấn đề sáng tạo sân khấu
Tuồng về đề tài lịch sử cũng được trình bày và giải thích rõ ràng thông qua các
ý kiến của các nhà nghiên cứu, từ đó đưa ra kiến giải riêng của mình về các
khái niệm này để có sự thống nhất trong khi thực hiện đề tài. Để làm rõ vị trí,
vai trò của tác phẩm TH thần tiên và tác giả Hoàng Cao Khải trong lịch sử nghệ
thuật Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX, luận án đã khái quát nguồn gốc, quá trình
phát triển của nghệ thuật Tuồng từ khi hình thành đến năm 1930, nhằm khẳng
định tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của tác phẩm tới phong trào sáng tác
Tuồng về đề tài lịch sử Việt Nam.
Chương 2
TÁC GIA HOÀNG CAO KHẢI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
VĂN BẢN TUỒNG TRUNG HIẾU THẦN TIÊN
2.1. Thân thế và sự nghiệp sáng tác của tác gia Hoàng Cao Khải
2.1.1. Vài nét về tiểu sử tác giả
Hoàng Cao Khải 黃高啟 nguyên tên là Hoàng Văn Khải 黃文啟, tự Đông
Minh 東明, hiệu Thái Xuyên 太川, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1850 tại thôn
Đông Thái 東太村, xã Yên Đồng 安同社, tổng Việt Yên 越安总, huyện La Sơn
羅 山 縣 , phủ Đức Thọ 德 壽 府 (nay là làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh,
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Khởi đầu là Huấn đạo huyện Thọ Xương, Giáo
thụ phủ Hoài Đức, Tri huyện Thọ Xương, quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần
phủ Hưng Yên,... đến Thượng thư bộ Binh và làm Phụ chính đại thần cho vua
Thành Thái, hàm Thái tử Thái phó, Văn Minh điện Đại học sĩ. Ông mất ngày
22 tháng 9 năm 1933 (tức ngày 3 tháng 8 năm Quý Dậu) tại ấp Thái Hà, Hà
Nội.
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của tác gia Hoàng Cao Khải
2.1.2.1. Về văn hoá/ di tích, thơ văn, soạn sử
Việc tôn tạo đền chùa, miếu mạo và soạn văn bia của Hoàng Cao Khải chủ
yếu tập trung vào những người có công xây dựng và bảo vệ đất nước, như tu
sửa đền Hùng, soạn văn bia về Lê Lợi bên Hồ Gươm, tu sửa đền thờ Trần Hưng
Đạo, soạn bia về Lê Văn Duyệt... Những việc làm này cho thấy ông là người
9
am hiểu văn hóa dân tộc, có ý thức giữ gìn những di sản và cũng thể hiện tấm
lòng tôn kính, ngưỡng mộ của ông đối với các bậc tiền nhân.
Bên cạnh đó, ông có nhiều bài thơ, văn, câu đối, bài văn bia ca ngợi đất
nước, tôn vinh dân tộc được tuyển vào sách giáo khoa phổ thông. Thông qua
các tác phẩm sử học, Hoàng Cao Khải cũng bộc lộ những suy tư, trăn trở về các
sự kiện lịch sử.
2.1.2.2. Về hoạt động tổ chức biểu diễn và sáng tác Tuồng
Hoàng Cao Khải tuyển chọn các con hát, nghệ nhân từ khắp nơi để bồi
dưỡng, đào tạo nghề, tổ chức biểu diễn Tuồng ở Huế và Hà Nội. Về sáng tác
ông có bộ ba tác phẩm Tuồng TH thần tiên, Đắc bằng, Khí xa.
2.2. Những vấn đề về văn bản Tuồng “Trung hiếu thần tiên”
2.2.1. Luận giải về “tên” của tác phẩm
Tuồng TH thần tiên tác giả đặt tên theo cách khái quát nội dung và tư
tưởng của tác phẩm. “Thần tiên 神仙” ở đây có ý chỉ nhân vật lịch sử Trần
Hưng Đạo và cũng là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm Tuồng;
“Trung hiếu 忠孝” ở đây được tác giả Hoàng Cao Khải đặt ngay ở đầu tên gọi
của tác phẩm có ý nhấn mạnh sự “trung hiếu” ở Trần Hưng Đạo.
2.2.2. Nghiên cứu so sánh các văn bản chữ Nôm “Trung hiếu thần tiên”
Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu tác phẩm Tuồng TH thần tiên in
bằng chữ Nôm ở các thư viện nhà nước và tư nhân như sau: VNCHN gồm kí
hiệu AB.460 (2 quyển) và kí hiệu VNb26/2 (quyển 2); Viện Sử học (VSH) có
quyển 2, kí hiệu Hv.309; TVQG hiện còn 02 bản: kí hiệu R.1519 (quyển 1),
R.1520 (quyển 2) và kí hiệu R.2228 (quyển 2); Thư viện gia đình của cụ Vũ
Tuấn Sán gồm 2 quyển (VTS1, VTS2).
Ngoài ra, TH thần tiên (in bằng chữ Quốc ngữ) đăng trên Nam Phong tạp
chí từ số 170-176 (năm 1932) và bản tóm tắt cốt truyện in trong Từ điển nghệ
thuật hát bội Việt Nam (1998). Tuy nhiên, văn bản chữ Quốc ngữ không đề tên
tác giả, nên ở đây chúng tôi đối chiếu các bản chữ Nôm này với bản chữ Quốc
ngữ nhằm tìm ra tác giả của nó.
Qua khảo sát 06 bản Nôm TH thần tiên kí hiệu AB.460, VNb26/2, Hv.309,
R.1519, R.1520, R.2228, VTS1, VTS2 về hình thức (lai lịch, tên gọi, chất liệu
giấy, tình hình văn bản, niên đại, nét chữ khắc, kết cấu) và nội dung cho thấy
chúng đều in trên giấy dó và từ cùng một bộ ván khắc in.
10
- Về những dấu phân cách: dấu vòng tròn màu đen bên trong trắng dùng để
phân cách những câu hát, câu nói trong văn bản Tuồng, sự thể hiện dấu phân
cách này thống nhất trong văn bản. Cách phân chia hồi, tên nhân vật, điệu hát,
dấu láy “<<” v.v... đều giống nhau; Về những dấu vòng tròn ngoài đen trong
trắng ở bên phải của chữ, nằm ở những điệu hát của văn bản, dùng để đánh dấu
những điển tích, điển cố, nội dung các hồi Tuồng hoàn toàn giống nhau. Vì thế
có thể khẳng định 06 văn bản này có hình thức trình bày, cách viết chữ Nôm
giống nhau, cùng một bộ ván khắc và đều được khắc in vào năm Khải Định
nguyên niên (1916).
Trong 06 văn bản trên chỉ có 02 văn bản còn đầy đủ nguyên vẹn 25 hồi
Tuồng. Văn bản AB.460 vốn là sách của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, in trong
công trình Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, phục vụ rộng rãi bạn
đọc trong và ngoài nước, do đó chọn làm tài liệu nghiên cứu, khảo sát chính của
luận án.
2.2.3. So sánh văn bản chữ Nôm và bản chữ Quốc ngữ của kịch bản
Tuồng “Trung hiếu thần tiên”
Văn bản Tuồng TH thần tiên (Truyện Hưng Đạo vương 興道王傳) trên
Nam Phong tạp chí được đăng làm 7 kỳ, từ số 170-176 năm 1932. Căn cứ vào
sự đối sánh giữa văn bản Tuồng bằng chữ Nôm kí hiệu AB.460 với văn bản
bằng chữ Quốc ngữ; chú thích “Tuồng cổ lưu hành ở Huế”; thời điểm ra đời
của TH thần tiên in năm 1916 và so sánh những điểm giống, khác nhau trong
nội dung của hai văn bản, đưa ra một số kết luận như sau:
1/ Bản chữ Quốc ngữ in trên Nam Phong tạp chí năm 1932 được phiên âm,
dịch nghĩa từ bản chữ Nôm TH thần tiên của Hoàng Cao Khải.
2/ Ở phần Bày diễn tích bản chữ Quốc ngữ đã chia theo từng hồi, và có hai
đoạn nhiều hơn so với văn bản AB.460, đoán định có thể do người dịch thêm
vào để giải thích cho người đọc hiểu rõ hơn.
3/ Về chất lượng bản dịch: Bản chữ Quốc ngữ còn một số mã chữ Nôm
phiên chưa đúng dẫn đến có nhiều chỗ sai lệch so với bản gốc chữ Nôm. Có lẽ
người phiên chưa nhận rõ được hiện tượng dùng chữ Hán trong văn bản Nôm,
cũng không am hiểu làn điệu của Tuồng. Do đó mới có trường hợp dịch nghĩa
một số làn điệu của Tuồng sang chữ Quốc ngữ.
4/ Về việc sửa nội dung, chỉnh sửa câu văn cho gọn hơn ở của văn bản
Tuồng bằng chữ Quốc ngữ, bản chữ Quốc ngữ đã không trung thành với việc
11
phiên âm một văn bản Nôm và làm sai lệch ngôn ngữ, nội dung của văn bản
gốc. Việc sửa chữa này không phải là phiên âm Nôm, mà gọi là “biên dịch”.
Ngoài bản chữ Quốc ngữ in trên Nam Phong tạp chí còn thấy phần tóm tắt
nội dung cốt truyện kịch bản Tuồng TH thần tiên (trang 599- 602) trong Từ
điển nghệ thuật hát bội Việt Nam (1998) do Nguyễn Lộc chủ biên dựa trên tạp
chí này.
2.2.4. Một số vấn đề về văn tự trong Trung hiếu thần tiên
2.2.4.1. Đặc điểm và phân loại chữ Nôm trong “Trung hiếu thần tiên”
* Phân loại chữ Nôm trong “Trung hiếu thần tiên”: Văn bản Tuồng này
gồm 25 hồi, nhưng vì điều kiện của bản thân, giới hạn của luận án, cho nên chỉ
khảo sát 5 hồi (hồi 1- hồi 5) của văn bản Tuồng. Theo mô hình của Nguyễn
Tuấn Cường trong bài viết “Nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm hậu kỳ từ cấp độ hệ
thống văn tự và đơn vị văn tự”, phân chia như sau:
+ Phân loại chữ Nôm vay mượn (giả tá):
- Chữ mượn cả hình – âm – nghĩa, âm Hán Việt (A1): Đây là loại chữ vay
mượn rất hay được sử dụng bởi vì chữ viết ít nét, có âm đọc rõ ràng, như: độ
度, đạo 道, huệ 蕙... Tổng số 5 hồi có 1.582 chữ (3.865 lượt), chiếm tỉ lệ
56,67% tổng số chữ Nôm.
- Chữ mượn cả hình – âm – nghĩa, âm tiền Hán Việt, hậu Hán Việt (A2):
ví dụ như chữ bùa 符. Về số lượng chữ Nôm 5 hồi là 3 chữ (4 lượt).
- Chữ mượn hình, mượn nghĩa (B): ví dụ chữ di 移 đọc thành dời, đả 打
đọc thành đánh, kỳ 旗 đọc thành cờ... Về số lượng loại chữ này ở 5 hồi xuất
hiện 84 chữ (179 lượt), chiếm tỉ lệ 3% tổng số chữ Nôm.
- Chữ mượn hình, mượn âm Hán Việt, đọc đúng âm Hán Việt (C1): ví dụ
chữ một 没. Tổng số chữ Nôm loại này ở 5 hồi xuất hiện 16 chữ (88 lượt),
chiếm tỉ lệ 0,57% tổng số chữ Nôm.
- Chữ mượn hình, mượn âm Hán Việt, đọc chệch (trại) âm Hán Việt (C2): Mỗi
âm đọc của loại này là âm tiết thuần Việt, nó vốn là tiền thân của chữ Nôm mang kí
hiệu phụ, như: chữ bi 悲 đọc thành bay. Về số lượng loại chữ này ở 5 hồi xuất hiện
387 chữ (1.168 lượt), chiếm tỉ lệ 13,86% tổng số chữ Nôm.
+ Phân loại chữ Nôm tự tạo trong “Trung hiếu thần tiên”
- Chữ gia thêm biến đổi phụ (D): là loại chữ Nôm thêm vào một thành tố
để xác định đó đích thực là chữ Nôm, như các chữ
12
Chạy: mượn
chạy
(âm Nôm, gồm tẩu 走 và trãi 豸 viết tắt) +
kí hiệu phụ. Về số lượng loại chữ
này ở 5 hồi xuất hiện 6 chữ (6 lượt), chiếm tỉ lệ rất nhỏ.
- Chữ ghép một mặt hội âm, hội ý (E1): Đây là loại chữ Nôm ghép thuần
tuý hai thành tố ghi âm, trong đó hai thành tố đều cộng hợp với nhau tạo nên
một âm mới, như:
Lớn = mượn 赖 lại (Hán) + 巨 cự. Về số lượng chữ
Nôm ở 5 hồi xuất hiện 24 chữ (53 lượt), chiếm tỉ lệ 0,86% tổng số chữ Nôm.
- Chữ ghép một mặt, hội ý (E2): Đối lập với loại chữ Nôm có quan hệ âm âm là loại chữ Nôm có quan hệ nghĩa nghĩa, như:
trời = 天 thiên (Hán) + 上
thượng (Hán). Về số lượng chữ Nôm loại này ở 5 hồi xuất hiện 42 chữ (80
lượt), chiếm tỉ lệ 1,5 % tổng số chữ Nôm.
- Chữ ghép hai mặt âm + ý, bộ thủ + chữ (F1): Đây là loại chữ Nôm thành
phần âm đọc thường ở bên trái và chỉ nghĩa thường ở bên phải, như chữ
dẫn
= 引 dẫn + 口 khẩu. Về số lượng loại chữ Nôm này ở 5 hồi là 384 chữ (702
lượt), chiếm tỉ lệ 13,75% tổng số chữ Nôm.
- Chữ ghép hai mặt âm + ý, chữ + chữ (F2): Đây là loại chữ Nôm có cấu
tạo mượn nguyên hình hai chữ Hán để ghép thành chữ Nôm, nhưng trong hai
Vay mượn (giả tá)
chữ đó có một thành tố mượn âm, một thành tố mượn nghĩa, như chữ
nghe
thành tố phụ là 宜 nghi + 耳 nhĩ (tai). Về số lượng loại chữ này ở 5 hồi xuất
hiện 263 chữ (703 lượt), chiếm tỉ lệ 9,4% tổng số chữ Nôm. Các cấu trúc chữ
Nôm trong TH thần tiên được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Bảng thống kê số lượng và số lượt xuất hiện chữ Nôm
loại Loại cấu trúc
hồi 1
hồi 2
hồi 3
hồi 4
hồi 5
chữ lượt chữ lượt chữ lượt chữ lượt chữ lượt
A1 (mượn cả 264 543 272 628 360 706 476 1.436 210 552
hình – âm –
nghĩa, âm HV)
A2 (mượn cả
1
1
0
0
0
0
0
0
2
3
hình – âm –
nghĩa, âm
THV, HHV)
B (mượn hình, 13
23
12
25
20
49
25
56
14
26
mượn nghĩa)
C1(mượn
1
1
1
2
6
21
5
43
3
14
hình, mượn âm
13
Tự tạo
HV, đúng âm
HV)
C2 (mượn
83 211 75 254 85 277 78 264 66 162
hình, mượn âm
HV, trại âm
HV)
D (gia thêm
0
0
2
2
2
2
2
2
0
0
biến đổi phụ)
E1 (ghép một
1
1
4
4
7
12
6
27
6
9
mặt hội âm,
hội ý)
E2 (ghép một 16
25
6
9
5
10
6
11
9
25
mặt, hội ý)
F1(ghép hai
77 118 65 115 92 181 95 203 55
85
mặt âm + ý, bộ
thủ + chữ )
F2 (ghép hai 50 106 54 119 51 139 58 213 50 126
mặt âm + ý,
chữ + chữ)
Tổng số
506 1.029 491 1.158 621 1.404 751 2.255 414 1.002
Ghi chú: HV: Hán Việt, THV: Tiền Hán Việt, HHV: Hậu Hán Việt.
Từ bảng thống kê cho biết, tổng số chữ Nôm ở 5 hồi là 2.792 chữ với tần
số xuất hiện là 6.848 lượt, trong đó chữ Nôm vay mượn (giả tá) là 2.073 chữ
(chiếm 74,25%) với tần số xuất hiện là 5.304 lượt, chữ Nôm tự tạo là 719 chữ
(chiếm 25,75%) với tần số xuất hiện là 1.544 lượt. Tỉ lệ chữ Nôm giữa các loại
cũng có sự chênh lệch lớn. Những loại chữ B, E1, E2 giảm đi đáng kể và chữ
vay mượn tăng dần, cho thấy trong văn bản Tuồng tên nhân vật, địa danh và có
nhiều thể thơ, điệu hát bắc dùng hoàn toàn chữ Hán, chỉ có văn xuôi và điệu
hát vãn, oán, thán thường dùng chữ Nôm. Cũng từ bảng khảo sát cho thấy tỉ lệ
các chữ A1, C2, F1, F2 lặp lại nhiều lần trong văn bản, và trường hợp một mã
chữ nhưng có hai, ba cách đọc khác nhau, cho thấy tác giả nắm rõ ngữ nghĩa
của chữ và dùng đúng vào nội dung, niêm luật thơ, ngữ cảnh văn xuôi trong
tác phẩm Tuồng. Bên cạnh đó, ở 5 hồi của văn bản TH thần tiên chúng ta còn
thấy có 25 trường hợp chữ có nhiều âm đọc và 82 trường hợp một âm đọc có
nhiều mã chữ khác nhau, thể hiện tác giả nắm rõ kết cấu từng chữ Nôm và
dùng đúng ngữ, nghĩa trong các trường hợp.
14
* Một số nhận xét về chữ Nôm trong “Trung hiếu thần tiên”
- Về số lượng chữ Nôm: Chữ Hán nhiều hơn chữ Nôm là điều dễ thấy,
bời vì Tuồng là nghệ thuật bác học và là tác phẩm của các nhà Nho. Các điệu
hát bắc (hát khách), xướng của Tuồng chủ yếu dùng thơ Đường luật, tên các
nhân vật, địa danh trong văn bản này đều dùng chữ Hán.
- Về việc sử dụng chữ Nôm: Để ghi một âm đọc, tác giả Hoàng Cao Khải
sử dụng nhiều mã chữ khác nhau, với nhiều ngữ nghĩa ở các ngữ cảnh khác
nhau (hay còn gọi là từ đồng âm khác nghĩa), cho thấy tác giả là người có
trình độ Hán Nôm, am hiểu ngữ nghĩa, cấu trúc chữ Nôm và có ý thức trong
cách dùng từ ở các khổ thơ, ngữ cảnh. Trong các chữ Nôm tự tạo, Hoàng Cao
Khải sử dụng loại chữ Nôm F1, F2 (ghép âm – ý) nhiều hơn là loại chữ ghép
một mặt E1, minh chứng văn bản này đã không còn nhiều các tổ hợp 𤾓 blăm
= trăm,輸 klâu = thua và nó là văn bản Tuồng chữ Nôm thời hậu kì, góp phần
ghi lại ngôn ngữ tiếng Việt dầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong văn bản còn có
một số chữ khắc sai hoặc thiếu nét, như: tấu 奏 khắc thành tần 秦, ngột 兀
khắc thành nguyên 元... là lỗi xảy ra trong quá trình khắc in văn bản, gây khó
khăn cho người tiếp cận và nghiên cứu văn bản. Trong văn bản TH thần tiên,
có những trường hợp viết kiêng húy các chữ: thời 時, chữ mừng
, vững
,
âm Tông 宗 trong các tên nhân vật vua. Căn cứ vào những tư liệu hiện có và
thông qua những chữ kiêng húy trong văn bản, dựa vào việc phong tước Diên
Mậu Quận công (1889) mà văn bản Tuồng này đề năm là Diên Mậu Quận công
Hoàng Thái Xuyên trước 延茂群公黄泰川著 (nghĩa là tác giả Diên Mậu Quận
công Hoàng Thái Xuyên) và với một khối lượng đồ sộ (25 hồi tuồng), chúng tôi
cho rằng tác giả không thể sáng tác tác phẩm Tuồng này trong một thời gian
ngắn, do đó văn bản TH thần tiên có thể được sáng tác trước năm 1916, tức là
trong khoảng thời gian từ năm 1889 - 1916, nghĩa là khi Hoàng Cao Khải về
nghỉ ở ấp Thái Hà.
Tiểu kết chương 2
Hoàng Cao Khải sáng tác trên nhiều lĩnh vực và nhiều bài thơ, làn điệu
Tuồng được tuyển vào sách giảng dạy ở bậc tiểu học và phổ thông. Các tác
phẩm sử học của ông là những tài liệu nghiên cứu có giá trị và đặc biệt là bộ ba
tác phẩm Tuồng đề tài lịch sử Việt Nam đã góp phần vào việc thúc đẩy phong
trào sáng tác Tuồng lịch sử phát triển. Ngoài ra, việc tôn tạo một số di tích lịch
15
sử cũng được Hoàng Cao Khải chú ý, cho thấy ông quan tâm đến văn hóa, nghệ
thuật và lịch sử dân tộc. Từ những kết quả khảo sát 6 văn bản chữ Nôm, chỉ có
hai bản của VNCHN, TVQG kí hiệu AB.460 (2 quyển) và R.1519, R.1520 (2
quyển) còn đầy đủ 25 hồi. Qua quá trình tiếp cận văn bản, chúng tôi chọn văn
bản kí hiệu AB.460 của VNCHN làm tài liệu khảo cứu và so sánh văn bản này
với bản chữ Quốc ngữ in trên Nam Phong tạp chí năm 1932, khẳng định bản in
trên Nam Phong là bản phiên âm từ bản chữ Nôm của Hoàng Cao Khải.
TH thần tiên là tác phẩm sân khấu, nên chữ Nôm trong văn bản được viết
rất phong phú đa dạng. Chữ Nôm vay mượn chiếm tỉ lệ lớn và trường hợp một
mã chữ Nôm có nhiều cách đọc, mã chữ khác nhau có cùng âm đọc, cho thấy
khả năng dùng chữ Nôm của tác giả và văn bản này có xu hướng dùng chữ Hán
đọc Quốc âm, tức là mượn chữ Hán đọc thành chữ Nôm mà trong Bản điều trần
của Nguyễn Trường Tộ đã đề xướng.
Chương 3
GIÁ TRỊ NỘI DUNG
CỦA TÁC PHẨM TUỒNG “TRUNG HIẾU THẦN TIÊN”
3.1. Đề tài của “Trung hiếu thần tiên”
Tác phẩm Tuồng TH thần tiên không chỉ miêu thuật cuộc đời của Trần
Hưng Đạo, mà nó còn dựng lại cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông
của Trần Hưng Đạo và quan quân nhà Trần. Do đó, xét trên bình diện thể tài,
TH thần tiên cũng có thể coi là văn bản Tuồng „trực tiếp đi vào lịch sử chống
ngoại xâm‟, đoàn kết dân tộc, chống xâm lăng dân nước Việt.
3.2. Số lượng và hệ thống nhân vật
TH thần tiên có số lượng nhân vật khá nhiều, gồm 67 nhân vật có tên tuổi
cụ thể chia làm hai tuyến nhân vật: quân dân nhà Trần và quân Nguyên –
Mông. Ở tác phẩm này, tác giả còn thay đổi cách gọi tên nhân vật theo sự
trưởng thành, phong chức tước của nhân vật. Hệ thống nhân vật trong TH thần
tiên cũng hội tụ các nhân vật quân, thần, cha con, hoàng hậu, hoàng phi, tướng
lĩnh của nhà Trần, tướng nhà Nguyên. Các nhân vật này đều có nhiệm vụ và
hành động khác nhau. Vì đây là tác phẩm Tuồng lịch sử thể hiện cuộc chiến
tranh chống Nguyên - Mông, cho nên có thể chia hệ thống nhân vật thành hai
tuyến nhân vật: chính diện (quân nhà Trần) và phản diện (quân Nguyên Mông).
16
3.3. Truy tìm nguồn gốc về tích Tuồng và cốt truyện “Trung hiếu thần tiên”
TH thần tiên cũng là tác phẩm Tuồng được Hoàng Cao Khải hun đúc từ
những tư liệu lịch sử và dân gian để miêu tả về người anh hùng Trần Hưng
Đạo. Hình tượng Trần Hưng Đạo ở đây được miêu tả là bậc thần tiên đầu thai
làm con Trần Liễu và Nguyệt phu nhân, có nhiệm vụ cứu dân thoát khỏi lầm than.
Thời gian của câu chuyện xoay quanh cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải dài từ lúc ra
đời, trưởng thành và lập nhiều chiến công trong cuộc chiến với quân Nguyên Mông, đến khi về nghỉ ở Vạn Kiếp. Vì thế tích truyện Tuồng này vừa phản ánh
chân thực con người Trần Hưng Đạo trong lịch sử và vừa cho thấy sự kỳ ảo trong
truyền thuyết dân gian về người anh hùng. Để tránh sự trùng lặp với “Bày diễn
tích” và nội dung trong Từ điển hát bội của Nguyễn Lộc (1998), ở đây nội dung cốt
truyện của tác phẩm được tóm tắt theo từng hồi Tuồng (25 hồi).
3.4. Tính chân thực và hư cấu trong tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên”
Hoàng Cao Khải đã kế thừa, phát huy phương pháp sáng tác của nghệ
thuật Tuồng truyền thống, đó là kết hợp giữa hoàn cảnh lịch sử cụ thể và truyền
thuyết dân gian về nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo hư cấu lên những tình tiết
mang tính hoang đường, huyền thoại, mang tính “kỳ”, để hình tượng hóa, lý
tưởng hóa, Thần Thánh hóa hình tượng người anh hùng dân tộc thành hình
tượng sân khấu. Kết cấu “trong hư có thực, trong thực có hư” trong TH thần
tiên chỉ đơn thuần là để cho sự thống nhất giữa tình tiết trong Tuồng và tính
cách nhân vật, nâng hình tượng lên thành nhân vật điển hình. Sự khác biệt giữa
hình tượng nhân vật lịch sử với nhân vật Tuồng Trần Hưng Đạo dường như đã
mở ra cự ly giữa nhân vật Tuồng và nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo. Sự trùng
khớp giữa họ thể hiện sự nỗ lực của tác giả truy cầu sự thống nhất giữa chân
thực lịch sử và sự chân thực nghệ thuật.
3.5. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm Trung hiếu thần tiên
3.5.1. Thể hiện tư tưởng “trung hiếu” trong “Trung hiếu thần tiên”
Chủ đề của TH thần tiên cũng nhất quán, tác giả đã lấy tư tưởng trung hiếu
để xây dựng hình tượng người anh hùng Trần Hưng Đạo. Tư tưởng này xuyên
suốt toàn tác phẩm và chi phối hành động của nhân vật chính Trần Hưng Đạo.
Các nhân vật khác đều có tư tưởng trung hiếu nhất quán và ở đây trung quân
chính là trung thành với nhà vua, vì thế bảo vệ vua chính là bảo vệ đất nước.
3.5.2. Thể hiện tư tưởng tam giáo trong “Trung hiếu thần tiên”
Tư tưởng trong TH thần tiên không đơn thuần là sự thể hiện trung hiếu
(Nho gia) mà có đan xen đến của Đạo giáo và Phật Giáo.
17
- Xem thêm -