Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ giữa cơ chế thị trường...

Tài liệu Nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ giữa cơ chế thị trường với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương đến năm 2020

.PDF
116
140
50

Mô tả:

BỘ CÔNG THƯƠNG ĐỀ TÀI KHOA HỌC NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG ĐẾN NĂM 2020 8716 Hà Nội, tháng 11 - 2010 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ VÀ VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.................................................................................... 5 I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ ........................ 5 1. Cơ sở lý luận về kế hoạch hoá............................................................. 5 2. Chức năng của kế hoạch hoá phát triển............................................. 7 2.1. Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô.................... 7 2.2. Chức năng định hướng phát triển.................................................. 7 2.3. Chức năng kiểm tra, giám sát ........................................................ 8 3. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo nội dung ...................................... 8 3.1. Chiến lược phát triển ..................................................................... 8 3.2. Quy hoạch phát triển.................................................................... 10 3.3. Kế hoạch phát triển...................................................................... 11 3.4. Các chương trình phát triển......................................................... 13 4. Kế hoạch hoá phân theo thời gian .................................................... 13 II. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH...................................................................................................... 15 1. Quản lý nhà nước và mối quan hệ với công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...... 15 2. Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta..................................................................................... 18 PHẦN THỨ HAI: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HOÁ, MỘT SỐ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ................................................................................ 26 I. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC............................................. 26 1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.............................................................. 26 1 2. Kinh nghiệm của Nhật Bản............................................................... 29 3. Kinh nghiệm của Malaysia................................................................ 31 4. Kinh nghiệm của Trung Quốc........................................................... 34 5. Kinh nghiệm của LB Nga .................................................................. 40 II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM .......................... 45 PHẦN THỨ BA: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY ............................................ 47 I. THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG ..................................... 47 1. Tình hình xây dựng và thực hiện quy hoạch ................................... 47 1.1. Xây dựng quy hoạch..................................................................... 47 1.2. Tình hình thực hiện quy hoạch..................................................... 48 2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch ....................................................... 49 2.1. Xây dựng kế hoạch ....................................................................... 49 2.2. Thực hiện kế hoạch ...................................................................... 49 II. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG.................... 49 1. Đối với công tác quy hoạch................................................................ 49 2. Đối với công tác kế hoạch.................................................................. 50 III. ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG 51 1. Đánh giá chung về tình hình xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch của ngành Công Thương ........................................................... 51 1.1. Những kết quả đạt được ............................................................... 51 1.2. Một số hạn chế trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch............. 51 1.3. Một số hạn chế trong công tác thực hiện quy hoạch, kế hoạch... 52 2. Đánh giá chung về công tác quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch ngành Công Thương ................................................. 53 2.1. Đối với công tác quy hoạch ......................................................... 53 2.2. Đối với công tác kế hoạch............................................................ 55 2 PHẦN THỨ TƯ: PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG TRONG CƠ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI ..... 58 I. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG TRONG CƠ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN .......................................................... 58 1. Bối cảnh quốc tế và trong nước......................................................... 58 1.1. Bối cảnh quốc tế........................................................................... 58 1.2. Bối cảnh trong nước..................................................................... 61 2. Phương hướng, mục tiêu nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .......................................... 61 2.1. Phương hướng.............................................................................. 61 2.2. Mục tiêu........................................................................................ 61 II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI....................................................................... 62 1. Xây dựng cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, kế hoạch ............ 62 2. Từng bước nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch..... 62 3. Tăng cường công tác giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch ...... 64 KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................... 65 I. KẾT LUẬN............................................................................................. 65 II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ......................................................................... 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67 PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ một trong bốn nhiệm vụ nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là: “Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước"1, trong đó: "Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tác của thị trường. Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế xã hội."2 Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế - xã hội và khả năng, sức mạnh của kinh tế Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp. Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, nó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; có tác dụng lớn trong quá trình chọn lọc các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, cơ chế thị trường kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển theo nhu cầu thực của xã hội và nền kinh tế... Về mặt tiêu cực, thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây ra những hậu quả xấu: môi trường bị hủy hoại, cạnh tranh chèn ép không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, tệ nạn xã hội gia tăng, tình 1 2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X - NXB Chính trị quốc gia - trang 78. Sđd - trang 78. 2 trạng kinh doanh bất hợp pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả... xuất hiện nhiều. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất, kinh doanh không làm những ngành nghề ít lợi nhuận. Để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý nền kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch định hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế... Cơ chế thị trường chịu sự tác động rất mạnh của các quy luật kinh tế thị trường, do đó sự can thiệp vĩ mô của nhà nước phải phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường. Như vậy, cùng với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch là những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng bền vững và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và ban hành cho đến khâu tổ chức và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch là những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Với tầm quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch, tại buổi làm việc với Lãnh đạo Bộ Công Thương3, Đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã yêu cầu Bộ Công Thương nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ giữa cơ chế thị trường với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực của quản lý nhà nước, cũng như chất lượng của công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương; biến quy hoạch, kế hoạch thành công cụ quản lý hữu hiệu, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, thực hiện được mục tiêu công bằng, dân chủ và văn minh trong hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước Có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của đề tài. Những nghiên cứu này khá công phu nhằm mục đích đổi mới công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào đi sâu đánh giá về vai trò quản lý nhà nước với công tác kế hoạch hoá của ngành Công Thương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đề án thực sự là cấp bách cần phải được thực hiện để vừa làm sáng tỏ quan điểm của Đảng vừa phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của ngành Công Thương. 3 Ngày 18 tháng 3 năm 2009. 3 3. Mục tiêu của đề tài Đề tài được thực hiện nhằm các mục tiêu sau: - Xác định được những vấn đề cơ bản về công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ giữa cơ chế thị trường và công tác quy hoạch, kế hoạch. - Tổng hợp kinh nghiệm của thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng vai trò quản lý nhà nước với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương. - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của quản lý của nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch trong nền kinh tế thị trường của ngành công thương đến năm 2020. 4. Đối tượng và phạm vi của đề tài - Đối tượng của Đề tài: Những vấn đề thực tiễn và giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế hoạch hoá của ngành công thương trong nền kinh tế thị trường. - Phạm vi của Đề tài: Về nội dung, Đề tài sẽ đi sâu phân tích thực trạng vai trò quản lý nhà nước đối với công tác kế hoạch hoá của ngành công thương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời gian qua, giới hạn phân tích gồm: công tác chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của ngành công thương; công tác chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của một số lĩnh vực chủ yếu ngành công thương - Phạm vi thời gian: Đánh giá hiện trạng từ năm 2001 đến nay và đề xuất giải pháp cho thời gian tới. - Phạm vi không gian: Tập trung phân tích vai trò quản lý nhà nước với công tác kế hoạch hoá của ngành công thương thông qua một số quy hoạch công nghiệp, thương mại theo ngành, vùng lãnh thổ, kế hoạch 5 năm 2001 2005 và 2006 - 2010… 5. Phương pháp thực hiện đề tài Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu theo các phương pháp sau: 4 - Phương pháp tổng hợp (tham khảo, phân tích, tổng hợp, kế thừa những kết quả đã có). - Phương pháp điều tra. - Phương pháp chuyên gia. - Phương pháp xử lý thống kê, dự báo... 6. Nội dung của Đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, nội dung của Đề tài gồm 4 phần: Phần thứ nhất: Những vấn đề cơ bản về công tác kế hoạch hoá và vai trò quản lý của nhà nước với công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần thứ hai: Kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoá. Một số bài học cho Việt Nam. Phần thứ ba: Thực trạng vai trò quản lý nhà nước với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành Công Thương từ năm 2001 đến nay. Phần thứ tư: Phương hướng, mục tiêu nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành Công Thương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và các giải pháp nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch của nước ta trong thời gian tới. Trong quá trình thực hiện Đề tài, chúng tôi đã nhận được sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả của các đơn vị và cá nhân trong và ngoài Bộ, đặc biệt là sự hỗ trợ của Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc và Hàn Quốc. Xin chân thành cảm ơn! BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI 5 PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ VÀ VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ 1. Cơ sở lý luận về kế hoạch hoá Kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những giải pháp chính sách, những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu quả cao nhất. Kế hoạch hoá không chỉ là lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Lập kế hoạch là lựa chọn một trong những phương án hoạt động cho tương lai của toàn bộ hay từng bộ phận của nền kinh tế. Còn tổ chức theo dõi và thực hiện được thể hiện bằng hệ thống các chính sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch xem như là những cam kết của chính phủ đối với hệ thống kinh tế. Xét về bản chất, kế hoạch hoá là sự tác động có ý thức của chính phủ nhằm định hướng và điều khiển sự biến đổi của những biến số kinh tế chính (tiêu thụ, đầu tư, tiết kiệm, xuất nhập khẩu...) của một nước hay một khu vực nào đó để đạt được mục tiêu đã định trước. Như vậy, bản chất của kế hoạch hoá trước hết được mô tả như là một loạt các mục tiêu kinh tế - xã hội định hướng cụ thể phải đạt được trong khoảng thời gian đã định sẵn. Một kế hoạch toàn diện đặt ra những mục tiêu bao hàm tất cả mọi mặt trong nền kinh tế quốc dân. Một kế hoạch từng phần sẽ đề cập đến một phần của nền kinh tế. Kế tiếp, bản chất của kế hoạch hoá được đúc kết lại, đó là sự tác động, hướng dẫn và điều khiển của chính phủ. Kế hoạch hoá đứng về mặt bản chất là giống nhau đối với mọi nền kinh tế, nhưng nội dung và hình thức biểu hiện là khác nhau trong các phương thức sản xuất khác nhau. Cần phân biệt hai loại hình kế hoạch hoá sau đây: 6 - Thứ nhất, kế hoạch hoá tập trung: đây là kế hoạch tập trung phân phối nguồn lực bằng hệ thống các mệnh lệnh chủ quan của các cấp lãnh đạo, nó thể hiện ở tính chất pháp lệnh, tính chất hiện vật và tính chất cấp phát giao nộp trong hệ thống chỉ tiêu và chỉ đạo công tác kế hoạch. - Thứ hai, kế hoạch phát triển: đây là sự tác động của chính phủ vào nền kinh tế vĩ mô thông qua việc thiết lập một cách chủ động mối quan hệ khả năng với các mục đích nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra bằng việc sử dụng hiểu quả nguồn tiềm năng hiện có. Kế hoạch phát triển được xem là công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động hợp lý và tối ưu. Trong đó chủ yếu là: + Lựa chọn, sắp xếp, sử dụng nguồn lực khan hiếm. + Đưa ra các định hướng phát triển. + Xác định các cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô. Một kế hoạch như trên phải là kế hoạch ở tầm vĩ mô, một kế hoạch hướng dẫn và kế hoạch dưới dạng các chính sách và phải được tiếp cận theo hình thức từ trên xuống. Sự khác nhau cơ bản giữa kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch hoá phát triển thể hiện: Một bên là tính cưỡng chế còn bên kia là tính thuyết phục. Trong khi mục tiêu của kế hoạch hoá phát triển chỉ là cố gắng ngăn chặn để cho nền kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn định bằng những công cụ chính sách năng động và gián tiếp thì kế hoạch hoá tập trung không chỉ tạo ra một loạt các mục tiêu cụ thể thể hiện quá trình phát triển kinh tế mong muốn mà còn có cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp những hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế hoạch phát triển. Tuy vậy, xuất phát từ tính chất quá độ của một nền kinh tế hỗn hợp nên trong nội dung của hệ thống kế hoạch hoá phát triển ở nước ta vẫn còn bao hàm một dung lượng nhất định của kế hoạch hoá tập trung. Trên một mức độ nhất định tính chất pháp lệnh, tính chất phân bổ trực tiếp, khống chế cụ thể vẫn tồn tại. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, dung lượng các vấn đề trên sẽ giảm dần trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam. Đó cũng là những yêu cầu đổi mới của công tác kế hoạch hoá. 7 2. Chức năng của kế hoạch hoá phát triển Kế hoạch hoá phát triển là kế hoạch ở tầm vĩ mô, kế hoạch mang tính hướng dẫn và kế hoạch thể hiện dưới dạng các chính sách phát triển. Một kế hoạch như vậy sẽ phải thực hiện được các chức năng cơ bản như sau: 2.1. Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô Trên phương diện vĩ mô, hoạt động kế hoạch hoá phải hướng tới các mục tiêu chính luôn được tính tới là: ổn định giá, bảo đảm công ăn việc làm, tăng trưởng và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau. Sự thiên lệch hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu nào sẽ ảnh hưởng xấu đến việc đạt được mục tiêu khác và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể nền kinh tế. Vì vậy, chức năng này của kế hoạch hoá thể hiện ở: - Hoạch định kế hoạch chung tổng thể của nền kinh tế, đưa ra và thực thi các chính sách cần thiết bảo đảm các cân đối kinh tế nhằm sử dụng tổng hợp nguồn lức, phát huy hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng nhanh theo phương thức thống nhất, bảo đảm tính chất xã hội của các hoạt động kinh tế. - Bảo đảm môi trường kinh tế ổn định và cân đối. Tạo những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội, bảo vệ môi trường, tạo tiền đề và hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế lành mạnh. - Bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng, các tầng lớp dân cư bằng kế hoạch sử dụng ngân sách và các chính sách điều tiết. - Kế hoạch hoá còn thể hiện chức năng điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày càng tăng. Để thực hiện chức năng này kế hoạch hoá phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng “đi tắt đòn đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến khác. 2.2. Chức năng định hướng phát triển Đây có thể nói là chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã làm cho công tác kế hoạch hoá không bị lu mờ trong cơ chế thị trường. Chức năng này thể hiện ở: 8 - Công tác kế hoạch hoá phải xây dựng được các chiến lược, quy hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như quy hoạch phát triển theo ngành, vùng lãnh thổ, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn. Kế hoạch đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển vĩ mô về kinh tế - xã hội, xây dựng các dự án, các chương trình, tìm các giải pháp và các phương án thựchiện, dự báo khả năng, phương hướng phát triển, xác định các cân đối lớn... nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt, định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. - Chức năng định hướng còn thể hiện ở việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức “giao - nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước sang cơ chế kế hoạch hoá gián tiếp, định hướng phát triển. Các chỉ tiêu mà nhà nước cần giám sát và quản lý chủ yếu là những chỉ tiêu giá trị ở tầm vĩ mô và tất nhiên nó mang tính chất tham khảo, không cứng nhắc và không mang tính áp đặt. Hiện nay, ở Việt Nam, Quốc hội chỉ thông qua các chỉ tiêu cơ bản như: tốc độ tăng GDP, tổng thu - chi ngân sách, tổng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách, mức độ chi ngân sách và mức lạm phát cao nhất. 2.3. Chức năng kiểm tra, giám sát Nội dung chủ yếu của chức năng này bao gồm việc chính phủ, thông qua các cơ quan chức năng, thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện các tiến độ kế hoạch, thực hiện và tuân thủ các cơ chế, thể chế, chính sách hiện hành áp dụng trong thời kỳ dài; đánh giá kết quả của việc thực hiện các chính sách, các mục tiêu đạt ra; phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch của các thời kỳ tiếp theo. 3. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo nội dung Quá trình kế hoạch hoá, nếu phân chia theo góc độ nội dung, thì đó là một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với nhau của các bộ phận cấu thành bao gồm: các chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển và các chương trình, dự án phát triển. 3.1. Chiến lược phát triển Về cơ bản, chiến lược phát triển là một hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về các quan điểm, các mục tiêu tổng quát định hướng phát triển 9 các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp chủ yếu trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu và cơ chế vận hành hệ thống kinh tế - xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài. Như vậy, mục tiêu xây dựng các chiến lược phát triển là đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhất định và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển đó. Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu bức thiết đặt ra và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc gia trong nên kinh tế thị trường với không gian kinh tế được mở rộng đến mức không có phân biệt biên giới: - Thứ nhất, xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp các nhà lãnh đạo phải xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào đạt tới một điểm cụ thể nhất định. - Thứ hai, trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở, điều kiện môi trường mà các quốc gia phải luôn biến đổi nhanh chóng, những biến đổi nhanh chóng thường tạo ra các cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Phương thức quản lý bằng chiến lược giúp các nhà quản lý nhằm vào các cơ hội trong tương lai. Tận dụng các cơ hội đó và giảm bớt các nguy cơ liên quan đến kiều kiện môi trường. - Thứ ba, có xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển, các nhà lãnh đạo và nhà quản lý sẽ đưa ra được các quyết định tác nghiệp phù hợp. Chức năng chủ yếu của chiến lược là định hướng, là vạch ra các đường nét chủ yếu cho sự phát triển của đất nước trong thời gian dài. Vì vậy, chiến lược sẽ mang tính chất định tính là chủ yếu (như các quan điểm, phương hướng, chính sách...). Tuy vậy, chiến lược cũng phải có tính định lượng ở một mức độ cần thiết. Để định hướng, chiến lược cần phải làm tốt cả mặt định tính cũng như định lượng, tức là có cả các tính toán, các dự báo, các luận chứng cụ thể. Trên thế giới, nhiều nước đã đưa ra các chiến lược phát triển dài hạn theo quan niệm về một chiến lược định hướng, chiến lược “mềm” (linh hoạt) có thể hiệu chỉnh trong từng bước thực hiện cho phù hợp với những biến đổi của đất nước và hoàn cảnh quốc tế. Về tầm thời gian của chiến lược, các nước lựa chọn trong khoảng từ 10 đến 20 - 25 năm. Thông thường là xây dựng chiến lược cho 10 năm nhưng cũng cần phải có các chiến lược “dài hơi” hơn để thuận lợi cho việc bố trí 10 chiến lược 10 năm. Các chiến lược 20, 25 năm còn gọi là “tầm nhìn”. Tầm nhìn có nội dung tổng quát hơn, mềm hơn, định tính hơn so với chiến lược. Điều quan trọng là phải thống nhất “tầm nhìn” và chiến lược sao cho những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề cho bước đi sau và có khả năng để hiệu chỉnh. 3.2. Quy hoạch phát triển Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn kế hoạch hoá. Nếu chiến lược phát triển là vạch ra đường nét hướng đạo cho sự phát triển trong một thời gian dài thì quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững. Quy hoạch trước hết là sự thể hiện của chiến lược trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch cụ thể hoá chiến lược cả về mục tiêu và các giải pháp. Nếu không có quy hoạch sẽ lúng túng, lộn xộn, đổ vỡ trong phát triển. Quy hoạch để định hướng, dẫn dắt, hiệu chỉnh (trong đó có cả điều chỉnh) thị trường. Mặt khác, quy hoạch còn có chức năng là cầu nối giữa chiến lược và kế hoạch và quản lý thực hiện chiến lược, cung cấp các căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Quy hoạch phát triển bao gồm: Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng lãnh thổ. Quy hoạch tổng thể là xác định và lựa chọn mục tiêu cuối cùng và những giải pháp để thực hiện mục tiêu. Quy hoạch cũng như chiến lược, xét cho cùng vẫn là định hướng. Tuy vậy, một trong những khâu quan trọng nhất của quy hoạch là luận chứng về tính tất yếu, hợp lý cho sự phát triển và tổ chức không gian kinh tế - xã hội dài hạn dựa trên sự bố trí hợp lý bền vững kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Đó chính là “bộ xương” của quy hoạch. Như vậy, bản chất của quy hoạch và chiến lược là giống nhau nhưng quy hoạch cụ thể hơn chiến lược. Xây dựng quy hoạch trước hết là thể hiện tư duy, quan điểm ý tưởng đúng, nó thể hiện tầm nhìn, nhận thức, kiến thức và 11 phương pháp đúng đắn. Trong xây dựng quy hoạch, mặt khác, phải đi vào luận chứng ở mức cần thiết từ khâu điều tra, phân tích đến tính toán, so sánh, chứng minh các phương án, các giải pháp, xem xét mọi yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng... đi từ tổng quát đến cụ thể và ngược lại, cần chú ý sự phù hợp cả không gian lãnh thổ và thời gian cụ thể. 3.3. Kế hoạch phát triển Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kỳ bằng hệ thống các chỉ tiêu mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. So với chiến lược phát triển, kế hoạch có những vấn đề cơ bản khác biệt: - Thứ nhất, về thời gian của kế hoạch thường được chia ngắn hơn, nó bao gồm kế hoạch 10 năm, 5 năm và kế hoạch năm. Những kế hoạch 10 năm thì thường được gọi là “chiến lược”. Như vậy, có thể nói tính phân đoạn là đặc trưng cơ bản của kế hoạch. - Thứ hai, kế hoạch và chiến lược đều bao gồm cả mặt định tính và định lượng, tuy vậy mặt định lượng là đặc trưng cơ bản hơn của kế hoạch. Quản lý bằng kế hoạch mang tính cụ thể hơn, chi tiết hơn và nó dựa trên các dự báo mang tính chất ổn định hơn. Như vậy, tính năng động, nhạy bén và “mềm” của kế hoạch thấp hơn chiến lược. - Thứ ba, mục tiêu của chiến lược chủ yếu là vạch ra các đường hướng phát triển chủ yếu, tức là nó thể hiện những cái đích cần phải đạt tới trong khi đó mục tiêu của kế hoạch là phải thể hiện ở tính kết quả. Vì vậy, các mục tiêu, các chỉ tiêu của kế hoạch chi tiết hơn, đầy đủ hơn và trên một mức độ nào đó ở các nước có nền kinh tế hỗn hợp thì nó còn thể hiện một tính pháp lệnh nhất định. Một nội dung quan trọng của kế hoạch là xây dựng hệ thống các chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được của thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình 12 phát triển kinh tế - xã hội, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch: - Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu kế hoạch quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển kinh tế đất nước, các dự báo kinh tế - xã hội, các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, nguồn ngân sách của chính phủ. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố bao gồm các chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển của các vùng và ngân sách địa phương. Hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành như: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông... - Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu... Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề như: xóa đói, giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế, giáo dục... - Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống kế hoạch có các chỉ tiêu pháp lệnh, các chỉ tiêu hướng dẫn và các chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh được chính phủ và quốc hội phê duyệt và trở thành bắt buộc phải hoàn thành trong thời kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu hướng dẫn thường mang tính định hướng hoạt động của các ngành, địa phương, các đơn vị kinh tế và dùng để phân tích, so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối tượng kế hoạch. - Theo phạm vi đơn vị đo lường, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của sản xuất được đo lường bằng các đơn vị đo hiện vật như: cái, trọng lượng, kích thước, dung tích...; chỉ tiêu giá trị đo lường các nhiệm vụ, mục tiêu và quy mô phát triển của nền kinh tế dưới hình thái tiền tệ nó được sử dụng để hình thành các cân đối vĩ mô, các còn số phản ánh tổng hợp nội dung phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hướng phát triển của các ngành vùng... Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn được chia thành chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối; chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng. Tất cả các chỉ tiêu đều góp phần tăng cường tính định lượng trong kế hoạch hoá phát triển. Tuy vậy, để thích ứng với các điều kiện thường xuyên biến đổi của kinh tế thị trường và theo yêu cầu phát triển ngày càng cao 13 của đời sống, xã hội, các kế hoạch phát triển hiện nay đặt tọng tâm vào các chỉ tiêu xã hội, các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu mang tính hướng dẫn và dự báo. 3.4. Các chương trình phát triển Kế hoạch hoá và quản lý theo các chương trình phát triển là việc đưa ra các chương trình mục tiêu để xử lý những vấn đề nổi cộm về kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa đặc biệt lại vừa mang tính nghệ thuật cao. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ nó vừa khắc hẳn với các phương pháp khác về cơ chế, chính sách, cách điều hành, kiểm tra, đánh giá kết quả, đối tượng hưởng thụ... Còn tính nghệ thuật là phải làm sao chọn đúng đối tượng các vấn đề cần thiết xử lý bằng các chương trình. Tính nghệ thuật này còn thể hiện trong khả năng “lồng ghép” các chương trình trong tổ chức chỉ đạo. Chức năng chủ yếu của các chương trình phát triển là cụ thể hoá, đưa nhiệm vụ của kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Có thể gọi đây là một phương pháp tiến hành của kế hoạch và một chức năng nữa đó là một phương pháp để xử lý các vấn đề gay cấn nhất về kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các vấn đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia là các vấn đề nổi cộm, bức xúc cần xử lý riêng, các đột phá khẩu, các mắt xích, các khâu trọng yếu của nền kinh tế.. Hiện nay, theo xu hướng đổi mới kế hoạch hoá, các chương trình, dự án phát triển được xem như là cơ sở để thực hiện phân bổ nguồn lực như: vốn, đầu tư, ngân sách... thay cho hình thức phân bổ theo đối tượng như trước kia. Thực hiện kế hoạch hoá theo chương trình quốc gia là biện pháp để khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường, tạo sự ổn định về chính trị - xã hội cho kinh tế tăng trưởng một cách bền vững. 4. Kế hoạch hoá phân theo thời gian Nếu phân chia theo thời gian, mỗi nước lại có một hệ thống kế hoạch hoá khác nhau. Ví dụ, ở Pháp hình thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, ở Đức thường xây dựng hệ thống kế hoạch trung hạn (5 năm) và ngắn hạn (1 năm), ở Malaysia lại có tới 4 mức: kế hoạch viễn cảnh (15, 20 năm), kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung hạn 3 năm và kế hoạch năm. Ở Việt Nam và phần lớn các nước đang phát triển khác xây dựng 3 mốc thời gian kế 14 hoạch là kế hoạch dài hạn (10 năm, 20 năm); kế hoạch trung hạn và kế hoạch năm. Tuy vậy, kế hoạch dài hạn (từ 10 năm trở lên) gọi là chiến lược phát triển mang một số sắc thái riêng. Tại báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 - 2010 đã đề ra các giải pháp thực hiện, trong đó có giải pháp đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch, coi quy hoạch, kế hoạch thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả của nhà nước, như vậy kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống hoá phát triển trong một giai đoạn. Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan Chính phủ, là thời hạn mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 hoặc một vài năm sau. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi hơn những kế hoạch có thời gian dài hạn. Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng, kinh tế nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của quốc gia. Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách định hướng và kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt, nếu thực hiện kế hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một phần của kế hoạch định hướng 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế hoạch năm là cụ thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ yếu được quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong những nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trước. Bên cạnh đó, kế hoạch hàng năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung. 15 II. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH 1. Quản lý nhà nước và mối quan hệ với công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội. Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác. 16 Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường. Như trên đã phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của nền kinh tế. Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy: một trong những nội dung quan trọng mà các nhà kinh tế bàn đến là vai trò của nhân tố thị trường và nhân tố nhà nước trong điều hành quản lý nền kinh tế. Bởi lẽ, vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua, không những ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn. Đối với một nền kinh tế đặc thù như nước ta: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. Chẳng hạn: - Thứ nhất, sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. - Thứ hai, với chức năng quản lý kinh tế của nhà nước thì kế hoạch hóa được sử dụng như là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng XHCN. Ngày nay, kế hoạch hóa (KHH) được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của nhà nước vào nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Bản chất, nội dung của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT). Quan niệm về nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN khác hẳn trong nền kinh tế tập trung - bao cấp. Nếu trước đây nhà nước là cho phép và quyết định (theo cơ chế xin - cho), thì ngày nay là nhà nước tạo khuôn khổ pháp luật để mọi công dân tự do kinh doanh theo pháp luật và hỗ trợ giúp đỡ,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất