Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên jufo khiếm thị sau 1 năm tập luy...

Tài liệu Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên jufo khiếm thị sau 1 năm tập luyện

.PDF
73
50
93

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO & DU LỊCH BÁO CÁO GIÁM ĐỊNH GIAI ĐOẠN I NGHIÊN CỨU TRÌNH ĐỘ TẬP LUYỆN CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN JUDO KHIẾM THỊ SAU 1 NĂM TẬP LUYỆN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: LÝ ĐẠI NGHĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 9 / 2008 MỤC LỤC 1 1.1. 1.2. 1.3. 1.4. 1.4.1. 1.4.2 1.5. 1.5.1. 1.5.2. 1.5.3. 1.6. 2 2.1. 2.1.1 2.1.2 2.1.3 2.1.4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Tên đề tài: Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị sau 1 năm tập luyện Chủ nhiệm đề tài: Lý Đại Nghĩa Cơ quan chủ trì: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thời gian thực hiện: từ tháng 11/2007 - 11/2008 Kinh phí được duyệt: 183.000.000đ Kinh phí đã cấp: 120.000.000đ theo TB số: 191/TBSKHCN ngày 29/10/2007 Mục tiêu nghiên cứu Nội dung nghiên cứu Nội dung đã thực hiện giai đoạn 1 Nội dung còn lại Bảng quyết toán giai đoạn 1 Bảng dự trù kinh phí giai đoạn II Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Tính cấp thiết và mục tiêu của đề tài Khái niệm về trình độ tập luyện Tổng quan về thể thao khuyết tật Đặc điểm môn Judo Khái lược lịch sử môn Judo Đặc điểm thể lực môn Judo Đặc điểm huấn luyện vận động cho người khiếm thị và ứng dụng trong huấn luyện Judo Đặc điểm, nhận thức của người khiếm thị và phương pháp giáo dục người khiếm thị Hệ thống kỹ thuật Judo và luật thi đấu cho người khiếm thị Đặc điểm huấn luyện Judo cho người khiếm thị Khái lược các công trình nghiên cứu về trình độ tập luyện môn Judo và các nghiên cứu liên quan về Judo người khiếm thị Phương pháp và tổ chức nghiên cứu Phương pháp Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu có liên quan Phương pháp phỏng vấn chuyên gia Phương pháp kiểm tra sư phạm Phương pháp nhân trắc II Trang II IV IV IV V V VI VI 7 7 9 16 18 18 19 23 23 27 33 41 45 45 45 45 46 49 2.1.5. 2.1.6. 2.1.7 2.1.8 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 3 3.1. Phương pháp y sinh học Phương pháp kiểm tra tâm lý Phương pháp thực nghiệm sư phạm Phương pháp toán thống kê Tổ chức nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Thời gian nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Xác định các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện của VĐV Judo khiếm thị 3.1.1. Nghiên cứu các tài liệu tham khảo, tổng hợp và phân tích các test đặc trưng đánh giá trình độ VĐV Judo 3.1.2. Phỏng vấn các nhà chuyên môn về các chỉ tiêu thường dùng trong thực tiễn 3.1.3. Kiểm nghiệm độ tin cậy các chỉ tiêu được chọn 3.2. Đánh giá hiện trạng trình độ tập luyện của VĐV Judo khiếm thị qua các giai đoạn tập luyện TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1. Kế hoạch huấn luyện năm. 2. KHHL Triệu Thị Nhỏi tham dự Paralympic Bắc Kinh 3. Biên bản Wingate Test 4. Biên bản Astrand-Ryhming Test 5. Biên bản kết quả Inbody 720 6. Bộ phiếu hỏi khảo sát tâm lý trực tuyến (Bảng gốc tiếng Anh, bản dịch tiếng Việt và thang điểm đánh giá). 7. Kết quả thi đấu năm 2008 của đối tượng thực nghiệm. III 49 51 53 53 53 53 53 53 54 54 54 56 58 59 BÁO CÁO GIÁM ĐỊNH GIAI ĐOẠN I Tên đề tài: Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị sau 1 năm tập luyện Chủ nhiệm đề tài: Lý Đại Nghĩa Cơ quan chủ trì: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 11/2007 - 11/2008 Kinh phí được duyệt: 183.000.000đ Kinh phí đã cấp: 120.000.000đ theo TB số: 191/TB-SKHCN ngày 29/10/2007 Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích, tổng hợp lý luận và thực tiễn, đề tài bước đầu nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện (về hình thái, kỹ thuật, thể lực, y sinh học và tâm lý), từ đó đánh giá hiệu quả kế hoạch huấn luyện vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình mục tiêu Para Games tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung: 1. Nghiên cứu thực trạng về trình độ tập luyện của các vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình mục tiêu Para Games 2007 – 2009. 2. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện về hình thái, thể lực, kỹ thuật, y sinh học và tâm lý của vận động viên Judo khiếm thị. 3. Biên soạn chương trình huấn luyện năm. 4. Ứng dụng các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển về trình độ tập luyện của các vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình mục tiêu Para Games 2007 – 2009 sau 1 năm tập luyện. IV Những nội dung thực hiện ở giai đoạn 1: Công việc dự kiến Công việc đã thực hiện Báo cáo tổng quan vấn đề nghiên cứu (trình độ tập luyện, khoa học Judo và huấn luyện vận động cho người khiếm thị). Xây dựng phiếu phỏng vấn các chỉ Bộ phiếu phỏng vấn các chỉ tiêu tiêu đánh giá trình độ tập luyện VĐV đánh giá trình độ tập luyện VĐV Judo khiếm thị Judo khiếm thị Tổng hợp và phân tích tài liệu Phỏng vấn chuyên gia và thu thập, Kết quả phỏng vấn chuyên gia và thu xử lý số liệu thập, xử lý số liệu Re-test kiểm tra độ tin cậy Kết quả Re-test Xây dựng chương trình huấn luyện Thực nghiệm chương trình huấn năm luyện năm Sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đánh Số liệu đánh giá trình độ tập luyện giá trình độ tập luyện VÐV Judo VÐV Judo khiếm thị: khiếm thị: - Thời kỳ chuẩn bị - Thời kỳ chuẩn bị - Thời kỳ thi đấu - Thời kỳ thi đấu Những nội dung còn lại: - Sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện VÐV Judo khiếm thị thời kỳ chuyển tiếp. - Lập thang điểm đánh giá trình độ tập luyện VĐV ở mỗi giai đoạn huấn luyện. - Xử lý số liệu, luận bàn và kết luận. V QUYẾT TOÁN KINH PHÍ Đề tài: Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị sau 1 năm tập luyện Chủ nhiệm: Lý Đại Nghĩa Cơ quan chủ trì: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thời gian đăng ký trong hợp đồng: tháng 11/2007 - tháng 11/2008 Thời gian thực hiện giai đoạn 1: tháng 11/2007 - tháng 9/2008 Tổng kinh phí được duyệt: 183.000.000đ Kinh phí cấp giai đoạn 1: 120.000.000đ (Theo TB số: 191/TB-SKHCN ngày 29/10/2007) Nguồn vốn TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Theo dự trù Nội dung lao động Thuê khoán lao động khoa học Thuê khoán lao động phổ thông Mua võ phục Tiền nước uống tập luyện Mua sách, tài liệu Tiền xe vận chuyển lắp đặt thiết bị Khoản chi công tác trong nước (3 đợt công tác Trường Đại học TDTT) Phí cơ quan chủ trì Chi phí xét duyệt đề tài Photo, in ấn tài liệu Dịch tài liệu Văn phòng phầm Chụp ảnh Phụ cấp chủ nhiệm Tổng cộng Thực chi Từ nguồn ngân sách 33.100 21.200 4.600 7.200 2.000 4.000 6.000 33.100 21.200 4.600 7.200 2.000 4.000 6.000 33.100 21.200 4.600 7.200 2.000 4.000 6.000 15.000 15.000 15.000 2.000 4.000 2.000 750 12.000 113.850 2.000 4.000 2.000 750 12.000 113.850 2.000 4.000 2.000 750 12.000 113.850 DỰ TRÙ KINH PHÍ GIAI ĐOẠN II TT 1 2 3 4 5 Nội dung Kinh phí Hội nghị, hội thảo chuyên đề Báo cáo khoa học tổng kết đề tài Tổng chi phí xét duyệt, giám định, nghiệm thu Quản lý phí Thanh toán tiền thuê dụng cụ Tổng cộng VI Trong đó Ngân sách Nguồn khác 7.200 7.200 12.000 12.000 20.850 20.850 3.000 30.100 69.150 3.000 30.100 69.150 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu: 1.1. Tính cấp thiết và mục tiêu của đề tài: Các quốc gia trên thế giới đã sớm quan tâm đến các hoạt động thể dục thể thao cho người khuyết tật. Các tổ chức quốc tế, châu lục về thể thao cho người khuyết tật đã được thành lập với nhiệm vụ hướng dẫn, phát triển phong trào tập luyện thể thao cho người khuyết tật, tổ chức các giải thể thao người khuyết tật cấp khu vực, châu lục và thế giới. Thế vận hội thể thao người khuyết tật (Paralympic), Đại hội thể thao người khuyết tật Châu Á - Thái Bình Dương (FESPIC Games), Đại hội thể thao người khuyết tật Đông Nam Á (Para Games)... là những đấu trường đỉnh cao của VĐV khuyết tật, là nơi họ có thể tham gia tranh tài, thể hiện giá trị và sức sống mãnh liệt của người khuyết tật. Tại Việt Nam, phong trào thể thao người khuyết tật phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu thiên niên kỷ mới, nhiều thanh thiếu niên khuyết tật tham gia tập luyện các môn Điền kinh, Bơi lội, Đua xe lăn, Cử tạ, Bơi lội, Bóng đá, Cờ..., trong số đó có những vận động viên đã thi đấu đạt thành tích cao tại FESPIC Games, Para Games. Phong trào người khiếm thị tập luyện Judo hình thành và phát triển đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2004. Đến nay, phong trào đã phát triển mạnh mẽ thu hút nhiều người khiếm thị tham gia tập luyện ở các cơ sở: Hội người mù Thành phố, Trường Phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu, Trung tâm nuôi hướng nghiệp và nuôi dạy trẻ khiếm thị Bừng Sáng, Mái ấm trẻ khiếm thị Thiên Ân, Mái ấm trẻ khiếm thị Nhật Hồng, Trung tâm giáo dục hướng nghiệp cho người khiếm thị - Chùa Kỳ Quang II. Một số tỉnh bạn cũng từng bước xây dựng phong trào tập luyện Judo cho người khiếm thị như: Đồng Nai, Cần Thơ, Hà Nội... Năm 2005, Hội Võ thuật người khiếm thị Thành phố được thành lập với nhiệm vụ xây dựng, hỗ trợ phát triển phong trào, tổ chức các cuộc thi đấu thể thao đặc thù cho người VII khiếm thị. Từ đó, hàng năm đã có các cuộc thi đấu đặc thù cho người khiếm thị như: Hội thao người khiếm thị, Giải Vô địch Judo cá nhân và đồng đội người khiếm thị, Giải Judo trẻ người khiếm thị. Đây là vận hội để các vận động viên Judo khiếm thị tranh tài sau một thời gian tập luyện và cũng là cơ sở để phát hiện những vận động viên Judo có năng khiếu để huấn luyện nâng cao tham dự các giải quốc tế. Năm 2006, lần đầu tiên Judo khiếm thị nước ta tham dự thi đấu chính thức tại FESPIC Games với thành phần gồm 1 HLV và 2 VĐV, kết quả đạt 1 huy chương bạc (VĐV Triệu Thị Nhỏi, 52kg) và 1 hạng tư (VĐV Trần Việt Hùng, 60kg). Với thành tích ban đầu đó, năm 2007 Hội Võ thuật người khiếm thị Thành phố với vai trò là một trung tâm đào tạo VĐV Judo khiếm thị của cả nước đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu "Đào tạo VĐV Judo khiếm thị hướng đến Para Games giai đoạn 2007 - 2009", mục tiêu của chương trình này là đạt 2 - 3 huy chương vàng tại Para Games 2009. Với sự phát triển của phong trào Judo khiếm thị hiện nay và định hướng phát triển thành tích quốc tế ở những năm tiếp theo của Judo khiếm thị Việt Nam. Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác đào tạo chuyên biệt cho vận động viên Judo khiếm thị là rất cần thiết. Do đó, chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị sau 1 năm tập luyện", đề tài nghiên cứu toàn diện về trình độ tập luyện (hình thái, chức năng, tâm lý, tố chất, kỹ chiến thuật) đặc trưng của vận động viên Judo khiếm thị được thực hiện như một tất yếu phù hợp với định hướng phát triển của phong trào Judo khiếm thị hiện nay. Có thể nói, đây là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện về trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện chuyên biệt phù hợp với đặc điểm người khiếm thị trong môn Judo. Về thực tiễn, kết quả của đề tài sẽ đánh giá thực trạng trình độ tập luyện của vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình đào tạo mục VIII tiêu Para Games giai đoạn 2007 – 2009, từ đó giúp điều chỉnh kế hoạch huấn luyện, nâng cao thành tích cho vận động viên. Bên cạnh đó, hệ thống chỉ tiêu được nghiên cứu còn có thể áp dụng rộng rãi để đánh giá trình độ tập luyện của tất cả người khiếm thị đang tham gia tập luyện Judo. Mục tiêu của đề tài: Trên cơ sở phân tích, tổng hợp lý luận và thực tiễn, đề tài bước đầu nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện (về hình thái, kỹ thuật, thể lực, y sinh học và tâm lý), từ đó đánh giá hiệu quả kế hoạch huấn luyện vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình mục tiêu Para Games giai đoạn 2007 - 2009 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, chúng tôi thực hiện 4 nội dung nghiên cứu sau: - Nghiên cứu thực trạng về trình độ tập luyện của các vận động viên Judo khiếm thị thuộc chương trình mục tiêu Para Games. - Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện về hình thái, thể lực, kỹ thuật, y sinh học và tâm lý của vận động viên Judo khiếm thị. - Biên soạn chương trình huấn luyện năm. - Ứng dụng các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển về trình độ tập luyện của các vận động viên Judo khiếm thị sau 1 năm tập luyện. 1.2. Khái niệm về trình độ tập luyện: Trong huấn luyện thể thao, việc đánh giá trình độ tập luyện của VĐV theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lý luận. Đối với VĐV cấp cao, việc đánh giá trình độ tập luyện thường gắn với trạng thái sung sức trong các chu kỳ huấn luyện và thành tích thi đấu, điều này giúp cho các HLV có những thông tin để đánh giá IX hiệu quả của mỗi giai đoạn huấn luyện, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương pháp huấn luyện trong chu kỳ huấn luyện tiếp theo. Đối với VĐV trẻ thì việc đánh giá trình độ tập luyện chủ yếu nhằm mục đích xác định khả năng tiềm tàng, trên cơ sở đó đưa ra dự báo về triển vọng của VĐV (Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, 2000). Trình độ tập luyện đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu và đưa công bố các khái niệm như sau: - Theo tự điển TDTT Trung Quốc (1991): trình độ tập luyện là mức đo khả năng thích nghi của cơ thể VĐV đối với vận động. Do ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện, tính thích nghi về mặt sinh học của cơ thể cũng thay đổi, tức là nâng cao năng lực hoạt động chức năng của các tổ chức, cơ quan, hệ thống và năng lực tiềm tàng của VĐV, cải thiện năng lực điều tiết của hệ thống thần kinh trung ương đối với chức năng của các tổ chức, cơ quan. Trong hoạt động TDTT được biểu hiện ở mức độ phát triển tổng hợp về các mặt tố chất thể lực, kỹ thuật chiến thuật môn chính, trí tuệ và tố chất tâm lý. Trình độ tập luyện càng cao thì năng lực thể thao càng mạnh, thành tích thể thao càng tốt. Khi đánh giá trình độ tập luyện của VĐV cần tổ chức kiểm tra chuyên môn và đánh giá theo các số liệu đã đo đạc được so với các tài liệu có liên quan. Trình độ tập luyện là thước đo đánh giá hiệu quả huấn luyện. Tìm hiểu trình độ tập luyện có tác dụng quan trọng đối với việc khắc phục sự mù quáng, nâng cao tính tích cực tự giác của VĐV, điều khiển quá trình huấn luyện 1 cách khoa học (Nguyễn Thành Lâm, 2008). - Aulic I. V. (1992) cho rằng trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng của VĐV để đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao được lựa chọn. Trình độ tập luyện chính là mức độ thích ứng của cơ thể đối với 1 nhiệm vụ cụ thể đạt được bằng con đường tập luyện. X - Theo Nôvicốp A. D. và Mátvêep L. P. (1980), “Khái niệm trình độ tập luyện thường được gắn chủ yếu với những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (về chức năng và hình thái) xảy ra trong cơ thể VĐV dưới tác dụng của các lượng vận động trong tập luyện và được biểu hiện ở sự nâng cao năng lực hoạt động.... Trình độ tập luyện càng cao thì VĐV hoàn thành 1 hoạt động nhất định càng có hiệu quả và hoàn thiện hơn. Do đó, trình độ tập luyện là thước đo mức thích ứng của cơ thể đối với 1 hoạt động cụ thể đạt được qua tập luyện”. - Theo Harre D. (1996), trình độ tập luyện của VĐV thể hiện ở sự nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác. - Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn (2000) đưa ra khái niệm: “Trình độ tập luyện của VĐV đó là kết quả của việc tổng hợp giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn huấn luyện thể thao. Trình độ tập luyện thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể, năng lực hoạt động chung và chuyên môn của VĐV ở mức hoàn thiện các kỹ xảo thể thao phù hợp”. - Theo Trịnh Trung Hiếu và Nguyễn Sỹ Hà (1994): Trình độ tập luyện là trạng thái gắn liền với những biến đổi thích nghi của các đặc tính sinh học trong cơ thể VĐV. Những biến đổ đó xác định mức độ, khả năng của các hệ thống chức năng cơ thể. - Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (1995) cho rằng: “Trình độ tập luyện là mức độ thích nghi của cơ thể đối với hoạt động cụ thể nào đó, đạt được bằng tập luyện đặc biệt. Trình độ tập luyện được xác định thông qua các phương pháp sư phạm, tâm lý và y sinh học. Trình độ tập luyện là một khái niệm tổng hợp, đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể. Nguyên lý cơ bản để xem xét trình độ tập luyện là nguyên tắc tổng hợp, nghĩa là phải xem xét một cách toàn diện tất cả các mặt hoạt động của cơ thể: trạng thái XI sức khỏe, trạng thái tâm lý, trình độ kỹ chiến thuật, trình độ thể lực… Biểu hiện cao nhất của trình độ tập luyện là trạng thái sung sức thể thao, có thể xác định thông qua các chỉ tiêu sinh lý nhất định”. - Theo Nguyễn Ngọc Cừ, Dương Nghiệp Chí (2000): “Trình độ tập luyện là phạm trù đa giá trị, có tính tương đối trừu tượng, tiềm ẩn, không thể nhận biết ngay được bằng trực quan vì nò là tổng hòa những biến đổi thích nghi của vô số các yếu tố thuộc các lĩnh vực khoa học y – sinh, sư phạm và tâm lý diễn ra bên trong cơ thể của VĐV, thông qua quá trình huấn luyện lâu dài,được biểu hiện ra bên ngoài bằng năng lực vận động và thành tích thể thao. Trình độ tập luyện được coi là tiền đề, nền tảng cho sự sáng tạo các thành tích thể thao. Nhưng không phải lúc nào trình độ tập luyện tốt cũng được biểu hiện 1 cách vô điều kiện ra ngoài bằng thành tích thể thao cao bởi lẽ chúng ta không thể lường hết và cũng không thể điều tiết được tất cả những yếu tố chi phối tiêu cực đối với các cuộc thi đấu thể thao”. - Bùi Huy Quang (trong luận án tiến sĩ, 1996) quan niệm: “Trình độ tập luyện của VĐV là khả năng thích ứng ngày càng cao của VĐV, khả năng này đạt được trong quá trình tập luyện và thi đấu, được biểu hiện bằng sự phát triển tổng hợp những năng lực kỹ chiến thuật, tố chất thể lực và tâm lý”. - Theo Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn (2002), trình độ tập luyện là 1 phức hợp gồm nhiều thành tố y – sinh, tâm lý, kỹ chiến thuật, thể lực ngày càng được nâng cao nhờ ảnh hưởng trực tiếp lâu dài của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũnh như các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Khái niệm về quá trình biến đổi lâu dài của trình độ tập luyện luôn luôn gắn liền với các phạm trù “phát triển” và “thích nghi”. XII + Phát triển là một quá trình những biến đổi trạng thái của tất cả các thành tố tạo nên thực thể trong tự nhiên và xã hội diễn ra theo quy luật nhất định. Sự biến đổi các thực thể đó có mối quan hệ tương hỗ về lượng và chất, tính ngẫu nhiên,tính đa dạng của những biến đổi đó theo xu hướng chung và tồn tại lâu dài. Sự phát triển trình độ tập luyện nhờ tác động lâu dài của lượng vận động tạo nên những biến đổi về chức năng và cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thống cơ thể. Tuy nhiên mọi quá trình phát triển đều mang tính tịnh tiến (bước một) thường gắn với các yếu tố có tính chu kỳ. Do đó quá trình phát triển trình độ tập luyện được thực hiện không theo đường vòng, không theo đường thẳng mà dường như theo đường xoáy chôn ốc bao gồm cả các yếu tố đối lập nhau nghĩa là vừa có tính chu kỳ, vừa có dạng tuyến tính (đường thẳng) trong quá trình phát triển của trình độ tập luyện. Nếu xem xét quá trình phát triển trình độ tập luyện ở tầm chu kỳ dài hạn thông qua lăng kính “trạng thái sung sức thể thao”, thì càng cần phải lưu ý tới tính chất xoáy chôn ốc của quá trình phát triển trình độ tập luyện. Theo phạm vi một chu kỳ huấn luyện dài hạn, trạng thái của VĐV thường thay đổi theo quy luật và theo từng giai đoạn: giai đoạn có trạng thái sung sức thể thao (tương ứng với trình độ tập luyện cao) được thay bằng giai đoạn tương đối ổn định và tiếp đến là giai đoạn suy giảm tạm thời trạng thái sung sức thể thao. Ngoài ra mỗi chu kỳ mới, như thường lệ đều có điểm khác so với chu kỳ trước đó ở chỗ sự phát triển trình độ tập luyện ở mức độ cao hơn. Sự phát triển trình độ tập luyện theo từng giai đoạn và mang tính chu kỳ, do vậy tính chất lặp lại là quy luật phổ biến và chung nhất đối với bất kỳ quá trình phát triển trình độ tập luyện nào. + Thích nghi – thích ứng “thích ứng là sự biến đổi của các hệ thống chức năng tâm lý và sinh lý trên 1 trình độ cao hơn,sự thích nghi với các điều kiện chuyên môn bên ngoài. Sự thích nghi về sinh lý và tâm lý luôn XIII được coi là 1 quá trình thống nhất” (Harre D., 1996; Phan Hồng Minh, 2002). Quá trình phát sinh giai đoạn thích nghi cũng gần giống như sự phát triển trình độ tập luyện song giữa trình độ tập luyện và giai đoạn thích nghi cũng có sự khác nhau. Trình độ tập luyện có trạng thái động, nó tạo cơ sở để phát triển không ngừng các thành tích thể thao,trong khi đó giai doạn thích nghi đánh dấu những kết quả đã đạt được của khả năng thích nghi của cơ thể ở mức độ ổn định cụ thể nào đó và giai đoạn này chỉ nói lên khả năng có thể nâng cao lượng vận động lên nữa. Nếu xem xét những luận điểm cơ bản về lý thuyết phát triển trên cơ sở lý thuyết thích nghi chúng ta nhận thấy rằng sự phát triển trình độ tập luyện thực chất là chu kỳ của những phản ứng thích nghi.Như vậy,quá trình thích nghi là 1 trong những mặt quan trọng của quá trình phát triển trình độ tập luyện lâu dài. Trong mỗi chu kỳ phát triển trình độ tập luyện có 1 giai đoạn thích ứng lâu dài với những biến đổi hình thái,chức năng tương ứng trong các cơ quan và hệ thống cơ thể.Những biến đổi về cấu trúc chịu sự tác động nhiều lần không thể diễn ra tức thời mà đòi hỏi 1 thời gian nhất định. Sự biến đổi của trình độ tập luyện theo thời gian không diễn ra theo 1 lộ trình tuyến tính, ngay cả khi nâng lượng vận động tập luyện 1 cách hệ thống,mà diễn ra có tính chất giai đoạn và thang bậc khác nhau. Bởi vậy trong lý luận cũng như trong thực tiễn phải có những thông tin đầy đủ kịp thời về sự biến động diễn ra trong quá trình tập luyện lâu dài của các biến đổi về chức năng, hình thái và sinh hóa trong các cơ quan và hệ thống khác nhau của cơ thể (Nguyễn Thế Truyền, 2001). XIV Từ những khái niệm và quan điểm của các nhà khoa học về trình độ tập luyện, chúng tôi tổng hợp các quan điểm chính về trình độ tập luyện như sau: - Trình độ tập luyện bao gồm nhiều thành phần như: y-sinh, tâm lý, trí tuệ, sư phạm, kỹ chiến thuật, thể lực, thành tích thi đấu. Trong đó chức năng sinh học là nền tảng của trình độ tập luyện. - Nghiên cứu trình độ tập luyện và nghiên cứu những biến đổi thích nghi về hình thái và chức năng diễn ra trong cơ thể VĐV dưới tác động của lượng vận động tập luyện và lượng vận động thi đấu. - Trình độ tập luyện luôn luôn biến động trong quá trình tập luyện. - Thành tích thể thao được xem là yếu tố cơ bản và chung nhất của trình độ tập luyện. Trình độ tập luyện được phân loại gồm: trình độ tập luyện chung và trình độ tập luyện chuyên môn. - Trình độ tập luyện chung được biến đổi hợp lý dưới tác dụng củng cố sức khỏe, nâng cao mức độ phát triển thể lực và các khả năng chức năng của cơ quan, tổ chức cơ thể trong các hoạt động cơ bắp khác nhau. - Trình độ tập luyện chuyên môn là kết quả hoàn thiện của một VĐV trong hoạt động cụ thể được lựa chọn làm đối tượng chuyên môn hóa sâu. Theo khái niệm về cấu trúc nhiều thành phần của trình độ tập luyện, thành tích thể thao được xác định bằng cả một loạt yếu tố và có thể ghép chúng vào một số nhóm. Chính vì vậy có thể nghiên cứu trình độ tập luyện theo các giác độ khác nhau như: sư phạm, tâm lý, y học, xã hội. - Ở giác độ sư phạm của trình độ tập luyện có trình độ kỹ thuật và chiến thuật của VĐV. XV - Ở giác độ tâm lý của trình độ tập luyện cần kể đến các trạng thái tâm lý, các phẩm chất ý chí và đạo đức của VĐV. - Ở giác độ y học của trình độ tập luyện người ta xem xét đến các chỉ số hình thái sinh lý của cơ thể và tình trạng sức khỏe. - Ở giác độ xã hội của trình độ tập luyện xác định ở vị trí của thể thao và của VĐV trong xã hội, nó thể hiện ở điều kiện sống của VĐV, động cơ và về những tính chất khác nhau của tính cách… Nghiên cứu đánh giá trình độ tập luyện của VĐV cần lưu ý tới các chỉ số chịu sự tác động của di truyền như: phản xạ vận động, test nhanh mạnh như bật xa tại chỗ hay có đà, chạy 30m,l ực cơ tương đối, nhịp tim tối đa, lượng oxy hấp thụ tối đa tương đối với trọng lượng cơ thể, hô hấp tế bào, các chỉ số chuyển hóa yếm khí nhưng cũng cần quan tâm đến 1 số các chỉ tiêu chịu ảnh hưởng của môi trường giáo dục, huấn luyện. Khi đánh giá trình độ tập luyện của VĐV cấp cao trong huấn luyện chúng ta nhất định phải định lượng được những thành tố tiềm tàng bên trong cơ thể đó là chỉ tiêu y sinh gồm: hình thái, sinh lý, sinh hóa, sinh cơ đồng thời xác định những thành tố biểu hiện bên ngoài gồm các chỉ số sư phạm về thể lực chung, thể lực chuyên môn, kỹ chiến thuật và những phẩm chất tâm lý của từng VĐV vào các thời điểm sung mãn nhất (trước các cuộc thi đấu quan trọng) (Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn, 2002). Tóm lại, trình độ tập luyện là phạm trù đa giá trị, đó sự tổng hòa những biến đổi thích nghi và phát triển của nhiều yếu tố trong các lĩnh vực y sinh học, khoa học sư phạm, tâm lý học, xã hội học... thông qua huấn luyện lâu dài và được biểu hiện thông qua năng lực vận động và thành tích thể thao. 1.3. Tổng quan về thể thao khuyết tật: 1.3.1. Thể thao khuyết tật – một bộ phận của Văn hóa: XVI Văn hóa là thành tựu về vật chất và tinh thần của con người được cải biến, nhân hóa và phát triển qua nhiều thế hệ. Văn hóa mang tính nhân văn cao, con người là chủ thể chính để hình thành văn hóa, mà con người cũng là những khách thể tác động và cải biến tích cực văn hóa. Thể thao khuyết tật là một chuyên ngành hẹp của văn hóa thể chất (hay thể dục thể thao) bao gồm các hoạt động văn hóa thể chất đặc thù phù hợp cho người khuyết tật tham gia luyện tập. Thể thao khuyết tật bao gồm các bài tập, phương pháp chuyên biệt dành cho các đối tượng khuyết tật khác nhau như: cụt tay, cụt chân, bại não, bại liệt, câm, điếc, khiếm thị, khuyết nội tạng… Thể thao khuyết tật là một bộ phận của văn hóa, mang tính nhân văn, đạo đức và có bản chất xã hội cao. Thể thao khuyết tật có liên quan chặt chẽ với các bộ phận khác của văn hóa, mà đặc biệt là văn hóa tinh thần. Thật vậy, thể thao cho người khuyết tật không chỉ là các phương pháp, phương tiện nâng cao sức khỏe, cải thiện thể chất cho người khuyết tật, mà nó còn có tác dụng hết sức mạnh mẽ về mặt tinh thần, giúp người khuyết tật tự tin hơn trong lao động, học tập, từ đó tự tin hội nhập vào các hoạt động xã hội đời thường. Theo đường lối, chủ trương của Đảng, thể thao khuyết tật Việt Nam mang yếu tố dân chủ và nhân đạo cao. Thể thao khuyết tật Việt Nam thể hiện tính công bằng, dân chủ và thể hiện rõ nét tính dân tộc (Lý Đại Nghĩa, 2006). 1.3.2. Lịch sử phát triển thể thao khuyết tật: Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều môn thể thao dành cho người khuyết tật được hình thành và phát triển. Một số nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển thể thao khuyết tật gồm: XVII - Sự phát triển nhanh chóng của y học đã tạo nhiều cơ hội sống sót cho các chiến binh trong thế chiến. - Sự gia tăng nhu cầu giải trí, sinh hoạt của hàng ngàn thương binh trong cuộc chiến. - Sự phát triển của chuyên khoa chấn thương cột sống. Tháng 2 năm 1944, Giáo sư Sir Ludwig Guttman thành lập Trung tâm chấn thương cột sống tại bệnh viện Stoke Mandeville ở Aylesbury, Anh. Trong quá trình chữa trị cho các bệnh nhân ông thấy rằng thể thao không chỉ là một liệu pháp hồi phục chức năng cho người bệnh mà còn giúp họ đỡ buồn chán. Ông đã tổ chức Giải đua xe lăn đầu tiên dành cho người liệt hai chi. Trong năm 1945, các giải bóng rổ, cầu lông, bắn cung, bóng bàn dành cho người liệt hai chi trên xe lăn đã được tổ chức. Đại hội thể thao trên xe lăn lần đầu tiên được tổ chức tại bệnh viên Stoke Mandeville vào năm 1948 chỉ với 1 môn thi Bắn cung. Chỉ có 2 đội tham dự gồm Stoke Mandeville và nhà mở Star & Garter. Năm sau đó, đã có 5 bệnh viện và nhà mở gửi đội tham dự Đại hội. Đến năm 1952, Đại hội trở thành Đại hội quốc tế Stoke Mandeville (ISMG), khi Đội thương binh Hà Lan đến Anh tham dự Đại hội. Năm 1960 tại Rome, Thế vận hội Olympic người khuyết tật lần đầu tiên được tổ chức thi đấu trên sân vận động Olympic. Kể từ đó, Thế vận hội Olympic người khuyết tật được tổ chức 4 năm 1 lần. Năm 1984, chính thức đổi tên thành Thế vận hội Paralympic cho đến ngày nay. Tổ chức xã hội phi chính phủ quản lý phong trào thể thao khuyết tật trên toàn thế giới là Ủy ban Paralympic quốc tế (IPC). Ngoài quản lý các Ủy ban Paralympic các châu lục và các quốc gia, IPC có 7 Liên đoàn, Hội , tổ chức thể thao khuyết tật đặc thù cấp quốc tế gồm: - Hội thể thao người khiếm thị quốc tế (IBSA). XVIII - Liên đoàn xe lăn Stoke Mandeville quốc tế (ISMWF). - Liên đoàn thể thao và giải trí người bại não quốc tế (CP-ISRA). - Tổ chức thể thao người khuyết tật quốc tế (ISOD). - Liên đoàn thể thao quốc tế dành cho người khuyết tật tinh thần (INAS-FMH). - Hội cưỡi ngựa quốc tế dành cho người khuyết tật (RDI). - Ủy ban thể thao người điếc quốc tế (CISS). Tại Việt Nam, Hiệp hội Paralympic Việt Nam là một tổ chức phi chính phủ chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Hiệp hội thường xuyên tổ chức các Giải thể thao khuyết tật hàng năm và Đại hội Thể thao người khuyết tật toàn quốc (4 năm / 1 lần). Hiện nay, phong trào thể thao khuyết tật đã phát triển mạnh mẽ tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước với các môn thể thao như Đua xe lăn, Điền kinh, Cử tạ, Bơi lội, Kéo co, Cờ… và Judo (Lý Đại Nghĩa, 2006). 1.4. Đặc điểm môn Judo: 1.4.1. Khái lược lịch sử môn Judo: Judo còn được gọi là Nhu đạo được hình thành từ môn võ thuật Jujutsu. Jujutsu là một trong những môn võ thuật đã được hình thành và phát triển tại Nhật Bản trong suốt thời kỳ phong kiến. Jujutsu còn được gọi là Taijutsu hay Yawara, là môn võ thuật với một hệ thống các kỹ thuật đòn tấn công bao gồm ném, đấm, quật, siết, vặn, khống chế đối phương và những kỹ thuật phòng thủ để tránh những đòn thế đó. Mặc dù Jujutsu được biết đến từ rất sớm nhưng cho đến nửa sau thế kỷ 16, Jujutsu mới được truyền bá một cách có hệ thống suốt thời kỳ Edo (1603 – 1868) và được giảng dạy ở một số trường. XIX Jigoro Kano (1860 – 1938), khi còn trẻ ông đã theo học Jujutsu từ nhiều võ sư xuất sắc. Tuy nhiên, mỗi vị võ sư lại thể hiện võ thuật của họ dưới những dạng thức khác nhau và ông thường bị mất phương hướng. Sự đa dạng của các trường phái của Jujutsu bên cạnh không có sự thống nhất đã dẫn đến việc chưa ai có thể lĩnh hội được nguyên tắc chủ đạo phía sau Jujutsu. Điều đó đã khiến ông tìm kiếm một nguyên tắc cơ bản trong Jujutsu, đó là khi nào là lúc thích hợp để tấn công hay phản công đối phương? Sau khi tìm hiểu một cách thấu đáo vấn đề, ông nhận ra một nguyên tắc chung trên hết: “Sử dụng thật hiệu quả năng lượng tinh thần và thể chất”. Cùng với nguyên tắc đó, ông nghiệm lại một lần nữa các kỹ thuật đòn tấn công và phòng thủ mà ông đã được học, chỉ giữ lại những kỹ thuật nào có liên quan đến nguyên tắc ấy, loại bỏ những kỷ thuật không liên quan và nghiên cứu hình thành những kỹ thuật mới áp dụng theo nguyên tắc trên và ông gọi hệ thống kỹ thuật mới này là Judo. Các thuật ngữ Jujutsu và Judo đều được viết bằng hai chữ Trung Quốc. Chữ Ju trong cả hai thuật ngữ trên có nghĩa giống nhau là “nhẹ nhàng” hoặc là “nhu”. Jutsu có nghĩa là “thuật”, “kỹ thuật”, và “do” có nghĩa là “đạo” hay “con đường”. Jujutsu có thể được gọi là Nhu thuật và Judo được gọi là Nhu đạo. Năm 1882, ông Jigoro Kano đã lập ra Kodokan để dạy Judo. Chỉ trong vài năm số lượng võ sinh tăng lên nhanh chóng. Họ đến từ mọi nơi trên khắp đất nước Nhật Bản, nhiều người rời bỏ Jujutsu để sang học Judo. Dần dần Judo đã thay thế Jujutsu ở Nhật Bản. Thế vận hội Olympic 1964 được tổ chức tại Nhật Bản, lần đầu tiên Judo được đưa vào nội dung thi đấu chính thức. Và cho đến nay Judo đã trở thành một trong những môn thể thao được hàng triệu người trên thế giới say mê và tập luyện (Kodokan, 1994). XX
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng