Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tình hình thừa cân béo phì của học sinh trung học cơ sở huyện cai lậy...

Tài liệu Nghiên cứu tình hình thừa cân béo phì của học sinh trung học cơ sở huyện cai lậy, tỉnh tiền giang

.DOC
102
562
70

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC MAI VĂN MÃI NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH THỪA CÂN BÉO PHÌ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN CAI LẬY TỈNH TIỀN GIANG NĂM 2009 LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II 2010 -1- KÝ HIỆU VIẾT TẮT BDNGDXBV : Bề dày nếp gấp dưới xương bả vai BDNGDTĐ : Bề dày nếp gấp dưới cơ tam đầu BMI : Body mass Index (Chỉ số khối cơ thể) BPV : Bách phân vị (percentile) CN/CC FAO : Cân nặng/chiều cao : Food Agriculture Organization (Tổ chức lương - nông) GDP NCHS : Mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người : National Center For Health Statistics (Trung tâm Thống kê Sức khỏe quốc gia) OR : Odd Ratio (Tỷ suất chênh) SD : Standard Deviation (Độ lệch chuẩn) SDD : Suy dinh dưỡng TC-BP : Thừa cân-béo phì TCYTTG : Tổ chức y tế thế giới THCS : Trung học cơ sở VB : Vòng bụng VM : Vòng mông VB/VM : Vòng bụng/vòng mông WHO : World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới ) -2- ĐẶT VẤN ĐỀ : .............................................................................................. Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 1.1. Định nghĩa thừa cân-béo phì ........................................................ 1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của béo phì…………………. 1.3. Phân loại béo phì ........................................................................... 1.4. Các yếu tố liên quan đến thừa cân-béo phì .................................... 1.5. Các hậu quả đối với sức khỏe của béo phì ở trẻ em ....................... 1.6. Dự phòng béo phì ........................................................................... 1.7. Điều trị béo phì trẻ em .................................................................... 1.8. Quá trình nghiên cứu bệnh béo phì ................................................ 1.9.Tình hình trong-ngoài nước thừa cân-béo phì……………………. Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 2.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................... 2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 2.3. Đạo đức nghiên cứu ……………………………………………... Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 3.1. Tình hình thừa cân-béo phì của trẻ em từ 11-15 tuổi tại 5 trường THCS huyện Cai Lậy ...................................................................................... 3.2. Các yếu tố liên quan với thừa cân-béo phì……………………….. Chương 4: BÀN LUẬN-KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ : ................................. 4.1. Tình hình thừa cân béo phì của trẻ em 11-15 tuổi tại 5 trường ….. 4.2. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng béo phì ở trẻ em…… KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC -3- ĐẶT VẤN ĐỀ Trẻ em là tương lai của đất nước “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai ”, do vậy việc chăm sóc sức khỏe trẻ em không chỉ là mối quan tâm của từng gia đình mà còn là sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước, để có một thế hệ có đủ thể lực và trí tuệ tốt. Béo phì và suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em là hai thái cực của một vấn đề. Người ta nhận thấy cả tình trạng thừa cân-béo phì và quá nhẹ cân đều liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong [13], [19], [23], [84]. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em là sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các yếu tố kinh tế-văn hóa-xã hội và môi trường. Cho nên tính chất phổ biến của tình trạng dinh dưỡng được coi là chỉ số hữu ích để đánh giá trình độ phát triển của quốc gia. Dinh dưỡng chiếm một vị trí quan trọng đối với sức khỏe trẻ em, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng trưởng, phát triển, ảnh hưởng đến tình hình bệnh tật và tử vong của trẻ em. Tình trạng thể chất của trẻ không bình thường còn liên quan đến khẩu phần ăn dư thừa, vượt quá mức nhu cầu của trẻ dẫn đến thừa cân-béo phì. Do vậy, khi nói đến “Malnutrition” bao hàm cả “thiếu và thừa” dinh dưỡng [19], [23]. Suy dinh dưỡng là tình trạng thiếu calo và năng lượng trong khi đó thừa cân-béo phì là tình trạng tăng năng lượng thu vào hoặc giảm năng lượng tiêu hao diễn ra trong một khoảng thời gian đáng kể [48]. Tuy nhiên có những yếu tố nguy cơ khác cùng tác động lên mỗi cá thể để làm cho suy dinh dưỡng hoặc béo phì dể xuất hiện [19], [72]. Thừa cân-béo phì đang được tổ chức Y tế thế giới xem xét dưới góc độ là một “nạn dịch toàn cầu” (global epidemic) và người ta cho rằng béo phì xếp đầu tiên của một nhóm được gọi là “các căn bệnh của nền văn minh” (Diseases of civilization) [24], [32], [76], [78]. Việt Nam là nước đang phát triển vì vậy chúng ta đang ở trong xu hướng chung của các nước đang phát triển đó là suy dinh dưỡng cùng tồn tại song hành -4- với béo phì. Nó cũng nói lên rằng chúng ta phải đồng thời can thiệp cùng lúc cho hai mặt của một vấn đề dinh dưỡng như trong chiến lược quốc gia về dinh dưỡng đề ra [5], [13], [19], [84]. Sự hiểu biết về kiến thức dinh dưỡng của trẻ em hiện nay là một vấn đề của toàn xã hội, nó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Nhà nước và sự phối hợp lồng ghép của các ban ngành đoàn thể và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế đóng vai trò tham mưu đắc lực. Một số thống kê gần đây cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì đang ngày càng tăng ở các thành phố lớn [11], [23], [24], [34], [60], [76]. Cai Lậy là 1 huyện nằm về phía tây tỉnh Tiền Giang, dân số 325.982 người gồm 27 xã và 1 Thị Trấn, 90% người dân sống bằng nghề nông nghiệp xen màu, vườn cây ăn trái và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Kinh tế của huyện chủ yếu là trồng lúa, kinh tế vườn, mô hình bệnh tật trước kia chủ yếu là suy dinh dưỡng và các bệnh nhiễm trùng. Hiện nay các bệnh do virus, các bệnh không do nhiễm trùng như: Tim mạch, đái tháo đường, chấn thương do tai nạn có chiều hướng ngày một gia tăng. Tại huyện Cai Lậy trong những năm gần đây chưa có công trình nào nghiên cứu về tỷ lệ thừa cân-béo phì. Nhằm tìm hiểu thực trạng tình hình thừa cân-béo phì ở trẻ em, đặc biệt trẻ em lứa tuổi trung học cơ sở từ 11 đến 15 tuổi, góp phần cung cấp các thông tin cần thiết cho các ban ngành chức năng. Với mong muốn góp phần vào sự đánh giá tình hình thừa cân-béo phì ở trẻ em tỉnh Tiền Giang nói chung và huyện Cai Lậy nói riêng, nhằm có kế hoạch dự phòng hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh thừa cân-béo phì và nâng cao sức khỏe cho trẻ em, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ thừa cân-béo phì của học sinh 5 trường trung học cơ sở huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân-béo phì của học sinh tại các trường trên. -5- Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Định nghĩa thừa cân-béo phì Béo phì là sự tích tụ mỡ bất thường và quá mức tại mô mỡ và các tổ chức khác gây hậu quả xấu cho sức khỏe [68]. Nguyên nhân có thể là thứ phát (nội sinh) hoặc nguyên phát (ngoại sinh) [19], [38]. Cho đến nay, khác với người lớn người ta vẫn chưa có sự nhất trí cao về định nghĩa cũng như trong việc sử dụng các ngưỡng thích hợp để phân định một đứa trẻ là béo phì hay không. Với khái niệm đơn giản được chấp nhận nhiều nhất thì thừa cân (overweight) là một tình trạng tăng quá mức trọng lượng cơ thể so với trọng lượng chuẩn và béo phì (obesity) là tình trạng tăng quá mức mỡ cơ thể một cách cục bộ hay toàn thể [14], [36]. Trên thực tế có thể có một số trẻ thừa cân nhưng không béo phì do sự phát triển quá mức của khối nạc và xương. Sự tương quan chặt chẽ giữa chiều cao và cân nặng trong suốt thời kỳ phát triển trẻ em cho thấy rằng chỉ số cân nặng theo chiều cao (weight for height): W/H có thể là một phương pháp đơn giản để nhận định độ béo gầy [19], [24]. Một quần thể tham khảo đã được TCYTTG khuyến nghị sử dụng trên toàn thế giới từ những năm 1970 là quần thể NCHS (National Center For Health Statistics), Trung tâm thống kê Sức khỏe quốc gia của Hoa Kỳ. Trong các điều tra sàng lọc giới hạn ngưỡng để đánh giá một đứa trẻ là thừa cân khi chỉ số cân nặng theo chiều cao lớn hơn +2SD so với quần thể tham chiếu NCHS/WHO. Một Ủy ban các chuyên gia của TCYTTG cũng đã đưa ra khuyến nghị rằng mối liên quan này thay đổi nhiều theo tuổi, có lẽ là cùng với thời kỳ dậy thì và trưởng thành. Vì vậy chỉ số cân nặng theo chiều cao chỉ nên được sử dụng trong một khoảng tuổi nhất định mà thôi (<9 tuổi). Người ta cũng lưu ý rằng trong điều tra cộng đồng chỉ số cân nặng theo chiều cao cao là đủ đánh giá béo phì, vì đa số cá thể có cân nặng theo chiều cao cao đều béo [19], [34]. -6- Để khắc phục nhược điểm trên, TCYTTG đã khuyến nghị sử dụng chỉ số BMI là một chỉ số thực hành lâm sàng đơn giản được mô tả đầu tiên vào thế kỷ XIX bởi Quetelet. Vì vậy, BMI còn được gọi là chỉ số Quetelet, là một chỉ số kết hợp hai yếu tố cân nặng và chiều cao [19], [34]. Chỉ số BMI ở người trưởng thành gia tăng chậm theo tuổi, vì vậy ngưỡng này không phụ thuộc vào độ tuổi khi đánh giá độ béo gầy. Trái lại ở trẻ em, BMI thực tế thay đổi cùng với tuổi: Gia tăng nhanh chóng ở tuổi sơ sinh, giảm xuống ở tuổi tiền học đường và rồi tăng trở lại suốt thời kỳ thiếu niên và giai đoạn sớm ở người trưởng thành. Chính vì lý do này mà BMI chỉ nên được sử dụng ở trẻ lớn (>9 tuổi) và người trưởng thành, đánh giá chỉ số BMI ở trẻ em cần thiết phải được đánh giá cùng biểu đồ tham khảo liên quan với tuổi và giới (bách phân vị theo giới và tuổi). Bách phân vị (Percentile) là số phần trăm của các cá thể trong nhóm mà những cá thể này đã đạt đến một mức tăng trưởng hoặc một đo lường về lượng nào đó (ứng với một cột cao 95cm). Đối với số liệu nhân trắc, các ngưỡng bách phân vị có thể được tính toán từ trung bình và độ lệch chuẩn.Ở mốc 5,10,25 bách phân vị tương ứng với -1,65SD, -1,3 SD và - 0,7SD [14], [19], [34]. Ở trẻ em, BMI  85 bách phân vị (85th Percentile) so với quần thể tham chiếu NCHS/WHO thì được xem là thừa cân [48] và  95 bách phân vị (95th Percentile) là béo phì. Ngoài ra nếu BMI  85 bách phân vị và bề dầy nếp gấp da > 90 bách phân vị cũng được xem là béo phì [13], [19], [34], [72], [81]. Ngoài ra người ta còn sử dụng việc đo bề dầy nếp gấp da để loại trừ các trường hợp thừa cân do phát triển khối nạc. Hai vị trí là nếp gấp da cơ tam đầu và góc dưới xương bả vai [19], [34]. Gọi là béo phì ở một trẻ vừa có thừa cân vừa có nếp gấp da cơ tam đầu và góc dưới xương bả vai >90 bách phân vị so với quần thể tham chiếu NCHS [19], [34]. Tỷ số vòng bụng/vòng mông (WAIST – HIP – RATIO) và vòng thắt lưng (WAIST CIRCUMFERENCE) cũng có giá trị để đánh giá sự phân bố của mỡ. Hiện chưa có các “ngưỡng” quy ước với vòng bụng. Người ta thấy các nguy cơ bị bệnh đái tháo đường, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim tăng khi vòng bụng -7-  94cm đối với nam,  80cm đối với nữ và tăng lên rõ khi các trị số tương ứng là  102cm và  88cm [2], [8], [19] là béo phì trung tâm. 1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của béo phì Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa năng lượng do thức ăn cung cấp và năng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của cơ thể [72]. Cân nặng cơ thể tăng lên có thể do các chế độ ăn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lượng [68]. Người ta nhận thấy 60-80% trường hợp béo phì là do nguyên nhân dinh dưỡng [19], [72]. Cơ sở sinh lý học của sự điều hòa cân nặng cơ thể là phương trình cân bằng năng lượng: Năng lượng dự trữ = Năng lượng hấp thu – Năng lượng tiêu hao. Một cân bằng năng lượng dương tính xảy ra khi năng lượng hấp thu lớn hơn năng lượng tiêu hao, điều này sẽ kích thích làm gia tăng dự trữ năng lượng và tăng cân [68]. Ngược lại, một cân bằng âm tính xảy ra khi năng lượng hấp thu thấp hơn năng lượng tiêu hao, điều này làm giảm năng lượng dự trữ và giảm cân [13], [14], [19], [34]. Như vậy chỉ khi có cân bằng năng lượng dương tính xảy ra thì mới có khả năng phát triển thành béo phì tức là năng lượng (Calo) đưa vào cơ thể qua thức ăn, thức uống được hấp thu và dự trữ dưới dạng mỡ nhiều hơn là được oxy hóa để tạo thành nhiệt lượng (TCYTTG 2000). Do đó người béo phì cần hạn chế bớt thức ăn giàu năng lượng như chất béo, chất ngọt và cần tăng hoạt động thể lực để tăng cường sử dụng năng lượng, không ăn quá mức cần thiết [19], [71], [73], [85]. Các nghiên cứu về dịch tễ học, di truyền học và sinh thái học phân tử cho thấy nhiều quần thể khác nhau trên thế giới có những người rất dễ nhạy cảm với sự tăng cân và phát triển thành béo phì dễ hơn những người khác. Các yếu tố di truyền, sinh học và các yếu tố cá nhân khác như tuổi, giới, hoạt động các hormone tác động qua lại với nhau tạo nên một cá thể có những đặc tính sinh học trở nên dễ nhạy cảm với sự gia tăng hay là không. -8- - Sự hấp thu năng lượng Năng lượng thu vào là toàn bộ thức ăn và đồ uống mà có thể được chuyển hóa bên trong cơ thể. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng nhất, tính trên mỗi đơn vị trọng lượng thức ăn, carbonhydrate và protein là ít nhất. Năng lượng của chất xơ được ước tính vào khoảng 6,3KJ/g, chất béo: 37KJ/g, rượu: 29KJ/g, protein: 17KJ/g, carbonhydrate: 10KJ/g. Các quan sát trực tiếp về hấp thu năng lượng đều cho thấy người béo phì thường ăn nhiều và ăn nhanh hơn người gầy, sự hấp thu chất béo liên quan chặt chẽ với béo phì ở trẻ em. Sự nở lớn của khối mỡ làm giảm các phản ứng chuyển hóa bù trừ dẫn đến sự tích lũy mỡ nhiều hơn nữa. Hoạt động tĩnh tại tạo nên nhu cầu năng lượng thấp ở trẻ em. Hơn thế nữa hoạt động cơ bắp thấp làm giảm sự oxy hóa chất béo thuận lợi cho việc tích lũy mỡ. - Sự tiêu hao năng lượng Sự tiêu hao năng lượng: yếu tố thứ hai của phương trình cân bằng năng lượng gồm 3 phần chính [13], [19], [74], [83], [87]: + Năng lượng dành cho chuyển hóa cơ bản. + Năng lượng dành cho quá trình sinh nhiệt. + Năng lượng dành cho các hoạt động thể lực. Tùy theo tính chất thường xuyên và mức độ hoạt động thể lực của từng người mà các thành phần cơ bản của sự tiêu hao năng lượng có sự thay đổi khác nhau, những người có mức hoạt động thể lực thấp là tương đồng với sự gia tăng của tỷ lệ béo phì [13], [83]. 1.3. Phân loại béo phì 1.3.1. Dựa theo đặc điểm giải phẫu và sự phân bố của mô mỡ - Béo phì dạng nam (android obesity) hay còn gọi là béo bụng, béo trung tâm, béo phần trên, béo dạng quả táo (apple – shapled), kiểu béo phì này có nhiều nguy cơ bệnh tật [8], [13], [19]. -9- - Béo phì dạng nữ (gynoid obesity) hay còn gọi là béo phần dưới, béo ngoại vi, béo dạng quả lê (pear – shapled), hay béo phần thấp kiểu đàn bà, kiểu ít gây nguy cơ bệnh tật hơn [13], [19]. - Béo phì hỗn hợp: trường hợp này mô mỡ phân bố khá đồng đều. Các trường hợp béo phì nặng và rất nặng thường là béo phì hỗn hợp [13], [19]. 1.3.2. Theo nguyên nhân bệnh sinh - Chỉ có một số ít (10%) béo phì ở trẻ em có nguyên nhân nội tiết hoặc do khiếm khuyết di truyền (còn được gọi là béo phì thứ phát hay béo phì nội sinh), còn lại hơn 90% là béo phì nguyên phát [19]. - Một số bệnh nội tiết có thể gây béo phì, tuy nhiên nguyên nhân này tương đối hiếm gặp như trong hội chứng Cushing, thiểu năng giáp trạng, thiểu năng sinh dục. - Ngoại trừ bệnh cường insulin nguyên phát, các nguyên nhân béo phì thứ phát đều làm trẻ chậm tăng trưởng, thường chỉ số chiều cao theo tuổi thấp hơn 5 bách phân vị. Trong khi đó các trẻ béo phì nguyên phát thường có chiều cao lớn hơn chuẩn. Nói cách khác nếu trẻ béo phì có chiều cao theo tuổi lớn hơn 50 bách phân vị thì không cần khảo sát thêm nguyên nhân của béo phì. Đây là một điểm rất quan trọng trong thực hành lâm sàng. Bảng 1.1. phân biệt giữa béo phì nguyên phát và béo phì thứ phát nội sinh [13], [19]. Yếu tố 1. Tần suất béo phì ở trẻ em 2. Chiều cao 3. Tiền sử gia đình 4. Chức năng tâm thần 5. Tuổi xương 6. Lâm sàng Béo phì nguyên phát > 90% Cao, thường >50 BPV Béo phì thứ phát < 10% Lùn, thường < 5 BPV Gia đình có béo phì Gia đình có béo phì không thường gặp Bình Thường Chậm phát triển Bình thường hoặc lớn Chậm phát triển tuổi hơn so với tuổi xương Kèm các dấu hiệu đặc Bình thường trưng của bệnh nguyên - 10 - 1.3.3. Phân loại béo phì dựa theo khởi phát - Nhìn chung, mọi người thừa nhận rằng béo phì ở trẻ em thường liên quan đến béo phì trưởng thành. Người ta cho rằng ở một giai đoạn nào đó của cuộc đời, cụ thể là khi còn bé và tuổi thiếu niên, sự phát sinh béo phì thường kèm theo sự tăng số lượng các tế bào mỡ kèm theo phì đại tế bào mỡ, loại này khó điều trị [13], [19]. - Béo phì khởi phát ở người lớn thường chỉ có sự gia tăng kích thước (phì đại) tế bào mỡ mà thôi, loại này dễ điều trị [13], [19]. - Do đó béo phì ở trẻ em thường là yếu tố báo trước của béo phì ở người lớn và có sức đề kháng cao đối với điều trị [13], [64], [74]. Nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy có đến 30% số trẻ béo sẽ trở thành người béo khi trưởng thành kèm theo các rối loạn bệnh lý khác liên quan tới béo. Do đó cần đặt riêng và nhấn mạnh vấn đề kiểm soát béo phì ở trẻ em [13], [19], [55], [59], [62]. 1.4. Các yếu tố liên quan đến thừa cân-béo phì 1.4.1. Chế độ ăn giàu lipit hoặc đậm độ nhiệt cao Liên quan chặt chẽ với gia tăng tỷ lệ béo phì. Các thức ăn giàu chất béo thường ngon nên người ta ăn quá thừa mà không biết. Khi vào cơ thể các chất protit, Lipit, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự trữ. Các nghiên cứu cho thấy chỉ cần ăn dư 70 calo mỗi ngày sẽ dẫn tới tăng cân mặc dù số calo nhỏ này có thể không được nhận ra dễ dàng, nhất là khi ăn những thức ăn giàu năng lượng. Vì vậy khẩu phần nhiều mỡ, dù số lượng nhỏ cũng có thể thừa calo và tăng cân [48]. Nhiều nghiên cứu trên trẻ em cho thấy trẻ béo phì thường háu ăn, ăn nhiều lần. Những thức ăn có hàm lượng mỡ cao có vẻ làm ngon miệng hơn, trong khi rau quả làm trẻ dễ chán. Không chỉ ăn nhiều mỡ, thịt mà ăn nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo [19], [48], [58], [73], [85]. Những thức ăn hấp thụ nhanh, đặc biệt là Carbonhydrate còn gây tăng nhanh Glucose, insulin máu, kế đó giảm glucose và gây thèm ăn nhiều hơn. Nhiều tác giả cho rằng việc thích ăn nhiều đường, Snack (giàu béo), những thức ăn nhanh nấu sẵn (hamburger, sausage) và miễn cưỡng ăn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. - 11 - Thói quen ăn nhiều vào bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa trẻ béo và không béo [4], [19]. Một số trẻ có thói quen nhấm nháp thứ gì đó khi thấy mệt mỏi, buồn bã hoặc xúc động. Tiêu thụ đồ ăn nhanh, kể cả khi không thực sự thấy đói, cũng khiến trẻ rơi vào tình trạng tăng cân khó kiểm soát. 1.4.2. Hoạt động thể lực kém Trọng lượng cơ thể trước tiên được điều hòa bởi một loạt quá trình sinh lý nhưng nó cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về nhận thức cũng như yếu tố xã hội bên ngoài. Tuy nhiên yếu tố cơ bản để béo phì trở thành “nạn dịch toàn cầu” chính là các yếu tố xã hội mà dẫn đến sự thay đổi về lối sống, thói quen ít hoạt động thể lực, tăng tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng và có hàm lượng chất béo cao [57], [78], [85]. Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỷ lệ béo phì đi song song với sự giảm hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian dành cho xem tivi và đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại dài, lái xe [67], [75]. Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận trẻ em thừa cân ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn [3], [4], [42], [56], [84]. Phân tích nhận định này cho thấy ngoài tác động do điều kiện kinh tế, trẻ sống từ môi trường thành thị hầu như thiếu cơ hội để vui chơi bên ngoài trong những điều kiện an toàn. Chúng sẽ ở nhà để xem tivi và do buồn chán, chúng sẽ tìm đến thức ăn để được thích thú [4]. Ngược lại, trẻ sống ở nông thôn, nơi mà khí hậu ưu đãi quanh năm cho những hoạt động ngoài trời, thì ít béo hơn. Nhiều tác giả đã xác định: trẻ thừa cân ít hoạt động thể lực hơn trẻ có cân nặng bình thường [4], [60], [66]. Hai yếu tố quan trọng góp phần đó là giảm hoạt động thể lực ở trẻ em trong những xã hội giàu có, hầu như trẻ không cần đi bộ đến trường vì đã có phương tiện vận chuyển và chương trình tivi phát sóng liên tục làm trẻ ngồi xem thụ động, ngay cả những trẻ nhỏ [4]. Năm 1990 ở Mỹ, trẻ 2-5 tuổi xem tivi trung bình 4h/ngày, trẻ 6-11 tuổi xem trung bình 3,5h/ngày. Xem tivi là yếu tố quan trọng làm tăng sự thừa cân của trẻ [2], [19]. Tỷ lệ trẻ 6-11 tuổi thừa cân tăng 2% cho mỗi giờ xem tivi và những đứa trẻ xem trung bình 25giờ/tuần để xem tivi liên quan chặt chẽ với thừa cân là do khi xem - 12 - tivi thường kèm ăn Snack và bản chất của thức ăn này giàu calo [4]. Vì vậy, xem tivi là sự kết hợp của tăng năng lượng ăn vào và giảm năng lượng tiêu hao ở trẻ. Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng. Một nghiên cứu ở học sinh Bắc Ireland cho thấy ở 11 tuổi, trẻ thường có những quan tâm về thể thao, nhưng tới 16 tuổi quan tâm này giảm và các nghề tĩnh tại được trẻ thích hơn, đặc biệt là nữ, những hoạt động nhàn rỗi mà trẻ ưa thích là nghe nhạc, nói chuyện với bạn bè [19]. 1.4.3. Yếu tố kinh tế-xã hội Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ người béo phì ở tầng lớp nghèo thường thấp (thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó khăn) và béo phì như một đặc điểm của giàu có (béo tốt). Ở các nước đã phát triển khi thiếu ăn không còn phổ biến nữa thì tỷ lệ béo phì lại thường cao ở tầng lớp nghèo, ít học so với tầng lớp trên [19], [31]. Nguyên nhân khác nhau này là do ở những nước nghèo, sự tiếp cận thực phẩm hạn chế, nên người béo là biểu hiện của sự giàu có, hấp dẫn giới tính. Người ta tin rằng béo là khỏe mạnh. Ngược lại ở các nước giàu, béo lại bị xem là kém thông minh, chậm chạp và thiếu sự kiềm chế [4], [83]. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy trẻ là con một, con út hay con cả thường được cưng chiều, không có sự tranh giành trong gia đình nên có tỷ lệ dư cân cao [4], [13]. Các nhà tâm lý học cũng nhất trí rằng nhiều cha mẹ nuông chiều và ân cần quá mức trong việc ăn uống của trẻ, dùng những thực phẩm không thích hợp để làm yên những đứa trẻ hiếu động, quấy khóc đã tạo ở trẻ thói quen đòi và tìm ăn những thức ăn này khi buồn chán. 1.4.4. Ngủ ít Yếu tố này cũng được xem như là một nguy cơ cao ở trẻ thừa cân dưới 5 tuổi. Nguyên nhân chưa rõ, nhưng một số tác giả cho rằng kiểu sống gia đình thiếu điều độ từ ngủ tới ăn hoặc do thiếu hoạt động thể lực tạo ra những sóng thấp trên điện não khi ngủ cũng có thể do hoạt động tiêu mỡ của cơ thể là tối đa - 13 - về đêm và sự ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung (Poskitt-EME, 1995). Trong khi ngủ cơ thể tiết ra hormone làm giảm sự thèm ăn. Nếu thức dậy giữa chừng quá trình này bị gián đoạn sẽ làm cho bạn đói cồn cào và rất khó ngủ tiếp nếu không được ăn một chút gì và đó chính là thủ phạm nhanh nhất để tích lũy mỡ thừa [13], [19], [24]. Sự mất ngủ thường xuyên còn ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các hormone đốt cháy calo thừa trong cơ thể bạn. Một nghiên cứu kéo dài 13 năm trên gần 500 người ở Mỹ, tuổi từ 27 đến 40, cho thấy: những người tăng cân nhiều nhất là những người ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi đêm. Một phần nguyên nhân là: thời gian thức dậy giữa đêm càng dày thì xu hướng ăn thêm càng tăng, và sự thiếu ngủ cũng đã thay đổi cả đồng hồ sinh học cũng như hệ sinh hóa tự nhiên trong cơ thể. Các hóa chất và hormone kiểm soát cảm giác thèm ăn rất dễ bị thay đổi khi thời gian ngủ giảm đi dù chỉ một hoặc hai tiếng so với bình thường [19]. Càng béo phì, càng khó ngủ. Đây là một vòng luẩn quẩn, người mất ngủ sẽ bị tăng cân và càng béo thì họ càng khó ngủ hơn. Người béo phì dễ bị ngạt thở lúc ngủ vì các cơ ở họng bị giãn, trùng xuống làm cản trở dòng khí ra vào. Vì thế, họ buộc phải thức dậy một vài giây để dễ thở, sau đó ngủ lại, rồi lại thức giấc. Cứ thế, cái vòng luẩn quẩn này lặp đi lặp lại suốt đêm khiến người béo phì không thể có giấc ngủ sâu [19], [68], [69], [77]. 1.4.5. Yếu tố di truyền Đáp ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai trò nhất định đối với béo phì, những trẻ béo thường hay có cha mẹ béo, tuy vậy nhìn trên đa số cộng đồng yếu tố này không lớn. Theo Mayer J (1995) thì nếu cả bố lẫn mẹ đều bị béo phì thì có 80% con họ sẽ bị béo phì. Nếu một trong hai người có béo phì thì 40% con họ sẽ có béo phì. Ngược lại, nếu cả bố và mẹ bình thường thì khả năng các con bị béo phì chỉ chiếm 7% [19], [34], [71]. 1.4.6. Do gen Có người rất dễ bị tăng cân, trong khi có trường hợp chẳng cần lo giữ gìn mà trọng lượng vẫn không thay đổi trong nhiều năm. Gen là yếu tố tạo sự khác biệt này [19]. Các nhà khoa học đã nhận dạng nhiều loại gen làm tăng hoặc làm - 14 - giảm cảm giác thèm ăn, khiến một số người chóng đói hơn so với người khác, hoặc cần phải ăn nhiều hơn mới đủ no. Đó chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng ăn quá nhiều và tăng cân. 1.4.7. Lối sống tĩnh tại Xem tivi thật ra không gây nên thay đổi trong tốc độ chuyển hóa của trẻ, nhưng tăng thời lượng xem tivi đồng nghĩa với tăng thời gian không hoạt động. Hoạt động ở đây cả lao động chân tay và trí óc. Những người hoạt đông thể lực nhiều thường ăn thức ăn giàu năng lượng, khi họ thay đổi lối sống, hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ăn nhiều cho nên dễ bị béo [23]. 1.5. Các hậu quả đối với sức khỏe của béo phì ở trẻ em ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG Sự nhạy cảm của cá thể Kiểu hoạt động thể lực và chế độ ăn Hấp thụ Tiêu hao Chất béo Đường bột Đạm Tăng cân Duy trì cân nặng Giảm cân Hoạt động thể lực Sinh nhiệt Chuyển hóa cơ bản Dự trữ mỡ cơ thể Sơ đồ 1.1. Các sự ảnh hưởng lên cân bằng và điều hòa năng lượng - 15 - Béo phì là một đơn vị bệnh lý độc lập đồng thời là một trong những yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mạn tính không lây như bệnh mạch vành (CHD), bệnh đái tháo đường týp 2 [45]. Các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mạn tính không lây (non commiucable disease NCD) là hút thuốc lá, béo phì, tăng huyết áp và tăng Cholesterol máu [19], [20], [23], [39], [54], [57]. Béo phì làm gia tăng nguy cơ bệnh tật và tử vong [8], [18], [19], [22], [40], [61]. Các hậu quả xấu về sức khỏe của người béo phì rất nhiều và rất khác nhau. Các nguy cơ này được sắp xếp từ những nguy cơ làm chết yểu cho đến những nguy cơ tuy không nguy hiểm chết người nhưng lại làm kém đi chất lượng cuộc sống [19]. Các hội chứng liên quan với béo phì ở trẻ em liên quan đến vấn đề tâm lý xã hội [43], phát triển quá nhanh, dậy thì sớm, gia tăng khối mỡ tự do, rối loạn lipit huyết, gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch, gan nhiễm mỡ, bất thường trong chuyển hóa glucose. Các hậu quả ít gặp hơn gồm các biến chứng về hình thể (orthopeadic complication), khó thở tắc nghẽn lúc ngủ [68], [69], [77], khối giả u não, bệnh buồng trứng đa nang, sỏi mật. Hậu quả lâu dài và quan trọng nhất của béo phì ở trẻ em là sự tồn tại dai dẵng cho đến tuổi trưởng thành. Có khoảng 80% trẻ em béo phì sẽ trở thành béo phì lúc trưởng thành cùng với tất cả bệnh tật đồng hành của nó [74]. 1.5.1. Các hậu quả về tâm lý xã hội Hậu quả thường thấy ở trẻ béo phì tại các nước nông nghiệp phát triển là chức năng tâm lý-xã hội nghèo nàn [43], [57]. Trẻ lớn thường liên hệ gán ghép giữa thân hình quá cở với 1 sự thiếu thành đạt trong cuộc sống [69], [75], [80], [82]. Béo phì ở thiếu niên cũng có thể liên quan với những khó khăn trở ngại về kinh tế và xã hội sau này [82]. Một nghiên cứu tiến cứu (prospective study) rộng lớn ở Hoa Kỳ đã cho thấy những phụ nữ mà đã bị béo phì lúc còn trẻ tuổi thường - 16 - có thu nhập thấp hơn, tỷ lệ nghèo khó thiếu thốn cao hơn so với nhóm cũng từng bị các bệnh mãn tính khác trong thời trẻ [32], [82]. 1.5.2. Các nguy cơ về tim mạch Rối loạn lipit huyết, tăng huyết áp, đề kháng với insulin thường thấy ở trẻ béo phì [1], [26], [33], [57], [61], [76], [80]. Tình trạng béo phì ở trẻ em là một yếu tố tiên đoán các mức lipoprotein, lipit huyết, huyết áp sẽ trở nên cao hơn sau này [20], [57], [73]. Chính vì thế béo phì hiện nay là vấn đề sức khỏe cấp bách nhất, vấn đề này có thể đe dọa làm nghịch đảo thành quả của loài người trong ½ thập kỷ qua trong việc đẩy lùi bệnh tim mạch. 1.5.3. Các biến chứng tại gan và dạ dày Người ta đã báo cáo các biến chứng về gan ở trẻ em béo phì, đặc biệt là tình trạng gan nhiễm mỡ (hepatic steatosis) cùng với sự tăng men transaminase. Các bất thường này liên quan với sỏi mật. Tuy thế tình trạng này hiếm gặp ở trẻ em nhỏ và thiếu niên [8], [19], [32], [74]. Chứng trào ngược dạ dày – thực quản, rối loạn làm rỗng dạ dày ở béo phì có thể là hậu quả của việc gia tăng áp lực bên trong ổ bụng do lượng mỡ bên trong bụng quá nhiều [74]. 1.5.4. Bệnh đái tháo đường Có mối liên quan chặt chẽ giữa béo phì và bệnh đái tháo đường týp 2. Đường huyết được duy trì tương đối hằng định nhờ hoạt động điều hòa của hệ thần kinh và nội tiết. Trong đó, insulin là hormone duy nhất làm giảm đường huyết. Khi bị béo phì khả năng làm giảm đường huyết của insulin giảm nhất là những người béo bụng, chính vì vậy tế bào gan tăng sản xuất glucose, trong khi tế bào cơ và mô mỡ lại giảm tiếp nhận glucose, gây tăng đường huyết. Để thích ứng với mức đường huyết cao hơn bình thường như vậy, tuyến tụy tăng cường sản xuất insulin, đến một thời điểm nào đó, khi lượng insulin không đủ sức để khống chế đường huyết, các triệu chứng của bệnh đái tháo đường xuất hiện. Chính vì vậy, người béo dễ mắc bệnh đái tháo đường hơn so với người có cân nặng bình thường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là người béo nào cũng mắc - 17 - bệnh đái tháo đường, bởi vì sự xuất hiện của bệnh cần có thời gian và còn phụ thuộc khả năng thích ứng của cơ thể [1], [8], [36], [53], [59], [84]. Nguy cơ đái tháo đường týp 2 tăng lên liên tục khi BMI tăng và giảm đi khi cân nặng giảm. Một nghiên cứu gần đây cho thấy có thể giảm tới 64% trường hợp đái tháo đường týp 2 ở nam và 74% ở nữ nếu BMI không vượt quá 24. Các nguy cơ trên tiếp tục tăng lên khi: - Béo phì ở thời kỳ trẻ em và thiếu niên. - Béo bụng. Khi cân nặng giảm, khả năng dung nạp glucose tăng, sự kháng lại insulin giảm [8], [19]. 1.5.5. Các biến chứng về hình thể (orthopeadic complication) Các biến chứng nặng bao gồm chứng cong xương đùi do bị đè nén bởi cơ thể quá nặng, bệnh Blount (biến dạng xương là hậu quả từ việc phát triển quá mức xương chày) [74]. Các biến chứng nhẹ hơn gồm có tật chân vòng kiềng (genuvalgum) và chứng dễ trẹo cổ chân [56], [72]. 1.5.6. Các biến chứng khác Bao gồm chứng khó thở tắt nghẽn lúc ngủ [8], [68], [69], [77] và khối giả u não (Pseudotumor Cerebri) [58], [74]. Khó thở tắt nghẽn lúc ngủ có thể giảm thông khí phổi, thậm chí gây đột tử trong các trường hợp nặng [74]. Khối giả u não là một bệnh tâm lý hiếm gặp với triệu chứng tăng áp lực nội sọ, cần phải được điều trị kịp thời. 1.5.7. Béo phì làm tổn thương bàn chân trẻ Gần đây người ta đã khảo sát ở những trẻ bị thừa cân-béo phì và đã nhận thấy ở những trẻ béo phì, bàn chân dài hơn và rộng hơn so với trẻ bình thường. Ngoài ra trẻ béo phì, sự thừa cân khiến cho cấu trúc bàn chân biến dạng, lâu ngày sẽ dẫn đến những bệnh lý ở lưng và chân [19]. 1.6. Dự phòng béo phì Béo phì trẻ em cũng gần như béo phì ở người lớn. Điều trị và ngăn ngừa thành công béo phì lúc còn nhỏ sẽ làm giảm nguy cơ béo phì khi trưởng thành. - 18 - Điều này sẽ giúp làm giảm nguy cơ của bệnh tim mạch và các bệnh khác [19], [50], [57], [73], [77]. Dự phòng béo phì là một trong những biện pháp hiệu quả nhất và ít tốn kém hơn là để bị béo phì rồi mới điều trị. Để dự phòng béo phì trước mắt phải tuyên truyền những kiến thức cơ bản cho cộng đồng hiểu để cùng tham gia, ngoài ra còn có sự phối hợp hết sức chặt chẽ giữa các ban ngành như y tế, giáo dục, gia đình và xã hội [38], [54], [62]. Để dự phòng thừa cân-béo phì, cần chăm sóc tốt cho trẻ từ trong bào thai để tránh thiếu hoặc thừa dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh, cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cai sữa sau 2 năm. Nếu phải nuôi con bằng sữa bò không nên thêm đường và tinh bột, khi ăn dặm, thức ăn phải được bổ sung các vi chất dinh dưỡng để giúp tăng trưởng tối đa [13]. Điều quan trọng là theo dõi tăng trưởng của trẻ ở mọi lứa tuổi qua chỉ số cân nặng/chiều cao. Như vậy cha mẹ là người sẽ phát hiện sớm suy dinh dưỡng hoặc thừa cân-béo phì để xử trí kịp thời [13], [68], [69], [72]. Ở các nước đang phát triển có giải pháp đơn giản để kiểm soát thừa cânbéo phì bằng cách giáo dục từng cá nhân và cộng đồng thay đổi thói quen về hoạt động thể lực và cải thiện chế độ ăn [57], [71]. Như vậy dự phòng đem lại hiệu quả và rẻ tiền hơn nhiều so với việc điều trị béo phì. Các can thiệp nhằm mục tiêu kiểm soát và dự phòng béo phì phải được thiết kế một cách cẩn trọng để tránh làm bùng nổ các rối loạn liên quan đến ăn uống do sự lo sợ quá mức bệnh béo phì, đặc biệt ở lứa tuổi mới lớn [60], [62], [66], [77], [85]. 1. Dự phòng tăng cân 2. Khuyến khích duy trì cân nặng hiện tại 3. Kiểm soát bệnh tật đồng hành với béo phì 4. Khuyến khích giảm cân Người ta áp dụng 3 mục tiêu dự phòng sau đây: - Dự phòng cho cộng đồng: (Dự phòng toàn dân) - 19 - + Dự phòng trực tiếp lên tất cả mọi người trong cộng đồng. Nhằm tuyên truyền dinh dưỡng hợp lý và lối sống lành mạnh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tại nơi làm việc, thông qua trường học và các tài liệu giảng dạy, tập huấn qua mạng lưới của các câu lạc bộ và trung tâm của cộng đồng. + Các can thiệp thiết yếu: Nâng cao kiến thức của cộng đồng về mối nguy hại của thừa cân-béo phì và 2 giải pháp quan trọng ngăn ngừa thừa cân-béo phì được xác định rõ đó là: Nâng cao hoạt động thể lực và cải thiện chất lượng bữa ăn. Hạn chế những thức ăn chế biến sẵn có đậm độ năng lượng cao, nhiều chất béo đang thay thế dần những thức ăn truyền thống (TCYTTG 2000) [61], [66], [72], [73], [86]. - Dự phòng chọn lọc: Dự phòng trực tiếp lên các cá nhân và các nhóm có nguy cơ cao bị béo phì. Tuyên truyền sâu hơn để các đối tượng hiểu rõ và có thể tự giải quyết các nguy cơ. - Dự phòng có mục tiêu: là nhằm đến cá nhân đã bị thừa cân thực sự và những người tuy chưa bị béo phì nhưng có những chỉ dấu sinh học cho thấy có sự thừa chất béo quá mức. Dự phòng trẻ bị thừa cân không trở thành béo phì lúc trưởng thành là một mục tiêu chiến lược dự phòng này. Chiến lược dự phòng thừa cân-béo phì trong cộng đồng bao gồm các biện pháp phối hợp như sau [82]: - Tăng cường hiểu biết của cộng đồng về béo phì và các bệnh mạn tính không lây có liên quan đến béo phì [19]. - Khuyến khích chế độ ăn uống hợp lý: Chế độ ăn calo thấp, cân đối, ít béo, chú trọng cân đối giữa các loại chất béo no và chất béo không no có nhiều nối đôi và một nối đôi, ít đường, đủ đạm, đủ vitamin, khoáng chất và nhiều rau quả theo nhu cầu đề nghị cho từng lứa tuổi [19]. - Khuyến khích các hoạt động thể lực và lối sống năng động [57], [71]. - Áp dụng các giải pháp cải thiện môi trường góp phần kiểm soát thừa cânbéo phì. Những lời khuyên hướng tới phòng thừa cân-béo phì như: + Ăn phối hợp nhiều loại thực phẩm. - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất