Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tình hình nhiễm hivaids của phạm nhân trong trại giam k1 cái tàu, tỉn...

Tài liệu Nghiên cứu tình hình nhiễm hivaids của phạm nhân trong trại giam k1 cái tàu, tỉnh cà mau năm 2009

.PDF
91
176
124

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đại dịch HIV/AIDS là căn bệnh nguy hiểm đang tiếp tục phát triển nhanh và lan rộng cả ở Việt Nam cũng như nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nó không chỉ là mối đe doạ nghiêm trọng đến sức khoẻ, mà còn gây nguy hiểm cho tính mạng con người, nó làm phá vở cấu trúc gia đình và ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh chính trị của mỗi quốc gia. [6], [12], [46], [54] . Dịch HIV/AIDS liên tục phát triển cả về không gian lẫn thời gian và nó trở thành một đại dịch gia tăng vượt quá sự kiểm soát của loài người [11]. Đã hơn 20 năm kể từ khi nhân loại phát hiện ra HIV, đại dịch HIV/AIDS đã cướp đi sinh mạng của hơn 25 triệu người và trở thành một trong những vụ dịch tồi tệ nhất được ghi nhận trong lịch sử [18], [59] . Xu hướng phát triển đại dịch này đang bùng phát mạnh ở các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, đặc biệt là những nước ở Châu Phi - vùng cận Sahara, tiếp đến là khu vực Caribê và vùng Nam Á và Đông Nam Á [21]. Qua hơn 20 năm đấu tranh với đại dịch, tuy đã có những thành công nhất định, nhưng đến nay trên toàn cầu vẫn chưa có khả năng ngăn chặn được tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS. Sự nguy hiểm của HIV/AIDS là chưa có thuốc phòng ngừa và điều trị [15], [35], [54]. Theo Tổ chức Y tế giới và Chương trình Phối hợp của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS đến 31/12/2007 toàn thế giới đã có khoảng 33,2 triệu người đang sống với HIV/AIDS. Đồng thời trong năm 2007 số ca mới nhiễm HIV là 2,5 triệu người và số ca tử vong do AIDS là 2,1 triệu người [9], [37], [59], [71]. Ở Việt Nam, kể từ ca HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 12 năm 1990 tại TP. Hồ Chí Minh thì đến 31/12/2009 toàn quốc đã phát hiện tổng số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 156.802, trong đó có 34.391 trường hợp bệnh nhân AIDS còn sống và đã có 44.232 người chết do AIDS [7]. 2 Tại Cà Mau, luỹ tích từ đầu vụ dịch (1994) tính đến ngày 31/12/2009, trong tỉnh Cà Mau đã giám sát phát hiện được 2.629 cas nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 262 cas, tử vong 72 cas. Hiện đã có 9/9 huyện, thành phố, 85% xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh có người nhiễm HIV/AIDS [51], [48]. Trong đó chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi từ 20 - 39 tuổi (chiếm 83,5%) và tập trung ở nhóm đối tượng phạm nhân (5,32%), ma tuý (chiếm 7,48%), mãi dâm (3,7%), điều này cho thấy sự phát triển dịch HIV/AIDS ở nhóm đối tượng có nguy cơ cao chưa thể kiểm soát được là rất đáng lo ngại [50]. Cùng với sự phát triển của dịch HIV/AIDS trong cộng đồng, số trường hợp nhiễm HIV ngày càng tăng trong trại giam. Trong khi hiện nay, ngành y tế tỉnh Cà Mau chưa thể đánh giá chính xác có bao nhiêu phạm nhân nhiễm HIV trong trại giam cũng như có hành vi nguy cơ liên quan đến tệ nạn NCMT hay MD, mức độ thường xuyên của các hoạt động này trước khi vào trại như thế nào, hay mức độ hiểu biết các biện pháp mà họ đang sử dụng để tránh lây nhiễm chéo HIV giữa các phạm nhân trong trại với nhau. Trước nhu cầu có được những số liệu để làm căn cứ đánh giá những hiểu biết và khả năng phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, đặc biệt là lây nhiễm chéo trong các nhóm phạm nhân với nhau sẽ góp phần xây dựng kế hoạch can thiệp giảm tác hại phù hợp với thực tế, nhằm giúp cho đối tượng phạm nhân khi còn trong trại cũng như về đoàn tụ gia đình sau này tránh được hiểm họa của đại dịch HIV/AIDS hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu tình hình nhiễm HIV/AIDS của phạm nhân trong Trại giam K1 Cái Tàu, tỉnh Cà Mau năm 2009”, nhằm 2 mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS ở phạm nhân trong Trại giam K1 Cái Tàu. 2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm HIV. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM HIV/AIDS 1.1.1. Khái niệm về HIV HIV là thuật ngữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh (Human Immunodeficiency Virus), để chỉ một loại virus gây suy giảm miễn dịch ở người [15], chính là nguyên nhân gây bệnh AIDS thuộc họ Retrovirus. Tất cả các Retrovirus đều thể hiện một loại đặc tính chung cho nhóm, đó là: có hai sợi ARN, có lớp vỏ bao phủ bên ngoài, sử dụng AND để tái sinh sản hay nhân lên và ẩn trong AND của tế bào chủ. Các Retrovirus phải chuyển ARN của chúng thành AND để có thể tái sinh sản hay nhân lên, quá trình này gọi là sao mã ngược. Thông qua quá trình này, HIV gắn vật liệu di truyền của mình vào AND của tế bào chủ. Nhờ đó, khi tế bào chủ tái tạo vật liệu di truyền của mình, nó đồng thời tái tạo vật liệu di truyền của virus. Bằng cách này, virus sử dụng tế bào chủ như một nhà máy để sản xuất vật liệu di truyền cho nó, cho phép nó tạo ra nhiều virus hơn [2], [11], [37]. HIV là loại Retrovirus được Montagier và cộng sự phát hiện lần đầu tiên trên thế giới năm 1983 bằng kỹ thuật hiển vi điện tử, phát hiện enzym phiên mã ngược trong nước nổi nuôi cấy tế bào, miễn dịch huỳnh quang và kết quả miễn dịch phóng xạ. HIV gây nhiễm lựa chọn các tế bào lympho trong đó có CD4 (tế bào T hỗ trợ) gây suy giảm miễn dịch và dẫn đến các nhiễm trùng cơ hội, ung thư, tử vong. HIV cũng gây nhiễm các đại thực bào, các tế bào khác của hệ thần kinh trung ương và có thể dẫn đến mất trí. Mặt khác khi gắn vào AND của tế bào vật chủ, virus có thể tồn tại tìm tàng trong nhiều năm mà không biểu hiện lâm sàng hay triệu chứng nào[15]. 4 1.1.2. Khái niệm về AIDS AIDS (Acquired Immuno Deficiency Syndrom) là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, trên cơ sở phát hiện của Michael Gottlieb Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh tật ở Atlanta của Mỹ được mô tả lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1981 trên một số trường hợp nam thanh niên đồng tính luyến ái bị viêm phổi không điển hình do pneumocystis carini [35], [15]. 1.2. SƠ LƢỢC VỀ LỊCH PHÁT HIỆN HIV/AIDS 1.2.1. Phát hiện virus HIV Phát hiện lâm sàng suy giảm miễn dịch mắc phải trước phát hiện mầm bệnh vì vậy quan sát lâm sàng là vô cùng quan trọng và cũng thường gặp trong lịch sử y học ví dụ điển hình là viêm gan B [36]. Trước đây vào thập kỷ 80 – 90 còn gọi là hội chứng miễn dịch mắc phải do HIV vì có những hội chứng suy giảm miễn dịch bẩm sinh khác như hội chứng teo tuyến ức bẩm sinh gây suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào do thiếu Lympho T gọi là hội chứng DiGeorge như hội chứng Bruton do suy giảm Lympho B nên trong máu không có gamma globulin hay kết hợp cả suy giảm miễn dịch tế bào và thể dịch điển hình là hội chứng Wiskott-Aldrich. Từ 2000 trở đi thống nhất gọi là bệnh do nhiễm HIV (Virus gây suy giảm miễn dịch ở người) mã số phân loại quốc tế ICD-10 là B20, B24. Về gen thì HIV là một ARN virus, họ Retroviridae. Dưới nhóm Lentivirus. HIV là 1 nhóm gồm 2 týp HIV1 và HIV2 phân biệt trên đặc tính huyết thanh và trình tự phân tử của clone genome của virus [36]. 1.2.2. Diễn biến phát hiện virus HIV Tháng 6/1981 Trung tâm kiểm soát các bệnh truyền nhiễm ở Atlanta của (Mỹ) Bác sĩ Michael Gottlieb phát hiện năm người đồng tính luyến nam giới bị nhiễm trùng pneumocystis carini ở Los Angeles (Mỹ) do suy giảm miễn dịch 5 mắc phải đồng thời với BS Friedman Alvin phát hiện một bệnh nhân mắc sarcoma Kaposi vốn lành tính mà chết do suy giảm miễn dịch mắc phải. Sau đó nhiều nơi cũng công bố lần lượt những ca đầu tiên trên những bệnh nhân ưa chảy máu đã phải truyền máu nhiều lần, tiêm chích ma tuý cũng có dấu hiệu suy giảm miễn dịch mắc phải. Những trương hợp lâm sàng nói trên đã gợi ý tìm nguyên nhân hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải [35], [36]. Từ năm 1982 nhiều nơi lần lượt công bố căn bệnh tương tự gặp trên bệnh nhân ưa chảy máu, bệnh bệnh nhân phải truyền máu nhiều lần, những người nghiện chích ma tuý, những người mẹ và đứa con do họ đẻ ra… Điều này củng cố thêm giả thuyết cho rằng căn nguyên gây bệnh có thể là một loại virus (giống virus viêm gan) lây truyền qua đường máu, đường tình dục và mẹ truyền sang con. Cùng trong năm 1982 dựa trên 100 ca AIDS đầu tiên được thông báo, Trung tâm CDC đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về các tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán một ca AIDS, khi chưa có xét nghiệm tìm căn nguyên [35]. Năm 1983 Bare Sinoussi trong kíp nghiên cứu của Luc Mongtanier (Viện Pasteur Paris) lần đầu tiên do một nhóm các nhà khoa học Pháp phân lập từ máu của một bệnh nhân. Họ gọi nó là virus có liên quan đến bệnh hạch nên đặt tên là LAV (Lymphadenopathy Associated Virus), virus gây viêm hạch bạch huyết [36], [37]. Năm 1984 Robert Gallo và các nhà khoa học Mỹ cũng phân lập được một virus ái tính với lympho T của người nên đặt tên là HTLV týp III (Human Tcell Lymphotropic Virus týp III hay HTL V-III) gây bệnh AIDS và gọi nó là virus hướng vào tế bào lympho T ở người. Cùng năm Levy phân lập được một virus có liên quan đến hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải và đặt tên là ARV (Aids related virus) [36], [37]. Cùng năm 1984, Levy phân lập được 1 virus, gọi là ARV (AIDS related virus), virus có liên quan với AIDS [35]. 6 Năm 1985 Ba-Rin và cộng sự phân lập được một HIV thứ 2 đặt tên là HIV2 ở Tây Phi. HIV2 có những đặc tính rất giống với virus gây suy giảm miễn dịch ở khỉ viết tắt là SIV [35], [36]. Năm 1986, các nhà khoa học Pháp lại phân lập một loại virus khác ở Tây Phi cũng gây suy giảm miễn dịch ở người gọi là HIV-2. HIV-2 có cấu trúc kháng nguyên khác với HIV-1. Trong đó HIV-1 phân bố trên khắp thế giới thì HIV-2 chỉ khu trú ở một số nước ở Tây Phi và Tây Ấn Độ. So với HIV-1 thì HIV-2 có thời gian ủ bệnh dài hơn, nguy cơ lây truyền thấp hơn và cũng diễn biến nhẹ hơn [14], [37]. Đến hội nghị định danh quốc tế năm 1986 thì cả ba virus mang tên LAV, HTLV týp III, ARV về thực chất cả 3 loại trên đều là một loại virus mà sau đó đã thống nhất gọi nó là HIV (Human Immunodeficiency Virus) tysp 1 hay HIV-1 [35], [36]. HIV có 2 týp 1 & 2 (HIV1) có mặt trên toàn thế giới [36]. 1.2.3. Có thể đề xuất là HIV đã có từ thập kỷ 60 với những chứng cứ nhƣ sau HIV1 đã dương tính với bệnh phẩm cất giữ từ 1959 tại Zaire và cũng phân lập được HIV1 từ bệnh phẩm cất giữ cũng tại Zaire năm 1976. Về HIV2 nghiên cứu dịch tễ học có thể có ở Tây Phi từ 1966. Sở dĩ phải làm sáng tỏ vấn đề này vì khi có dịch HIV xuất hiện đã có nghi vấn HIV là sản phẩm trong labo vì tính chất đặc biệt của HIV so với các vi sinh vật phát hiện được từ trước đến nay [36]. 1.3. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CƠ BẢN CỦA VIRUS HIV 1.3.1. Đặc trƣng của HIV HIV là ARN virus có men sao chép ngược mà bản chất là ARN polymerase phụ thuộc vào ADN của tế bào HIV thâm nhập vì vậy mới thuộc họ Retroviridae. Nhờ men sao chép ngược nên khi xâm nhập tế bào có thể tổng hợp ADN 2 vòng. ADN mới tạo này đoạn cuối hai đầu đều có đoạn cuối 7 dài tự lặp lại (long terrminal repeat) nhờ vậy gắn được ổn định vào nhiễm sắc thể, ADN của tế bào và trở thành 1 tiền virus (provirus). Provirus này sẽ như một gen của tế bào nhiễm virus có thể tồn tại thầm lặng không phát triển và truyền sang cho thế hệ tế bào sau khi có phân bào, hoặc nhờ men ribonuclease của tế bào bị nhiễm đễ tạo ra ARN truyền tin giúp tạo các protein của virus để hình thành 1 virus hoàn chỉnh [36]. 1.3.2. Cấu trúc hình dạng và genome của HIV Cấu trúc HIV có đường kính 1/10.000 mm được chia thành 2 lớp chính như sau: - Vỏ là màng lipid trên đó có các gai nhú glycoprotein (GP), đặc biệt là GP 120 và GP 41 có tính kháng nguyên cao. - Lõi có chứa một số thành phần chính như protein lõi, men phiên mã ngược (RT) và ARN vật liệu di truyền của HIV [11], [2], [37]. Kết hợp hình ảnh kính hiển vi điện tử của các thành phần virus với sinh hoá và miễn dịch phân tích các thành tố cấu thành của HIV có thể hình dung cấu trúc virus HIV hoàn chỉnh có hình cầu đường kính 80 -120nm. Từ ngoài vào trong có 3 lớp [36] Bao ngoài: Là một màng lipid kép lấy từ màng tế bào HIV thâm nhập lúc trồi ra ngoài tế bào (budding). Bao ngoài những gai nhú (spike) khoảng 72 cái theo lý thuyết của Gelderblom. Gai nhú là một glycoprotein có độ dài 8-10nm, chiều rộng 14nm, trọng lượng 160 kilodaton (kDA) gồm hai thành phần. Vỏ trong (capside): Lớp ngoài hình cầu cấu tạo bởi phân tử protein có trọng lượng phân tử là 18 kDA P18. Lớp trong hình trụ cấu tạo bởi phân tử protein có trọng lượng phân tử là 24 kDA P24. Nhân của virus HIV: Capsid bao bọc 2 sợi riêng rẽ HIV ARN mỗi sợi có 9 gen. Có khoảng 9.200 cặp ba-zơ. 8 Nhóm gen cấu trúc: Gen. gag, pol, env chứa thông tin để cấu trúc virus mới. Gen. gag (group antigen) kháng nguyên đặc hiệu nhóm mã hoá cho các protein lõi (P24. p7). Nhóm gen điều hoà: Sáu gen điều hoà tat, nef, vif, vpr, vpu chứa thông tin để điều hành khả năng HIV thâm nhập tế bào sản sinh virion HIV mới. Hình 1.1. Cấu trúc của virus HIV 1.3.3. Quá trình xâm nhập vào cơ thể ngƣời và nhân lên của virion HIV Đường lây HIV đã xác định rất rõ - Quan hệ tình dục nhất là quan hệ đồng giới nam - Qua tiêm chích hoặc dụng cụ xuyên da đặc biệt là TCMT cùng chung BKT. - Qua truyền máu không sàng lọc loại máu nhiễm HIV cũng như sản phẩm thương mại từ máu mà không sàng lọc loại nhiễm HIV. - Từ mẹ sang con từ trong bào thai, trong khi đẻ và mẹ cho con bú nếu mẹ nhiễm HIV. HIV có thể thâm nhập vào nhiều loại tế bào của cơ thể có cluster CD4 (cluster là phân tử có trên mặt tế bào để xác định độ trưởng thành của tế 9 bào) nhưng hàng đầu là lympho TCD4 có chức năng hỗ trợ kích hoạt hệ miễn dịch trên bề mặt có phân tử CD4 có trọng lượng 55kDA. TCD4 cũng có vai trò lưu giữ HIV khi HIV ở dạng nằm yên trong TCD4 [36]. Hệ miễn dịch của cơ thể mà chủ yếu là các tế bào lympho giúp cho cơ thể chống lại mọi tác nhân gây bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể. Trong đó, tế bào lympho T4 đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Virus có thể sống sót và tồn tại trong suốt cuộc đời của người bị nhiễm HIV và họ có thể làm lan truyền sang người khác. Virus có thể ở trong trạng thái ngũ trong nhiều tháng, thậm chí trong nhiều năm. Nhưng nếu tế bào nhiễm HIV bị hệ thống miễn dịch của cơ thể hoạt hóa để chống lại một bệnh khác, HIV sẽ bắt tự nhân lên và tiếp tục gây nhiễm cho các tế bào khác [11], [37]. 1.3.4. Sức đề kháng HIV đề kháng với nhiệt độ lạnh, tia gamma, tia cực tím. Sống được 3 ngày trong máu bệnh nhân nếu để ở ngoài trời. Virus có thể sống vài ngày ở bên ngoài cơ thể trong điều kiện khô và vài tuần trong dung dịch ở nhiệt độ phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, virus rất nhạy cảm với nhiệt độ và các chất tẩy uế thông thường, Virus bị bất hoạt ở pH = 1 hay pH = 13. Đun nóng 560 C, trong vòng 30 phút trong môi trường ẩm ướt virus dễ bị tiêu diệt [2], [37], [26]. 1.4. CÁC PHƢƠNG THỨC LÂY TRUYỀN HIV Bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy nhất của nhiễm HIV. Không có tổ chức nhiễm trùng tự nhiên ở động vật, tất cả mọi người nam hay nữ, người lớn hay trẻ em đều có khả năng cảm nhiễm với HIV. Người ta đã phân lập được HIV từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ thể. Mặc dù có sự phân bố rộng lớn như vậy của HIV trong cơ thể, nhiều nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy rằng chỉ có máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo đóng vai trò quan trọng trong việc làm lây truyền HIV. Do đó, chỉ có 3 phương thức làm lây truyền HIV [37]. 10 1.4.1. Lây truyền theo đƣờng máu HIV có mặt trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương và các yếu tố đông máu. Do đó HIV có thể được truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường truyền máu có tỷ lệ rất cao trên 90%. HIV cũng có thể truyền qua việc sử dụng chung BKT bị nhiễm HIV mà không diệt trùng cẩn thận, đặc biệt ở những người NCMT theo đường tĩnh mạch. Ngay cả khi chỉ có một lượng máu nhỏ còn sót lại trong BKT và được tiêm vào máu cũng làm lây truyền HIV. Khi tiêm, người TCMT thường hút ít máu vào bơm tiêm trước khi tiêm. Sau đó nếu BKT đó được dùng chung với một người khác thì máu có nhiễm HIV sẽ đi thẳng vào máu của người đó. Việc sử dụng các dụng cụ tiêm, chích, chữa răng, phẫu thuật, ... trong y tế mà không được tiệt trùng cẩn thận cũng có khả năng làm lây truyền HIV. Cách lây truyền theo đường này cũng giống như đối với viêm gan B. Trong khi chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS, HIV có trong máu và dịch tiết của họ có thể lây qua da bị tổn thương, xây xước, hay bị sơ ý làm kim tiêm có chứa máu nhiễm HIV đâm phải [11], [1], [2], [37]. 1.4.2. Lây truyền theo đƣờng tình dục Đây là phương thức lây quan trọng và phổ biến nhất trên thế giới. HIV lây truyền qua giao hợp với người nhiễm HIV. Sự lây truyền xảy ra qua tình dục khác giới giữa nam và nữ: giao hợp âm đạo - dương vật là lây truyền từ nam sang nữ và từ nữ sang nam. HIV cũng có thể lây truyền QĐTD đồng giới nam theo đường giao hợp dương vật - hậu môn. Nhiễm HIV có mối quan hệ chặt chẽ với các nhiễm khuẩn lây truyền theo đường tình dục đặc biệt là các bệnh viêm loét như hạ cam, giang mai. Những bệnh này làm tăng cảm nhiễm với HIV và làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV có thể lên gấp 20 lần. Những vết loét ở đường sinh dục cho phép virus xâm nhập vào máu. Một số bệnh như 11 herpes simplex và giang mai làm giảm khả năng miễn dịch và có thể làm tăng tính cảm nhiễm với HIV. Dịch tiết từ các vết loét và dịch tiết của tử cung và âm đạo có chứa nhiều đại thực bào, bạch cầu đơn nhân và tế bào T bị nhiễm HIV [11], [1], [2], [37]. 1.4.3. Truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ chu sinh Các nghiên cứu cho thấy rằng HIV đã được phân lập trong TB của bánh rau và máu của bào thai lúc 8 tuần tuổi và HIV được phân lập ở nhiều tuần sau đó. Một nghiên cứu nhiễm HIV ở trẻ sinh đôi cho thấy rằng trẻ sinh ra trước có nhiễm HIV cao hơn. Điều này gợi ý khả năng lây truyền xảy ra từ mẹ sang con trong khi đẻ. Lây truyền HIV có thể xảy ra trong lúc mang thai, trước, trong và một thời gian ngắn sau đẻ. Nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con khác nhau tùy từng nước, từ 13 – 32% ở các nước công nghiệp phát triển, 25 – 48% ở các nước đang phát triển. Xếp theo thứ tự, nguy cơ lây nhiễm HIV giảm dần như sau: Nhận máu bị nhiễm HIV;Trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV; Dùng chung BKT với một người nhiễm HIV; Sinh hoạt tình dục theo đường hậu môn với bạn tình bị nhiễm HIV; Sinh hoạt tình dục theo đường âm đạo với bạn tình bị nhiễm HIV; Sinh hoạt tình dục theo đường miệng-bộ phận sinh dục với bạn tình bị nhiễm HIV; Tiếp xúc với các vật phẩm bị nhiễm HIV ở nhân viên phòng thí nghiệm hay nhân viên y tế [11], [1], [2], [37]. Các nghiên cứu và kinh nghiệm cho thấy rằng HIV không lây truyền do tiếp xúc hàng ngày, do ôm hoặc hôn, qua thực phẩm hoặc qua nước, hoặc do muỗi và các côn trùng đốt (chích) khác [24]. 1.5. CHẨN ĐOÁN HIV Một huyết thanh của một người được coi là dương tính với HIV khi mẫu đó dương tính cả số lần XN bằng ba loại sinh phẩm với các nguyên lý và kháng nguyên khác nhau (phương cách 3). Chỉ những XN đạt tiêu chuẩn được Bộ Y tế cho phép mới được quyền thông báo kết quả XN HIV dương tính [7], [37]. 12 1.6. CÁC PHƢƠNG PHÁP XÉT NGHIỆM HIV 1.6.1. Các xét nghiệm phát hiện kháng thể HIV 1.6.1.1. Các thử nghiệm sàng lọc - Kỹ thuật ngưng kết hạt vi lượng SERODIA – HIV - Kỹ thuật miễn dịch gắn men ELISA: Được dùng để chẩn đoán xác định HIV * Kỹ thuật ELISA, phát hiện kháng thể IgG – HIV: Dễ thực hiện, đặc hiệu cao, được sử dụng thường qui. * Kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể IgA - HIV, tính đặc hiệu cao, nhưng độ nhạy hạn chế có giá trị chẩn đoán HIV ở trẻ dưới 1 tuổi. * Xét nghiệm kháng thể IgM – HIV độ nhạy thấp nên ít dùng. * Các kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân phản ứng với kháng nguyên HIV trong ống nghiệm. Nếu các kháng thể HIV tồn tại, phản ứng dẫn tới thay đổi màu, khi đó kết quả dương tính. Độ nhạy và độ đặc hiệu đối với các phản ứng miễn dịch gắn men là trên 90%. * Các âm tính giả xuất hiện khi xét nghiệm được làm trong vài tuần đầu vì kháng thể chưa thực sự hình thành ở giai đoạn này của bệnh. * Các kết quả dương tính giả thường phối hợp với các bệnh tự miễn dịch, bệnh thận, đa thai, bệnh gan, lọc máu và đã tiêm chủng phòng viêm gan B, dại hay cúm. 1.6.1.2. Các thử nghiệm khẳng định - Thử nghiệm miễn dịch điện di Western Blot - Thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang (Immuno - Fluorescence Asay IFA) - Kỹ thuật kết tủa phóng xạ (Radio - Immuno - Precipiation Assay RIPA). - Thử nghiệm miễn dịch giả băng (Line Immunoasay - LIA). 13 Những protein tái tổ hợp và hay những peptit tổng hợp được tẩm vào những dải băng mẫu đặt trên những mảnh giá đỡ bằng plastic hay nitrocellulose và được tiến hành xét nghiệm theo một cách tương tự như thử nghiệm miễn dịch thấm [2], [37]. 1.7. TÌNH HÌNH NHIỄM HIV TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.7.1. Tình hình dịch HIV/AIDS trên thế giới Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) và chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về phòng, chống HIV/AIDS (UNAIDS) đến 12/2007, toàn thế giới có khoảng 33,2 triệu người đang sống với HIV. Trong đó Châu Mỹ có khoảng 2,9 triệu trường hợp nhiễm HIV, Đông Âu và Trung Á 1,6 triệu, khu vực có người nhiễm HIV nhiều nhất là ở cận Sahara Châu Phi, hơn 22,5 triệu. Nam Á có 4 triệu trường hợp chủ yếu là ở Ấn Độ và Thái Lan. Ở các khu vực khác, mức độ bị nhiễm là tương đối thấp. Hàng ngày ước tính: Khoảng 5.700 người chết vì AIDS. Khoảng 6.800 người mới bị nhiễm HIV, trong đó khoảng 95% ở các nước nghèo và trung bình. Nam giới và nữ giới bị nhiễm bằng nhau và 50% là thanh thiếu niên từ 15 - 24 tuổi [37], [71]. Trong một phần tư thế kỷ kể từ khi những trường hợp nhiễm bệnh AIDS đầu tiên được biết đến tại Hoa kỳ, 25 triệu người đã chết vì căn bệnh này và ngày nay gần 35 triệu người trên khắp thế giới đang nhiễm virus HIV, một nửa trong số này là phụ nữ [11], [37]. Theo báo cáo của UNAIDS, Sahara Châu Phi là nơi có số người nhiễm HIV cao nhất trên thế giới, chiếm 2/3 (63%) tổng số người lớn và trẻ em đang sống với HIV trên toàn cầu [52], tiếp đến là Châu Á Thái Bình Dương với 8,3 triệu người nhiễm HIV. Tuy nhiên, Đông Âu và Trung Á đang là khu vực có tốc độ lây nhiễm nhanh nhất thế giới. Các dịch vụ tiếp tục gia tăng ở Đông Âu, Trung Á và Đông Á [37], [58], [72]. 14 Quốc gia bị ảnh hưởng nhất là nước Swaziland bé nhỏ nơi 1/3 người lớn bị nhiễm HIV. Tuy nhiên Kenya và Zimbabwe được báo cáo là con số nhiễm HIV tại đây đã có giảm bớt. Nam Phi vẫn là nước có số người nhiễm HIV cao nhất tại Châu Phi: 5,5 triệu người lớn mang virus HIV. Ấn Độ đã vượt qua Nam Phi để trở thành quốc gia có nhiều người sống chung với HIV cao nhất thế giới. Số ca có HIV ở quốc gia đông dân thứ nhì hành tinh hiện chiếm 2/3 tổng số ca nhiễm loại virus chết người này trên toàn Châu Á. Ước tính đến cuối năm 2005, có 5,7 triệu người Ấn Độ sống chung với HIV. Tuy nhiên, tỷ lệ số người lớn có HIV ở quốc gia Nam Á này là 0,9%, thấp hơn rất nhiều so với Nam Phi (18,8%). Campuchia và Thái Lan đã giảm tỉ lệ nhiễm bệnh nhưng UNAIDS cho biết Việt Nam, Indonesia và Papua New Guinea đang là điểm đáng lo ngại. Việc sử dụng ma túy đang là nguyên nhân dẫn tới tình trạng gia tăng người nhiễm AIDS tại Nga và Ukraina [37], [71]. 1.7.2. Tình hình dịch HIV/AIDS tại Việt Nam 1.7.2.1. Bối cảnh kinh tế - Xã hội ở Việt Nam Tại thời điểm trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện, xã hội Việt Nam đang bắt đầu một quá trình biến đổi sâu sắc, mà cho đến ngày hôm nay hơn 10 năm sau sự kiện đó, chúng ta vẫn chưa thể đánh giá hết được những hệ luỵ của dịch HIV/AIDS. Tất cả khởi đầu từ đường lối đổi mới kinh tế được khởi động vào cuối năm 1996 và bắt đầu phát huy ảnh hưởng từ 1989 - 1990. Với đường lối đó, có thể nhận thấy trước hết là sự thay đổi về chính sách cho phép nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Với khẩu hiệu “cởi trói”, “bung ra”, các hoạt động kinh tế tư nhân dần dần được phép hoạt động, phát triển để đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đa dạng và tăng của dân cư.. Đường lối mở cửa và làm bạn với tất cả các quốc gia cũng tạo điều kiện cho người Việt Nam có cơ hội lớn hơn trong việc tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Dưới tác động của những 15 đường hướng mới này, một số thay đổi cơ bản đã diễn ra tại Việt Nam. Ngoài những ảnh hưởng tích cực, tất cả những yếu tố kể trên đều có một hệ luỵ không mong đợi và ở một số chừng mực nào đó các tệ nạn XH có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Số lượng người nghiện hút tăng nhanh và cùng với nó là sự gia tăng các hoạt động liên quan tới việc buôn bán và vận chuyển ma tuý [3]. 1.7.2.2. Đặc điểm dịch tể học của HIV/AIDS Từ năm 1994, Hệ thống giám sát DTH đã cung cấp các số liệu thường kỳ về HIV/AIDS ở Việt Nam. Tính đến thời điểm cuối năm 2000, dịch HIV ở Việt Nam hiện tại vẫn đang trong giai đoạn tập trung, với tỉ lệ hiện nhiễm cao nhất được phát hiện trong các nhóm quần thể chính có nguy cơ cao, đó là những người TCMT, phụ nữ mại dâm (PNMD) và nam tình dục đồng giới (MSM). Tỷ lệ nhiễm HIV trong dân cư nói chung, ước tính khoảng 0,53%. Số liệu từ Cục phòng chống HIV/AIDS đến tháng 12/2007 cho biết: “cả nước đã phát hiện 112.880 người nhiễm HIV/AIDS, trong đó 19.261 người đã chuyển sang AIDS và có 11.247 người tử vong do AIDS”. Người nhiễm HIV xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố, 96% trong tổng số các quận/huyện và hơn 60% trong tổng số các xã/phường trên toàn quốc. Trong số các ca nhiễm HIV được báo cáo có 83,16% ở độ tuổi từ 20 - 39. Nam giới chiếm 82,77% trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện. Số người trẻ nhiễm HIV ngày càng gia tăng và sự lây truyền QĐTD khác giới bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Có sự khác biệt lớn về thời gian xuất hiện dịch HIV tại các địa phương của Việt Nam. Dịch HIV xuất hiện đầu tiên ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam với dịch HIV đầu tiên trong nhóm những người NCMT lớn tuổi, nhiều người đã nghiện từ trước năm 1975 và chủ yếu sử dụng thuốc phiện. Vụ dịch thứ hai trong nhóm những người NCMT được ghi nhân ở các tỉnh phía Bắc trong các năm 1996 - 2000 trong nhóm nam giới trẻ tuổi, sử dụng heroin. Đến tháng 12/1998 dịch HIV đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh thành trong 16 cả nước. Theo báo cáo của Bộ Y tế cuối năm 2000, so sánh tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên số dân thì số người nhiễm tại TP Hồ Chí Minh dẫn đầu, chiếm 15%. Các Trung tâm Lao động, Giáo dục và Điều trị cho những người sử dụng ma túy và mại dâm ngày càng trở nên quan trọng đối với tình hình dịch HIV ở Việt Nam. Ước tính đến cuối năm 2006, có 42.000 người sử dụng ma túy (chiếm khoảng ¼ tổng số người sử dụng ma túy được báo cáo) đang sống tại 84 Trung tâm trên toàn quốc[11], [37]. 1.7.3. Ƣớc tính và dự báo HIV/AIDS tại Việt Nam Tính đến ngày 30/11/2006 luỹ tích các trường hợp nhiễm HIV được báo cáo trên toàn quốc là 116.240 người, trong đó có 20.151 trường hợp đã chuyển thành AIDS và 11.765 bệnh nhân đã tử vong do AIDS. Theo kết quả giám sát trọng điểm năm 2006, tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất trong nhóm người TCMT khoảng 22,27%, tỷ lệ nhiễm HIV trong GMD là 4,08%, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm thanh niên khám tuyển NVQS là 0,12%, PNMT là 0,32%. Ước tính có khoảng 220.000 người nhiễm HIV ở Việt Nam trong năm 2007. Chương trình điều trị ARV sẽ kéo dài thời gian sống của người nhiễm HIV, số lượng người nhiễm HIV ở Việt Nam được ước tính sẽ tăng lên 254.000 người (0,29%) vào năm 2010 và 280.000 người (9,31%) vào năm 2012. HIV sẽ tiếp tục lây nhiễm nhiều ở nam giới và phụ nữ trưởng thành. Số lượng nam giới nhiễm HIV năm 2007 cao hơn 3 lần so với phụ nữ, mặc dù tỷ số này sẽ giảm xuống còn 2,6 lần vào năm 2010 do lây nhiễm HIV từ nam giới bị nhiễm HIV sang vợ và bạn tình của họ. Trẻ em dưới 15 tuổi bị nhiễm HIV chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn trong tổng số người bị nhiễm HIV với 3.750 trường hợp được phát hiện nhiễm HIV vào năm 2007. Tuy nhiên, với chiều hướng tăng lên của số lượng người nhiễm HIV, theo ước tính số trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV sẽ là 5.700 trẻ vào năm 2012, điều này cũng đặt ra một yêu cầu cấp thiết cho các dịch 17 vụ chẩn đoán sớm trẻ bị nhiễm HIV, từ đó nhằm cung cấp cho chúng các dịch vụ chăm sóc và điều trị kịp thời. Phòng lây truyền từ mẹ sang con cần thiết phải được mở rộng để ngăn ngừa việc có thêm nhiều trẻ em bị nhiễm HIV do việc tăng lên của số lượng phụ nữ mang thai nhiễm HIV, từ 4.100 trong năm 2007 lên 4.800 vào năm 2012. Trong năm 2007 chỉ có dưới 40% phụ nữ có thai nhiễm HIV nhận được điều trị ARV hoặc các chăm sóc, điều trị khác [11], [37]. Dự báo đến năm 2010, Việt Nam có khoảng 311.500 người nhiễm HIV và có khoảng 72.970 bệnh nhân cần tiếp cận điều trị thuốc kháng HIV; trong đó 93,5% bệnh nhân tiếp cận phác đồ bậc 1 và 6,5% bệnh nhân cần tiếp cận phác đồ bậc 2 [8]. Nhìn chung, Việt Nam vẫn đang còn trong giai đoạn dịch tập trung ở nhóm người có nguy cơ cao [1], [52]. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm NCMT được dự báo sẽ ổn định ở những tỉnh, thành phố đã bùng phát dịch bệnh sớm, bao gồm Cần Thơ, Tp.Hồ Chí Minh, 56% ở Quảng Ninh. Tỷ lệ ổn định không có nghĩa là các chương trình dự phòng có thể được thu hẹp lại. Nói cách khác, điều này chỉ ra rằng việc lây nhiễm HIV vẫn cần phải được kiểm soát bằng các chương trình dự phòng hiệu quả [11], [37]. 1.7.4. Tình hình nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Cà Mau Tình hình nhiễm HIV/AIDS Luỹ tích từ đầu vụ dịch (1994) đến ngày 31/12/2009 trong tỉnh Cà Mau đã giám sát phát hiện được 2.629 cas nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 262 cas, tử vong 72 cas. Nhiễm HIV/AIDS ở Cà Mau chủ yếu tập trung trong nhóm tuổi từ 20 - 29 tuổi (chiếm 54,8%) và có chiều hướng chuyển dịch từ nhóm tuổi 20 - 29 sang nhóm tuổi 30 - 39 tuổi (chiếm 28,3%). Phân bố người nhiễm HIV theo giới đã có thay đổi, tỷ lệ nữ giới nhiễm HIV gia tăng qua các năm với tỷ lệ nam/nữ xấp xỉ 2/1, đặc biệt trong năm 2009 tỷ lệ nữ giới nhiễm HIV gần bằng nam giới với tỷ lệ nam/nữ là 53,4/46,6%. Đường lây truyền HIV chủ yếu lây 18 truyền qua đường quan hệ tình dục không an toàn. Hiện nay đã có 9/9 huyện, thành phố và 85% số xã và thị trấn trong toàn tỉnh có người nhiễm HIV/AIDS. Đặc điểm nhiễm HIV ở Cà Mau không còn giới hạn ở đối tượng mại dâm, ma tuý, phạm nhân, mà nó còn lan ra cả đối tượng khác như: Cán bộ công nhân viên chức, láy xe, ngư phủ, lực lượng vũ trang, nông dân, phụ nữ mang thai…[8]. §-êng m¸u, 9.00% §-êng t×nh dôc, 43.50% MÑ truyÒn sang con, 1.20% Kh«ng rá, 46.30% Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ đường lây truyền dịch HIV/AIDS [54]. Tình hình dịch HIV/AIDS từ năm 2005 đến 2009 tại tỉnh Cà Mau: - Năm 2005: Tổng số người nhiễm HIV được phát hiện trong năm 2005 là 281 cas, số tích lũy là 2.434, số bệnh nhân chuyển sang AIDS tích lũy từ đầu vụ dịch làn 209 cas, tử vong là 116 cas [39]. - Năm 2006: Tình hình dịch HIV/AIDS có xu thế tăng, trong năm 2006 phát hiện 383 người nhiễm HIV (2005 là 281 người), lũy tích toàn tỉnh là 2.743 người. Trong đó: Người ở Cà Mau: 793, số người nhiễm HIV/AIDS ở Cà Mau được quản lý, điều trị: 136 người [40]. - Năm 2007: Tổng số người nhiễm HIV mới 300, số luỹ tích 2.600. Trong đó: Người ở Cà Mau: 992 người. Số người chuyển sang AIDS 10, lũy 19 tích 225, tại Cà Mau 52 người. Số người tử vong do AIDS: 8, lũy tích 125 người [41]. - Năm 2008: Tổng số người nhiễm HIV mới: 252, số luỹ tích: 2.417. Trong đó: Người ở Cà Mau: 1.097 người. Số người chuyển sang AIDS: 60, lũy tích: 205, người tại Cà Mau: 147 người. Số người tử vong do AIDS: 2, lũy tích: 49 người, người tại Cà Mau: 40 [42]. - Năm 2009: Tổng số người nhiễm HIV mới: 249, người tại tỉnh Cà Mau: 214; số người nhiễm HIV luỹ tích: 2.660, người tại tỉnh Cà Mau: 1.340. Số người chuyển sang AIDS: 58, lũy tích: 263. Số người tử vong do AIDS: 12, lũy tích: 62 người [43]. Bảng 1.1. Tỷ lệ nữ giới nhiễm HIV gia tăng qua các năm [8], [54]. Giới Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 % % % % % Nam 72,91 68,91 72,56 64,9 53,4 Nữ 27,09 31,09 27,44 35,1 46,6 1.7.5. Tình hình nhiễm HIV/AIDS tại trại giam K1 Cái Tàu tỉnh Cà Mau Công tác phòng, chống HIV/AIDS là một trong những chương trình y tế trọng tâm của y tế trại. Tuy nhiên chương trình này luôn gặp khó khăn rất lớn đó là kinh phí cho chương trình, mặc dầu vậy y tế trại đã tranh thủ sự giúp đỡ của y tế địa phương hổ trợ một phần kinh phí đáng kể trong các năm qua, giúp trại giải quyết một phần khó khăn của chương trình [49].. 1.8. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ MA TÚY 1.8.1. Khái niệm Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp. Khi đã vào cơ thể con người nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của 20 người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ bị lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng [37]. 1.8.2. Phân loại chất ma túy Có nhiều cách phân loại, sau đây là một số dạng phân loại cơ bản: - Một là căn cứ vào nguồn gốc ma túy, ma túy được chia làm ba nhóm: ma túy tự nhiên, ma túy bán tổng hợp, ma túy tổng hợp. - Ma túy tự nhiên là các chất có nguồn gốc tự nhiên như thuốc phiện và các sản phẩm của thuốc phiện như morphine, codein, coca và các hoạt chất của nhóm cocain, cần sa và các sản phẩm của cần sa. - Ma túy bán tổng hợp là các chất ma túy được điều chế từ các chất là sản phẩm tự nhiên bằng cách cho tác dụng với một số hóa chất để thu được chất ma túy có tác dụng mạnh hơn chất ma túy ban đầu. Ví dụ: heroin... - Ma túy tổng hợp là các chất ma túy được điều chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học toàn phần từ các hóa chất (được gọi là tiền chất). Ví dụ: methadone (dolophin), dolargan... - Hai là căn cứ vào mức độ gây nghiện và khả năng lạm dụng, ma túy được chia ra hai nhóm: Ma túy có hiệu lực cao và ma túy có hiệu lực thấp. Đó là các loại như amphetamin, methamphetamin, nhựa thuốc phiện, lá cây cần sa... - Ba là dựa vào tác dụng sinh lý trên cơ thể con người, ma túy được chia ra làm tám nhóm gồm: nhóm thuốc phiện và các chế phẩm, nhóm cần sa và các sản phẩm của cần sa, nhóm coca và các sản phẩm của coca, nhóm thuốc ngủ, nhóm các chất an thần, nhóm các chất kích thích, nhóm các chất gây ảo giác điển hình, nhóm dung môi hữu cơ và thuốc xông. - Bốn là căn cứ vào nguồn gốc của ma túy và cơ chế tác động dược lý, các chuyên gia của Liên hợp quốc đã thống nhất phân chia ma túy thành 5 nhóm sau [37]:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng